PDA

View Full Version : Góc sân và khoảng trời



minh_anh
24-08-2012, 08:56 AM
Ngay từ khi còn đi học lớp 1, mới lên 8 tuổi, thơ Trần Đăng Khoa đã được đăng báo và những bài thơ của anh thời ấy đã được tập hợp để in thành một tập thơ dày dặn cũng đã rất nổi tiếng. Tập thơ có tên Góc sân và Khoảng trời.

Năm 1968, khi Trần Đăng Khoa tròn 10 tuổi, Góc sân và Khoảng trời được in lần đầu, gồm 52 bài với số lượng 10.000 cuốn; năm 1973, Góc sân và Khoảng trời được bổ sung thành 66 bài, in với số lượng lên tới 50.000 bản. Thế là từ đấy, tập thơ này mỗi năm đều được bổ sung thêm và in lại nhiều lần ở nhiều nhà xuất bản khác nhau. Cho đến lần in năm 2002 là lần thứ 50, một con số có lẽ là kỷ lục cho những cuốn sách được tái bản nhiều lần ở nước ta.


http://img.photo.yume.vn/photo/pictures/20120328/tungsonbtv/thumbnail/604x604/gsvkt_1890782015.jpg


Giới thiệu cuốn sách Góc sân và khoảng trời - Trần Đăng Khoa


TRƯỜNG TIỂU HỌC GIA TÂN THƯ VIỆN
******* o0o*******

Giới thiệu cuốn sách: "Góc sân và khoảng trời"
Các bạn thân mến!
Hẳn trong con người chúng ta mỗi người đều theo đuổi một mục đích, lý tưởng rất riêng, nhưng có lẽ không ai là không biết yêu cái hay, cái đẹp. Ở đó có tình yêu thương đất nước, con người và cả những điều thân thuộc, giản dị xung quanh ta. Hôm nay tôi xin giới thiệu với các bạn một con người điển hình như thế qua tập thơ của ông - "Góc sân và khoảng trời" - Ông là nhà thơ Trần Đăng Khoa.
Tập thơ "Góc sân và khoảng trời" của nhà thơ Trần Đăng KHoa được nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2006 với 242 trang, khổ 13 x 20,5 cm. Bìa sách được in màu, ta thấy nổi bật ở đây là một nhành cây, chỉ một nhành cây không hoa, không lá, chỉ duy nhất một giọt nước bám vào và nếu như bạn đọc để ý kĩ sẽ thấy một chồi non vừa nhú biểu hiện một sức sống trẻ và tinh khiết biết bao nhiêu - như chính tâm hồn thơ của "cậu bé Khoa" vậy.
Với 141 bài thơ được tuyển chọn và giới thiệu, chắc hẳn trong chúng ta ai cũng biết hay đã từng nghe nói về một "góc sân và khoảng trời" của "cậu bé Khoa" chứ không phải của Trần Đăng Khoa - một nhà thơ lớn và đầy bản lĩnh như ngày nay.
Góc sân ấy là thế giới đầu tiên của "bé Khoa", khoảng trời ấy là cái vũ trụ tí hon của Khoa. Ở đây là những nhân vật giản dị thôi nhưng mượm sắc thần tiên của hồn con trẻ. Mảnh sân nhỏ ấy là nơi "bé Khoa" đã nói:
Em thường rải cái nong
Ra góc sân ngồi học
Những đem có trăng mọc
Em chơi cho đến khuya.
Từ trò "xỉa cá mè", "mèo đuổi chuột"... rồi cũng từ đây những ước mơ của em bắt đầu nảy nở:
Vẽ cô tiên lặng lẽ
Rải hoa trên bầu trời
Thế là bao đồng lúa
Cứ chín vàng, vàng tươi...
Một tưởng tượng rất thật về một vụ muà bội thu, một cái đẹp từ những thành quả sao mà yêu đến thế!
Dường như tại góc sân này, thứ gì với Khoa cũng đẹp, cũng đáng yêu. Từ:
Con bướm vàng
Bay nhẹ nhàng
Em thích quá
Em đuổi theo...
"Con bướm vàng/ Con bướm vàng" mở đầu bài thơ "Con bướm vàng" là bướm từ đằng xa bay tới, to dần. Cũng láy lại hai lần ở phần kết là bướm đã bay đi, nhỏ dần; em bé vừa thích thú, lại vừa tiếc.
Trong thơ "bé Khoa" có tình yêu thiên nhiên và cả tình yêu đất nước. Khoa đã nhìn xa hơn, nhìn về đất nước khi giặc Mỹ ngày đêm rình rập, đào xới đất nước ta. Nhưng các bạn thấy không, trong con mắt thơ trẻ của "em Khoa" đất nước mình, làng quê mình sao mà đẹp thế, hiên ngang thế:
Ao trường vẫn nở hoa sen
Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu
(Em kể chuyện này)
"Chiến thắng của Việt Nam hát lên, cao hơn tiếng bom, trong những câu thơ của bé Khoa"
Năm 1968, khi "cậu bé Khoa" lên mười em đã kể chuyện giặc Mỹ rơi xuống cánh đồng làng mình; mọi người chạy ra, cả nhà Khoa chạy ra:
Chị em xách khẩu súng
Bé Giang mang que đời
Con chó vàng mang hàm răng nhọn hoắt
Em không biết mang gì
Vớ ngay hòn đá
Chân em ngắn quá
Phải chạy nhanh mới tới nơi
Nhưng tới nơi thì giặc Mỹ đã chết rồi. Các bạn thân mến! Chúng ta đọc đoạn thơ lên và nghĩ xem, những câu thơ thật hồn nhiên mà lại sắc sảo, cái nhìn rất tinh tế, cảm nhận rất cụ thể:
Tay còn giơ lên trời
Răng cửa rụng hết
Cái ngực nát bét
Ô! Nó cùng giống người
Mà sao ở trên trời
Nó ác thế!
Trong gia đình, với mẹ, với bà tình cảm của "bé Khoa" cũng là tấm gương cho đến giờ vẫn khiếm các em nhỏ phải nhìn vào và noi theo. Bởi từ những vất vả của mẹ, từ những vất vả của bà "bé Khoa" đã trân trọng và yêu những điều đó, để rồi tình thương đó bộc lộ ra:
Áo mẹ mưa bạc màu
Đầu mẹ nắng cháy tóc
Mẹ ngày đêm khó nhọc
Con chưa ngoan, chưa ngoan
Hay như trong "Mẹ ốm" "bé Khoa" đã ca ngợi mẹ"mẹ là đất nước tháng ngày của con..." bởi "vì con mẹ khổ đủ điều"
"Em nhỏ Khoa" còn biết thương con chó nhà mình, khi nó nghe tiếng bom Mỹ nổ, đã bỏ chạy đi đâu:
Tao chờ mày đã lâu
Cơm phần mày để cửa
Với em gái mình cũng là tình thương ấm áp của người anh:
Mẹ cha bận việc ngày đêm
Anh ngồi trong lớp lo em ở nhà
Với người thầy từ chiến trường trở về dạy mình, là thương binh trên đôi nạng gỗ "bé Khoa" đã nhìn thấy:
Dấu lặng hai bên như hai hàng lỗ đáo
Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo
Như nhận ra cái chưa hoàn hảo
Của cả cuộc đời mình
Với lối thơ gọn gẽ, không dàn trải "Khoa" còn biết dùng những từ khêu gợi:
Bốn năm bom đạn qua rồi
Núi sông trong sáng, dáng người lớn cao
Với thiên nhiên, năm 1972 nhà thơ vẫn cho ra đời bài thơ tứ tuyệt để lại một ấn tượng đặc biệt; trên trời vẫn còn vệt ngựa của Thánh Gióng:
Sau làn mưa bụi tháng ba
Lá tre bỗng đỏ như là lửa thiêu
Nền trời rừng rực ráng treo
Tưởng như ngựa sắt sớm chiều vẫn bay
Và lòng yêu ruộng đồng mọc rễ sâu chắc trong tâm hồn Khoa, tình yêu này lan toả trong lòng thành tình yêu đất nước sâu sắc. Ở đó có đất, có mẹ..., có cả bé Khoa...
Trong tình yêu, mẹ tôi đã trở thành đất đai
Và tôi mọc lên như cây còn non dại
Nhưng rễ cây đã hứa với nắng trời những mùa hoa trái
Bởi cây không thể phụ mẹ mình và phuc đất đai
Lời hứa đấy như một sự khắng định, một sự quyết tâm của "cậu Khoa" sẽ phấn đấu hết mình trong tình yêu cho quê hương, đất nước.
Các bạn thân mến!
Các em nhỏ thân yêu!
Các em thấy không? Cũng chỉ tầm tuổi các em bây giờ trong con người "cậu bé Khoa" ngày ấy đã có những ý chí, quyết tâm thật vĩ đại và một tình yêu thật lớn lao phải không?
Giờ đây chúng ta đang có một cuôc sống yên bình bên những người thân yêu, nhưng đừng vì thế mà quên đi nhiệm vụ lớn lao của mình - học tập, phấn đấu, rèn luyện để chứng tỏ tình yêu của mình với cha mẹ, quê hương, đất nước các em nhé! Và chúng ta hãy đọc đi, đọc "Góc sân và khoảng trời" để noi theo, để phấn đấu, để củng cố tình yêu của mình dành cho tất cả những gì thân yêu nhất xung quanh chúng mình.

Ngày 26/06/2011
Missphuong

Bài thơ:
GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI
Góc sân nho nhỏ mới xây
Chiều chiều em đứng nơi này em trông
Thấy trời xanh biếc mênh mông
Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy…

minh_anh
24-08-2012, 09:13 AM
Hạt gạo làng ta
Bài thơ Hạt gạo làng ta được chọn giảng dạy ở trường mầm non và tiểu học. Xung quanh bài thơ này có nhiều lời bình của các nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình văn học. Chúng tôi chọn giới thiệu dưới đây lời bình của nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi – một lời bình gọn, nhiều phát hiện, nêu lên được cá tính trẻ con của tác giả qua bài thơ, đồng thời cho thấy hoàn cảnh lịch sử đã tác động vào người sáng tác như thế nào, dù đó là cây bút thiếu nhi...

Nguyên Văn


Hạt gạo làng ta.
Có vị phù sa,
Của sông Kinh Thầy.
Có hương sen thơm,
Trong hồ nước đầy.
Có lời Mẹ hát,
Ngọt ngào hôm nay.

Hạt gạo làng ta.
Có bão tháng bảy,
Có mưa tháng ba.
Hạt mồ hôi sa,
Những trưa tháng sáu.
Nước như ai nấu,
Chết cả cá cờ.
Cua ngoi lên bờ,
Mẹ em xuống cấy.



http://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=3O3vJ-de4FY&t=8

Hạt gạo làng ta.
Những năm bom Mĩ,
Trút trên mái nhà.
Những năm khẩu súng,
Theo người đi xa.
Những năm băng đạn,
Vàng hơn lúa đồng.
Bát cơm mùa gặt,
Thơm hào giao thông.

Hạt gạo làng ta.
Chở ra tiền tuyến,
Chở về phương xa.
Em vui em hát,
Hạt vàng làng ta.
Em vui em hát,
Hạt vàng làng ta...

Lời bình của nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi:


Khi làm bài thơ này, Trần Đăng Khoa đang học cấp một nhưng bằng sự hiểu biết đời sống nông thôn và nhờ tài năng đặc biệt, bài thơ được viết ra một cách sâu sắc và rung động, giầu ý nghĩa nhưng lại rất trẻ con:

Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy...

ở lứa tuổi ấy mà biết nghĩ như thế là sâu sắc lắm. Từ một thực tế có tính khoa học là cây lúa hút chất dinh dưỡng ở bùn, đất ra hoa, trổ bông, kết hạt (như ai cũng biết) thì nhà thơ bằng sự tinh tế của tâm hồn còn nghe được, cảm được “vị phù sa”, “hương sen thơm”, trong hạt gạo. Và hơn thế nữa, còn có cả tình người, lòng người ấp ủ:

Có lời mẹ hát
Ngọt bùi hôm nay...

Làm ra hạt gạo gian khó biết chừng nào. Ca dao cổ có câu thấm thía:

Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.

Đó là phát biểu trực tiếp, có tính chất luân lí, hơi nghiêng về lí trí. Còn trong bài thơ này, Trần Đăng Khoa để thực tế đời sống tự nói lên:

Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu...

Bão dập, nắng lửa, mưa dầm, thiên nhiên nhiệt đới khắc nghiệt đã đổ lên đầu người nông thôn bao nhiêu nhọc nhằn để làm ra hạt gạo, mà cụ thể nhất là bà mẹ của mình:

Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy.

Bốn câu thơ có sức chứa lớn nội dung, về hình thức biểu hiện. Nghĩ bằng cách nghĩ của trẻ con, tác giả mới so sánh cái nước do mặt trời hun nóng lên ở ruộng với nước nóng mà ta đun, nấu lên; nước nóng đến mức “chết cả cả cờ” thì phải là mắt trẻ con mới nhìn thấy được. Vì sao vậy? Cá cờ có nơi gọi là cá thia lia, thân, đuôi nhiều màu sắc rực rỡ, các cậu bé ở nông thôn mà bắt được là đem về nuôi ở chai, lọ thủy tinh như ở thành phố người ta nuôi cá vàng.

Nước nóng chết cả cá, nhưng chết mấy con cá cờ quả là tiếc đứt ruột. Phải có con mắt trẻ con, tâm lí trẻ con mới viết được hai câu thơ:

Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ...

“Cua ngoi lên bờ”: không sống ở nông thôn, không có thực tế ruộng đồng không có câu thơ đó. Nóng quá, cua ngoi lên bờ nhưng bất ngờ đến sửng sốt khi:

Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy

Hai câu thơ, hai hình ảnh đối nghịch nhau gây một chấn động tình cảm mạnh trong lòng người đọc.

Có phải nói điều gì nhiều về những vất vả, nhọc nhằn của người mẹ để làm ra hạt gạo? Hai câu thơ đã nói quá nhiều. Một câu như đám mây mang điện tích âm gặp câu kia mang điện tích dương tạo nên tiếng sét. Tiếng sét đó làm chấn động tình cảm trong lòng bạn đọc.

Kể ra bài thơ dừng lại ở đây được rồi, là đúng với lứa tuổi người viết. Nhưng trong thời điểm cả nước dồn sức chống Mĩ, trẻ con cũng già đi trước tuổi. Các em không được sống hồn nhiên cái tuổi bắt dế, nuôi chim của mình. Trần Đăng Khoa cũng vậy mà còn hơn thế nữa. Vì thông minh hơn người, em tiếp nhận không khí chính trị, không khí xã hội một cách nhạy bén:

Hạt gạo làng ta
Những năm bom Mỹ
Trút lên mái nhà
Những năm khẩu súng
Theo người đi xa...

Trần Đăng Khoa vừa miêu tả hạt gạo nghìn đời, vừa nói lên hạt gạo những năm chống Mỹ: gian khổ và nghĩa tình. Tác giả biết chọn lọc những hình ảnh có sức rung động. Câu thơ như:

Bát cơm mùa gặt
Thơm hào giao thông

vừa nói được hoàn cảnh, vừa nêu được khí thế của đất nước thời ấy.
Nguồn: Vũ Nho - Trần Đăng Khoa thần đồng thơ ca, Nxb VHTT, 2000, tr.180 – 183.

minh_anh
24-08-2012, 10:03 AM
Bài Thơ : Sao không về Vàng ơi




Tao đi học về nhà
Là mày chạy xồ ra
Đầu tiên mày rối rít
Cái đuôi mừng ngoáy tít
Rồi mày lắc cái đầu
Khịt khịt mũi, rung râu
Rồi mày nhún chân sau
Chân trước chồm, mày bắt
Bắt tay tao rất chặt
Thế là mày tất bật
Đưa vội tao vào nhà
Dù tao đi đâu xa
Cũng nhớ mày lắm đấy

Hôm nay tao bỗng thấy
Cái cổng rộng thế này!
Vì không thấy bóng mày
Nằm chờ tao trước cửa
Không nghe tiếng mày sủa
Như những buổi trưa nào
Không thấy mày đón tao
Cái đuôi vàng ngoáy tít
Cái mũi đen khịt khịt
Mày không bắt tay tao
Tay tao buồn làm sao!

Sao không về hả chó ?
Nghe bom thằng Mĩ nổ
Mày bỏ chạy đi đâu ?
Tao chờ mày đã lâu
Cơm phần mày để cửa
Sao không về hả chó?
Tao nhớ mày lắm đó
Vàng ơi là Vàng ơi!

Lời bình của Minh_anh

Đây là bài thơ tuyệt hay của chú bé Trần Đăng Khoa viết về chú vàng, tức chú chó yêu của mình. Mới tí tuổi mà sao thơ của chú hay đến thế, nói về chó sao mà nghe nó thân thương đến thế, gần gũi thế... tôi nghĩ không phải chỉ thương chú chó (bỏ chạy vì nghe bom Mỹ nổ) mà nhà thơ họ Trần thốt được những lời như rót mật vào tai người đọc. Cái cốt là họ Trần, vì biết được sẽ có ngày "chó" sẽ lên "voi" (nuôi chó, âu yếm chó, dẫn chó đi chơi hiện đang là cái mốt thời thượng của giới trẻ thị thành) thế nên mới viết dành riêng cho những người "yêu mến chó" đấy thôi :). Ngoài ra tôi lại phát hiện ra rằng, tuy nhà thơ họ Trần đã lột tả được cảnh người và chó thời bấy giờ sống rất vui vẻ và hòa thuận. Chó của Trần Đăng Khoa rất thân thiện, rất quí người, yêu người, nó gét "Mỹ" và rất sợ "bom Mỹ"...
Tiếc rằng Trần Đăng Khoa lại không có lấy một câu thơ nào cảnh báo cho chó biết rằng mấy chục năm sau, chúng nó sẽ là đối tượng truy sát của đám "cẩu tặc", là kèo cực thơm của đám đệ tử Lưu Linh, là động vật có nguy cơ tiệt diệt...
Tiếc thay ! Tiếc thay !

taothao
24-08-2012, 11:11 AM
Tiếc rằng Trần Đăng Khoa lại không có lấy một câu thơ nào cảnh báo cho chó biết rằng mấy chục năm sau, chúng nó sẽ là đối tượng truy sát của đám "cẩu tặc", là kèo cực thơm của đám đệ tử Lưu Linh, là động vật có nguy cơ tiệt diệt...

Cũng chưa biết chừng con chó Vàng đó không phải sợ bom Mỹ mà "mất tiêu". Biết đâu nó bị "tiêu mất" trong bụng hàng xóm của Lão Hạc thì sao nhỉ?

Chả có câu thơ: "thấp thoáng rừng Mơ cô hái Mơ" là gì? Biết đâu cô gái này vào rừng Mơ để hái "lá Mơ" thì sao, tiện thể "đào" thêm mấy củ Riềng thì sao. Chắc nhà thơ của câu thơ này cũng thuộc diện "sát cẩu" ấy chứ lỵ. Đi đến rừng Mơ thì tự nhiên thèm thịt chó, tìm mãi không ra quán thịt chó, tức cảnh sinh tình nên mới có câu thơ bất hủ đến như vậy.

minh_anh
24-08-2012, 04:34 PM
MƯA
Thơ Trần Đăng Khoa



Nhắc đến Góc sân và Khoảng trời em nhớ như in một kỷ niệm không bao giờ quên. Hồi đò chị em em còn bé xíu, mượn được cuốn Góc sân và Khoảng trời hay quá, hai chị em chia nhau chép lại cả cuốn thơ, bây giờ vẫn còn giữ được tập thơ chép tay đó.
Ý kiến của một độc giả
MƯA
Sắp mưa
Sắp mưa
Những con mối
Bay ra
Mối trẻ
Bay cao
Mối già
Bay thấp
Gà con
Rối rít tìm nơi
Ẩn nấp
Ông trời
Mặc áo giáp đen
Ra trận
Muôn nghìn cây mía
Múa gươm
Kiến
Hành quân
Đầy đường
Lá khô
Gió cuốn
Bụi bay
Cuồn cuộn
Cỏ gà rung tai
Nghe
Bụi tre
Tần ngần
Gỡ tóc
Hàng bưởi
Đu đưa
Bế lũ con
Đầu tròn
Trọc lóc
Chớp
Rạch ngang trời
Khô khốc
Sấm
Ghé xuống sân
Khanh khách
Cười
Cây dừa
Sải tay
Bơi
Ngọn mùng tơi
Nhảy múa
Mưa
Mưa
Ù ù như xay lúa
Lộp bộp
Lộp bộp...
Rơi
Rơi...
Đất trời
Mù trắng nước
Mưa chéo mặt sân
Sủi bọt
Cóc nhảy chồm chồm
Chó sủa
Cây lá hả hê
Bố em đi cày về
Đội sấm
Đội chớp
Đội cả trời mưa...
(1967 - Góc sân và khoảng trời)

minh_anh
24-08-2012, 04:40 PM
Mẹ ốm
Thơ Trần Đăng Khoa


Mẹ ốm
Mọi hôm mẹ thích vui chơi
Hôm nay mẹ chẳng nói cười được đâu
Lá trầu khô giữa cơi trầu
Truyện Kiều gấp lại trên đầu bấy nay
Cánh màn khép lỏng cả ngày
Ruộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm trưa
Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan
Khắp người đau buốt, nóng ran
Mẹ ơi! Cô bác xóm làng đến thăm
Người cho trứng, người cho cam
Và anh y sĩ đã mang thuốc vào.



http://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=W9s8W3RtPvo&t=2

Sáng nay trời đổ mưa rào
Nắng trong trái chín ngọt ngào bay hương
Cả đời đi gió đi sương
Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi
Mẹ vui, con có quản gì
Ngâm thơ kể chuyện rồi thì múa ca
Rồi con diễn kịch giữa nhà
Một mình con sắm cả ba vai chèo
Vì con, mẹ khổ đủ điều
Quanh đôi mắt mẹ đã nhiều nếp nhăn
Con mong mẹ khỏe dần dần
Ngày ăn ngon miệng, đêm nằm ngủ say
Rồi ra đọc sách, cấy cày
Mẹ là đất nước, tháng ngày của con.

minh_anh
24-08-2012, 04:46 PM
Trăng ơi, từ đâu đến?
Thơ Trần Đăng Khoa


Trăng ơi, từ đâu đến?

Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ cánh rừng xa
Trăng hồng như quả chín
Lửng lơ lên trước nhà.

Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay biển xanh diệu kỳ
Trăng tròn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi.

Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ một sân chơi
Trăng bay như quả bóng
Đứa nào đá lên trời.

Trăng ơi... từ đâu đến
Hay từ lời mẹ ru
Thương Cuội không được học
Hú gọi trâu đến giờ!

Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ đường hành quân
Trăng soi chú bộ đội
Và soi vàng góc sân.

Trăng từ đâu... từ đâu...
Trăng đi khắp mọi miền
Trăng ơi có nơi nào
Sáng hơn đất nước em...
(1968)

minh_anh
24-08-2012, 04:54 PM
ĐÁM MA BÁC GIUN
Thơ: Trần Đăng Khoa



ĐÁM MA BÁC GIUN

Bác Giun đào đất suốt ngày
Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà
Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến con đi trước, kiến già theo sau

Cầm hương kiến Đất bạc đầu
Khóc than kiến Cánh khoác màu áo tang
Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng
Kiến Kim chống gậy, kiến Càng nặng vai

Đám ma đưa đến là dài
Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà
Kiến Đen uống rượu la đà
Bao nhiêu kiến Gió bay ra chia phần...

1967

minh_anh
24-08-2012, 05:03 PM
DẶN EM
Thơ Trần Đăng Khoa


Dặn em
(Tặng Giang, 4 tuổi)

Mẹ cha bận việc ngày đêm
Anh còn đi học, mình em ở nhà
Dặn em đừng có chơi xa
Máy bay Mỹ bắn không ra kịp hầm
Đừng ra ao cá trước sân
Đuổi con bươm bướm, trượt chân, ngã nhào
Đừng đi bêu nắng, nhức đầu
Đừng vầy nghịch đất, mắt đau, lấm người
Ốm đau là mất đi chơi
Làm cho bố mẹ mất vui trong lòng
Mẹ cha bận việc ngày đêm
Anh ngồi trong lớp, lo em ở nhà

nosay
24-08-2012, 05:39 PM
ĐÁM MA BÁC GIUN
Thơ: Trần Đăng Khoa


Óc quan sát, liên tưởng tuyệt vời!!!!

minh_anh
24-08-2012, 08:51 PM
Tiểu sử nhà thơ Trần Đăng Khoa



Tiểu sử


http://thaicucthieugia.com/images/stories/minhhoa2/goc_san_va_khoang_troi/nh%20th%20tran%20dang%20khoa.jpg
Trần Đăng Khoa lúc 8 tuổi

Trần Đăng KhoaTrần Đăng Khoa (sinh ngày 24 tháng 4 năm 1958), quê làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương là một nhà thơ, nhà báo, biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam. Hiện là trưởng ban Văn nghệ Đài tiếng nói Việt Nam.

Từ nhỏ ông đã được nhiều người cho là thần đồng thơ văn. Lên 8 tuổi, ông đã có thơ được đăng báo. Năm 1968, khi mới 10 tuổi, tập thơ đầu tiên của ông “Từ góc sân nhà em” (tập thơ tiếp theo là “Góc sân và khoảng trời”) được nhà xuất bản Kim Đồng xuất bản. Có lẽ tác phẩm nhiều người biết đến nhất của ông là bài thơ “Hạt gạo làng ta”, sáng tác năm 1968, được thi sĩ Xuân Diệu hiệu đính, sau được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc (1971).

http://www2.vietbao.vn/images/vn75/van-hoa/75016837-40916_Giadinh_TranDangKhoa.jpg
Trần Đăng Khoa bây giờ (chụp hình cùng với vợ con) và...
http://hoasibiem.com/wp-content/uploads/2010/06/TRAN-DANG-KHOA.jpg
Trần Đăng Khoa dưới cái nhìn của họa sĩ Còm

Trần Đăng Khoa nhập ngũ tại Trường Lục quân Việt Nam, làm lính hải quân. Sau đó ông theo học Trường Viết văn Nguyễn Du và được cử sang học tại Viện Văn học Thế giới mang tên M.Goocky thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Nga. Khi trở về nước ông làm biên tập viên Văn nghệ quân đội. Từ tháng 6 năm 2004, khi đã mang quân hàm thượng tá Quân đội nhân dân Việt Nam, ông chuyển sang phụ trách Ban văn nghệ Đài tiếng nói Việt Nam.

Tác phẩm chính

Từ góc sân nhà em (thơ, 1968); Góc sân và khoảng trời (thơ, 1968, 1973, 1976... tái bản lần thứ 20 năm 1995); Thơ Trần Ðăng Khoa (tập 1, 1970); Khúc hát người anh hùng (trường ca, 1974); Trường ca Trừng phạt (thơ, 1973); Trường ca Giông bão (thơ, 1983); Bên cửa sổ máy bay (thơ, 1986); Thơ Trần Ðăng Khoa (tập 2, 1983); Chân dung và đối thoại (1998); và nhiều tập khác được dịch in ở nước ngoài.

Tự bạch

"Trần Ðăng Khoa là con thứ ba trong một gia đình nông dân ở bên bờ sông Kinh Thầy. Thuở nhỏ, y từng ước mơ trở thành kỹ sư nông nghiệp và suốt đời làm thơ về làng quê, cảnh quê, những vui buồn của người dân quê ở nơi xóm mạc. Nhưng rồi, cũng như nhiều thợ cày trong làng, y lên đường nhập ngũ vào những tháng cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ và trở thành nhà thơ khoác áo lính.

Ðối với Trần Ðăng Khoa, thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh. Suốt đời, y luôn có ý thức vươn tới loại thơ đó. Tuy nhiên, theo lời y, để làm được điều ấy một phần còn do ông giời. Nhưng phần ấy là bao nhiêu? Ông giời ở đâu? Tính khí ông ta thế nào, thì suốt đời y không thể hiểu nổi?

Bài thơ đầu tiên của y được in báo Văn nghệ vào tháng 5-1966. Khi đó, y tám tuổi, đang học ở học kỳ II lớp một trường làng. Bấy giờ, người làm thơ còn ít. Trẻ con làm thơ lại càng ít, nên tự dưng, y thành của hiếm, thành đặc sản. Nhiều người tò mò vượt hàng trăm cây số bom đạn, lặn lội đến nhà y, chỉ để xem y như xem... ma quỷ hiện hình. Không ít người còn bắt y xòe tay, ngó đường chỉ, vạch tóc xem xoáy đầu rồi lặng lẽ ra đi với gương mặt rất bí hiểm.

Bây giờ y đã già và dứt khoát không phải kẻ đắc đạo. Vậy mà y vẫn phải còng lưng, ỳ ạch vác cây thánh giá của cái tuổi trẻ con.

Những năm gần đây, ngoài làm thơ, y còn viết báo, viết bình luận văn chương và chân dung văn học. Ðề tài y quan tâm là các nhà văn và những vấn đề của văn học Việt Nam đương đại. Ngoài những trang viết, mà ở đấy phần nhiều y dồn hết tâm lực, còn ngoài đời, y là tay nhạt nhẽo và tầm phào. Y chẳng đam mê gì, và nói chung, y là gã vô tích sự".
Nhận định

Trần Ðăng Khoa, tác giả của nhiều bài thơ hay mà bản thân tôi đã hai lần viết bài giới thiệu và bình luận, là nhà thơ 10 tuổi năm 1968, mà tôi đã sung sướng hướng dẫn đoàn truyền hình Pháp về quay phim "Thế giới nhỏ của em Khoa" tại xã Quốc Tuấn - Hải Hưng; tôi còn là người đầu tiên dịch thơ Trần Ðăng Khoa ra tiếng Pháp, đưa cho nữ đồng chí Madeleine Riffaud. Chị Riffaud về đăng lên báo Nhân đạo (Humanité) của Ðảng Cộng sản Pháp; sau đó tôi lại dịch cả một tập thơ Khoa ra Pháp văn, từ đó giới thiệu thơ Trần Ðăng Khoa, dịch ra nhiều tiếng trên thế giới. Tôi lại giới thiệu và giúp đỡ nhà thơ Cuba Félix Pi la Rodriguez dịch ra tiếng Tây Ban Nha, và tôi đã bình hai bài thơ Mưa và Em kể chuyện này ở rất nhiều nơi trên miền bắc, ở Sài Gòn và các thành thị phía nam (1975-1976).

(Xuân Diệu - Công việc làm thơ, 1984)

Ðọc thơ Trần Ðăng Khoa, chúng ta thấy rất rõ điều này: Thơ Trần Ðăng Khoa chủ yếu viết bằng tình cảm, bằng lòng yêu thương... Yêu thương từ cây cỏ đến loài vật, từ người thân trong nhà đến bà con trong làng. Từ Bác Hồ kính yêu đến các thầy cô giáo các bạn bè cùng lớp..., các anh bộ đội, các cô bác công nhân đào than...

Một trong những yếu tố giúp cho Trần Ðăng Khoa có được những cái riêng, từ những quan sát nhỏ đến những tình cảm, những ý nghĩ lớn, đó là sức liên tưởng phong phú và mạnh mẽ của em...

(Phạm Hổ - Ðọc thơ Trần Ðăng Khoa, 1995)

Có lẽ còn lâu mới lại có được một thần đồng tám tuổi lại thành một nhà thơ để lại được sự nghiệp trong nền thơ Việt Nam như Trần Ðăng Khoa.

Thơ Khoa gắn với cái vườn, ngôi nhà, cánh đồng và làng xóm quanh Khoa. Nay mai làng hóa phố, hoặc thành những trang trại lớn, thơ Trần Ðăng Khoa còn giá trị biết mấy...

Sau này Trần Ðăng Khoa chuyển sang viết chân dung. Tập Chân dung và đối thoại của Khoa cũng là một tác phẩm góp vào văn nghiệp của thần đồng xưa. Nhưng thơ Thần đồng thì mọi người vẫn rất dễ nhất trí, yêu thích, và tự hào, mến phục.

Thật sung sướng cho một nhà thơ được mãi mãi hồn nhiên và đẹp với một hồn thơ thời tám, chín tuổi...

(Ngô Văn Phú)

minh_anh
24-08-2012, 08:58 PM
Bàn Chân Thầy Giáo
Tác giả: Trần Đăng Khoa



Thầy ngồi ghế giảng bài
Xếp cạnh bàn đôi nạng gỗ
Một bàn chân đâu rồi
Chúng em không rõ

Sáng nào bom Mỹ dội
Phượng đổ ngổn ngang, mái trường tốc ngói
Mặt bảng đen lỗ chỗ vết bom bi
Thầy cầm súng ra đi
Bài tập đọc dạy chúng em dang dở
Hoa phượng
Hoa phượng cháy một góc trời như lửa

Năm nay thầy trở về
Nụ cười vui vẫn nguyên vẹn như xưa
Nhưng một bàn chân không còn nữa
Đôi bàn chân
In lên cổng trường những chiều giá buốt
In lên cổng trường những đêm mưa dầm
Dấu nạng hai bên như hai hàng lỗ đáo
Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo
Như nhận ra cái chưa hoàn hảo
Của cả cuộc đời mình

Bàn chân thầy gửi lại
Khe Sanh Hay Tây Ninh, Đồng Tháp?
Bàn chân đạp xuống đầu lũ giặc
Cho lẽ sống làm người
Em lắng nghe thầy giảng từng lời
Rung động bao điều suy nghĩ
Nghe thầm vọng bàn chân đi đánh Mĩ
Nghe âm vang tiếng gọi của chiến trường
Em đi suốt chiều dài yêu thương
Chiều sâu đất nước
Theo những dấu chân người thầy năm trước
Và bàn chân thầy, bàn chân đã mất
Vẫn dẫn chúng em đi trọn vẹn cuộc đời…

minh_anh
24-08-2012, 09:10 PM
Buổi sáng nhà em
Thơ Trần Đăng Khoa



Ông trời nổi lửa đằng đông
Bà sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay
Bố em xách điếu đi cày
Mẹ em tát nước, nắng đầy trong khau
Cậu mèo đã dậy từ lâu
Cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng
Mụ gà cục tác như điên
Làm thằng gà trống huyên thuyên một hồi
Cái na đã tỉnh giấc rồi
Đàn chuối đứng vỗ tay cười, vui sao!
Chị tre chải tóc bên ao
Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương
Bác nồi đồng hát bùng boong
Bà chổi loẹt quẹt lom khom trong nhà

1967

thanh_long
25-08-2012, 04:42 AM
Mình xin được tiếp Minh_anh mấy chiêu nhé... ;;)


Bài thơ : TRĂNG SÁNG SÂN NHÀ EM
Thơ của Trần Đăng Khoa




Trăng sáng sân nhà em

Ông trăng tròn sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em
Trăng khuya sáng hơn đèn
Ơi ông trăng sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em…
*
* *
Hàng cây cau lặng đứng
Hàng cây chuối đứng im
Con chim quên không kêu
Con sâu quên không kêu
Chỉ có trăng sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em
Trăng khuya sáng hơn đèn
Ơi ông trăng sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em…
(1966)

thanh_long
25-08-2012, 04:54 AM
Bài thơ : CÂY DỪA
Tác giả: Trần Đăng Khoa


Bài thơ "Cây dừa" được Trần Đăng khoa sáng tác năm 1967 khi ông 9 tuổi và được in trong tập thơ đầu tay "Góc sân và khoảng trời" (1968).


CÂY DỪA

Cây dừa xanh toả nhiều tàu,
Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng.
Thân dừa bạc phếch tháng năm,
Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao.
Đêm hè hoa nở cùng sao,
Tàu dừa - chiếc lược chải vào mây xanh.
Ai mang nước ngọt, nước lành,
Ai đeo bao hũ rượu quanh cổ dừa.
Tiếng dừa làm dịu nắng trưa,
Gọi đàn gió đến cùng dừa múa reo.
Trời trong đầy tiếng rì rào,
Đàn cò đánh nhịp bay vào bay ra.
Đứng canh trời đất bao la,
Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi.
1967

minh_anh
25-08-2012, 08:48 AM
Bài thơ : CÁI SÂN
Tác giả: Trần Đăng Khoa




Cái sân

Em thường rải cái nong
Ra góc sân ngồi học
Những đêm có trăng mọc
Em chơi cho đến khuya
Thường là xỉa cá mè
Hay làm mèo đuổi chuột
Những lúc mưa sậm hột
Em bắt cái vòi cau
Chảy vào giữa chum sâu
Khi trời râm em vẽ
Vẽ cô tiên lặng lẽ
Rải hoa trên bầu trời
Thế là bao đồng lúa
Cứ chín vàng, vàng tươi...

2.1966

minh_anh
25-08-2012, 09:00 AM
Bài thơ : CÂY XOAN
Tác giả: Trần Đăng Khoa





Cây xoan
Ngày nào xoan bé xíu
Giờ bỗng vút lưng trời
Dưới gốc cây xám mốc
Bao lá cành khô rơi...

1973


Bài thơ : CÂY BÀNG MÙA ĐÔNG
Tác giả: Trần Đăng Khoa





Cây bàng mùa đông


Suốt mùa hè chịu nắng
Che mát các em chơi
Đến đêm đông giá lạnh
Lá còn cháy đỏ trời

1973

minh_anh
25-08-2012, 09:57 AM
Bài thơ : THÔN XÓM VÀO MÙA
Tác giả Trần Đăng Khoa





Bài thơ : Thôn xóm vào mùa

Hạt mẩy uốn cong bông
Chim ngói bay đầy đồng
Đường thôn tiếng cười nở
Vàng tươi hoa cải ngồng

Sân kho máy tuốt lúa
Mở miệng cười ầm ầm
Thóc mặc áo vàng óng
Thở hí hóp trên sân

Thóc gài vàng tóc xanh
Thóc bay quanh tiếng cười
Trâu ngửi mùi rơm mới
Cái chân giậm liên hồi

Chị chủ nhiệm giũ rơm
Anh dân quân đập lúa
Thóc nở bung như sao
Nhuộm vàng cả trời cao

Tối về ông trăng đến
Cùng các đội bình công
Ấm nước chè tỏa nóng
Thơm như hương lúa đồng

1967

minh_anh
25-08-2012, 10:02 AM
GHI CHÉP VỀ NGỌN ĐÈN DẦU
Thơ Trần Đăng Khoa



Đứng giữa nhà mà cháy
Mà tỏa sáng xung quanh
Chỉ thương cây đèn ấy
Không sáng nổi chân mình...

1973



Bài thơ : CON CÒ TRẮNG MUỐT
Tác giả Trần Đăng Khoa




Con cò trắng muốt

Con cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về
(Ca dao)

Khi cơn mưa đen rầm đằng đông
Khi cơn mưa đen rầm đằng tây
Khi cơn mưa đen rầm đằng nam, đằng bắc
Em thấy
Con cò
Trắng muốt
Bay ra đón cơn mưa...

Cây lúa mừng vui phất cờ
Dây khoai nảy xanh lá mới
Cau xòe tay hứng giọt mưa rơi
Ếch nhái uôm uôm mở hội
Cá múa tung tăng...
Nhưng không ai biết
Con cò
Co ro
Chịu rét
Trên cành cây...

*

Đến khi cơn mưa lại đen rầm đằng đông, đằng tây
Đến khi cơn mưa lại đen rầm đằng nam, đằng bắc
Em lại thấy
Vẫn con cò ấy
Bay ra
Trắng muốt
Mừng đón cơn mưa...

1969

fangzi
26-08-2012, 08:45 AM
Bài thơ : ĐÁNH THỨC TRẦU
Tác giả Trần Đăng Khoa




Trẩu trẩu trầu trầu
Mày làm chúa tao
Tao làm chúa mày
Tao không hái ngày
Thì tao hái đêm
(Câu hát của bà em)

Đã ngủ rồi hả trầu
Tao đã đi ngủ đâu
Mà trầu mày đã ngủ
Bà tao vừa đến đó
Muốn có mấy lá trầu
Tao không phải ai đâu
Đánh thức mày để hái!

Trầu ơi, hãy tỉnh lại
Mở mắt xanh ra nào
Lá nào muốn cho tao
Thì mày chìa ra nhé
Tay tao hái rất nhẹ
Không làm mày đau đâu…

Đã dậy chưa hả trầu?
Tao hái vài lá nhé
Cho bà và cho mẹ
Đừng lụi đi trầu ơi!

1966

fangzi
26-08-2012, 09:02 AM
NGẪM NGỢI VỚI TRẦN ĐĂNG KHOA TỪ MỘT ĐÁM MA
Tác giả NGUYỄN ĐỨC GIAO



NGẪM NGỢI TỪ MỘT ĐÁM MA

Thân gửi Nhà thơ Trần Đăng Khoa

Vẫn biết nghĩa tử là nghĩa tận nhưng mỗi lần đi đám tang của công chức hoặc người nhà của họ trong những năm gần đây vẫn cứ thấy thế nào ấy. Sự thương xót, tiếc nuối hình như ngày một vơi đi, mà sự chiếu lệ, vờ vĩnh, toan tính thì ngày càng hiện rõ trên khuôn mặt của những người tham dự. Sáng nay đi viếng đám tang của Sơ, người cùng cơ quan, tôi vừa buồn cho người đã khuất, vừa buồn vì cảm nhận này càng rõ.


ĐÁM MA BÁC GIUN

Bác Giun đào đất suốt ngày
Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà
Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến con đi trước, kiến già theo sau

Cầm hương kiến Đất bạc đầu
Khóc than kiến Cánh khoác màu áo tang
Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng
Kiến Kim chống gậy, kiến Càng nặng vai

Đám ma đưa đến là dài
Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà
Kiến Đen uống rượu la đà
Bao nhiêu kiến Gió bay ra chia phần...

1967

Cách đây hai hôm, nửa đêm tỉnh giấc vì tiếng chuông điện thoại. Anh Trưởng phòng thông báo với giọng thảng thốt: “ Anh Sơ mất rồi, anh đã biết tin chưa?”. Sao lại thế? Vừa uống rượu với nhau lúc tối đây mà. Hội nghi tổng kết công tác của ngành bế mạc lúc chiều. Anh em điếu đóm phục vụ phấn khởi vì hoàn thành nhiệm vụ, được Bộ trưởng biểu dương nên tổ chức bữa cơm thân mật ngay tại nhà ăn phục vụ Hội nghị. Anh Sơ là Vụ trưởng, lại là người biên tập lần cuối Báo cáo tổng kết được Bộ trưởng dõng dạc đọc trước Hội nghị sau nhiều lần do nhiều người viết đi viết lại không thành. Vì hứng chí, phấn khích nên anh uống hơi nhiều cả rượu lẫn bia. Có lẽ vì vậy chăng? Cũng cần nói thêm anh Sơ là một ứng cử viên nặng ký trong lần chuẩn bị bổ nhiệm Thứ trưởng lần này. Ôi thôi! Thế là hết! Hết cả sự kèn cựa, tranh giành. Hết cả sự nhờ vả, cầu cạnh. Chỉ còn lại những người lãnh cảm, thờ ơ.

Chợt nhớ lại bài thơ Đám ma bác giun của Trần Đăng Khoa mà mình thuộc từ ngày còn bé khi Tập thơ đầu tay Góc sân và khoảng trời của Khoa vừa ra đời, gây xôn xao trong dư luận. Xin lỗi anh Khoa: tôi chỉ thích bài này theo nguyên tác ngày xưa anh viết. Bản anh chỉnh sửa sau này là từ góc nhìn của người lớn, làm thay đổi ít nhiều chất ngây thơ, hồn nhiên của con trẻ. Mà lạ thay anh Khoa ạ: tôi cứ nghĩ là với bài thơ này theo nguyên tác, anh đã mô tả, đã chỉ đúng và sâu hơn cái không khí, cái chất, cái hồn của các đám tang công chức thời nay. Này nhé:

Bác giun đào đất suốt ngày
Trưa nay bỗng chết bóng cây sau nhà

Thế là bác giun đột tử vì làm việc quá sức, chắc vì lao lực. Thì đúng rồi như anh Sơ của chúng tôi đây suốt đời tận tụy, càng phải tận tụy vì anh vốn xuất thân trong một gia đình công giáo. Tận tụy cho đến khi chết vì bản báo cáo mà không kịp trăng trối một lời với vợ con, bạn bè. Nhưng mà cũng có niềm an ủi là anh đi mát mẻ, nhẹ nhàng như bác giun chết dưới bóng cây chứ không phải dưới cái nắng chang chang chết cả cá cờ mà Khoa đã tả.

Bác giun chết, thế là lũ kiến kéo ra làm thịt bác nhưng vì anh Khoa thương bác, nên anh cho là chúng đi đưa tang bác. Thật là nhân văn mà cũng rất trẻ con.

Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến ông đi trước, kiến bà theo sau

Nghe đọc thì hai câu này được anh sửa thành: “Kiến con đi trước, kiến già đi sau”. Vậy là không có tôn ty trật tự, không hợp với cách ứng xử của người Việt Nam mình anh Khoa ạ. Không ai cho trẻ con đi trước, tức là liền sau linh cửu vì sự tôn nghiêm đã đành mà còn vì xót đám trẻ, không nên để cái phần âm ám vào bọn nó.

Hai câu tiếp anh cũng sửa:

Cầm hương kiến đất bạc đầu
Khóc than kiến cánh khóac màu áo tang

Theo trí nhớ của tôi thì ngày trước anh viết: “Cầm hương cụ kiến bạc đầu/ Khóc than kiến cánh khoe màu áo tang”. Thôi thì “cụ kiến” hay “kiến đất” cũng được. Mà cho kiến đất cầm hương thì có đủ thêm loài kiến. Nhưng “Khóc than kiến cánh khoe màu áo tang” hay hơn, ít nhất cũng hợp hơn với cảnh đám viếng mà tôi đang thẩn thơ ngắm nhìn đây. “Kiến cánh” bây giờ nhiều lắm anh Khoa ạ. Họ may sẵn hẳn vài bộ quần áo tang, nghĩa là màu đen, không phải bằng vải xô đâu mà bằng vải đẹp hẳn hoi, may theo mốt hẳn hoi. Và chờ có đám tang thì họ diện (như anh dùng chữ “khoe” ấy) và lăng xăng chạy ra chạy vào, đôi kẻ mau nước mắt còn vờ vịt than khóc để tỏ ra là mình có nghĩa, có tình, để làm xúc động những người họ đang muốn lấy lòng tin.

Nhưng kinh hoàng là loài kiến lửa: “Kiến lửa đốt đuốc đỏ làng”. May quá, câu này anh không sửa, trong khi có thể cần chỉnh vì sự vô lý: đám tang bác giun diễn ra buổi trưa mà sao kiến lửa “đốt đuốc đỏ làng” được. Nhưng trong sự vô lý ấy tôi thấy có sự hợp lý vì tôi nhìn thấu tâm can những “con kiến lửa” đang bâu quanh anh Sơ của tôi đây. Khổ thân anh Sơ! Chúng nó đốt đau lắm anh à, sưng cả người lên ấy. Không phải chúng đi đưa tang anh đâu. Chúng nó đang xâu xé anh đấy. Lại còn vừa ăn cướp vừa la làng. Cứ xem cái cách chúng ngang nhiên “đốt đuốc” ấy. Thôi không thèm chấp cái loại người vô nhân tính ấy.

Bây giờ hãy xem kiến kim và kiến càng: “Kiến kim chống gậy, kiến càng mang mai”. Đây đích thị là những người tốt, những người thực lòng, chịu khó gánh lấy cái phần việc vất vả nhất đối với người đã khuất: đào huyệt! (Xin anh Khoa đừng giao cho kiến càng cái việc khiêng quan tài “nặng vai”. Cứ để kiến càng vác cái mai xen đất để nó tỏ được cái tình, cái nghĩa của nó).

Cuối cùng là:

Kiến đen uống rượu la đà
Bao nhiêu kiến gió chạy ra chia phần

Xin đừng trách kiến đen. Đám tang nào mà chẳng có người say. Có kẻ nát rượu mà say, nhưng cũng có người buồn mà uống cho say đấy. Thực ra họ cũng vô tứ, vô tâm, không có ý đồ gì trước sự ra đi của một con người. Đáng trách, đáng giận, đáng phỉ nhổ là lũ kiến gió. Khi bác giun mất chẳng biết trốn đi đằng nào, sau khi “Đám ma đưa đến là dài/Đi qua vườn chuối, vườn khoai, vườn cà” mới chịu thò cái mặt ra “chia phần” quả thực. Vội đến nỗi có cánh nhưng không kịp khởi động để bay mà chạy ba chân bốn cẳng.

Thưa anh Sơ! Tôi vừa nhẩm đọc cho anh nghe bài thơ của anh Trần Đăng Khoa. Rất có thể lúc viết bài Đám ma bác giun Trần Đăng Khoa không nghĩ như tôi khi đi viếng anh. Xin anh đừng buồn nơi chín suối. Cuộc đời ấy mà.

Tây Hồ, tháng 5/2012
NGUYỄN ĐỨC GIAO

fangzi
26-08-2012, 09:12 AM
nhà thơ trần đăng khoa - và các giai thoại


trần đăng khoa kể: Khi những bài thơ đầu tiên của anh được in và được dư luận “công kênh”, không ít người đã lặn lội về hải dương- quê anh để tìm hiểu xem tác giả của chúng "người ngợm" ra sao. Họ ngắm nghía, vạch tóc xem khoáy đầu, xem tai, thậm chí có người còn vần chú bé 8 tuổi ra để xem… rốn...

Ngay từ khi mới "xuất đầu lộ diện" trên thi đàn, trần đăng khoa đã được người đời vinh danh là "thần đồng thơ". Nhưng, cùng với độ lùi thời gian, hình như anh ngày càng muốn chứng minh việc làm thơ của mình không hề mang sắc màu thần bí. Anh bảo, thuở bé, người ta cứ nói anh viết như "nhập đồng", như "ma ám", kỳ thực, những bài thơ "được nhất" của anh lại chính là những bài viết theo… "đơn đặt hàng" của các tòa báo.

Những giai thoại về anh, anh đọc và bật cười. Có đúng, có sai, nhưng chưa khi nào anh viết bài phản ứng lại. Hỏi, anh nói đa phần đấy là chuyện nhảm nhí, là bịa tạc. Anh thấy anh hoàn toàn tỉnh táo như những người bình thường, thậm chí còn "tỉnh queo", chứ không hề ngơ ngác, lơ tơ mơ như cách người ta vẫn hình dung về… các thi sĩ.

Trần đăng khoa kể: Khi những bài thơ đầu tiên của anh được in và được dư luận “công kênh”, không ít người đã lặn lội hàng trăm cây số về xã quốc tuấn (huyện nam sách, hải dương- quê anh) để tìm hiểu xem tác giả của chúng "người ngợm" ra sao.

Họ ngắm nghía, vạch tóc xem khoáy đầu, xem tai, thậm chí có người còn vần chú bé 8 tuổi ra để xem… rốn. Rồi thì họ im lặng bỏ đi, giữ một thái độ kín bưng khiến gia chủ không khỏi có phần… kinh sợ! Trong làng, lác đác đã có tin đồn chú bé khoa… có đuôi. Lại có đợt rộ lên tin khi khoa "ị" thì… phân lại hình vuông (chứ không tròn như những đứa trẻ khác).

Như vậy, sự đồn thổi đã đeo đẳng trần đăng khoa ngay từ khi anh còn thơ bé. Và, theo thời gian, hiện tượng ấy không những không "ngót" đi mà ngày càng "phình" to ra.

Cứ theo trần đăng khoa thổ lộ thì vốn dĩ anh rất xuề xòa, ăn uống thế nào cũng xuôi. Chỉ riêng món nước chấm là anh rất ghét pha trộn. Nước mắm bao giờ cũng phải nguyên chất. Thế thôi mà cũng thành giai thoại. Rằng thì khi đi nước ngoài, trần đăng khoa luôn thủ sẵn trong va ly một chai nước mắm mang theo từ nhà.

đến ngày về, vì lâu không được dùng nước mắm, "lão" rất nhớ. "lão" gạt vợ ra, xồng xộc chạy vào tủ, lôi ra chai nước mắm, tu một hơi hết… nửa chai (cứ như người nghiện rượu vậy!), rồi mới quay lại… đón vợ. Mà người đưa chuyện ấy lên báo nào phải ai đâu xa, là nhà văn nguyễn văn thọ, bạn thân, thậm chí rất thân với anh.

Một người bạn thân nữa - nhà văn sương nguyệt minh trong một giai thoại lại kể chuyện trần đăng khoa cùng người yêu (sau này là vợ anh) dung dăng dung dẻ vào siêu thị. Tại đây, trần đăng khoa đã tít mắt cười sung sướng vì mua được bộ complê với giá rẻ như cho: Chỉ có 68 nghìn đồng (sau mới biết là hàng tàu, sở dĩ người ta phải bán đại hạ giá vì… lỗi mốt).

Trần đăng khoa khẳng định ngay đây là chuyện… bịa. Anh tâm sự: "mình có đặc điểm bao giờ cũng dùng đồ đắt tiền và không bao giờ mua đồ cũ. Một bộ complê mà giá chỉ hơn năm chục ngàn thì chắc chắn là đồ cũ. Như thế kinh khủng lắm. Biết đâu của người chết thì sao? Quần áo mới, người khác mặc một lần rồi mình còn rùng mình nữa là…".

Cũng theo trần đăng khoa thì trong việc mua sắm, quan điểm của anh là cứ chọn đồ đắt. đó là cách "tiết kiệm" nhất: Tiết kiệm tiền, tiết kiệm công sức, tiết kiệm thời gian (ý nói tiền nào của nấy. đồ tốt thì đỡ hỏng hóc, phải mua sắm lại).

Và trần đăng khoa cho ví dụ: Hiện tại, anh đang dùng chiếc tivi màn hình phẳng loại tốt nhất. Chiếc máy tính xách tay của anh cũng vào loại hiện đại, nó có thể xem được truyền hình kỹ thuật số màn phẳng (tới 40 kênh) mà không cần phải có usb cắm vào. Anh mua nó cách đây 4 năm với giá 3.200 usd. Nói vậy để thấy, chuyện trần đăng khoa mừng rơn khi mua được bộ complê chỉ với giá 68 ngàn đồng là một chuyện… phi lý.

Cũng trong bài viết trên, tác giả còn nhắc tới một tình tiết: Vì bỏ quên ví, trần đăng khoa phải quay xe về nhà lấy tiền. Và khi anh mở khóa cửa thì cũng vừa lúc một tốp các cụ nghỉ hưu ở một câu lạc bộ thơ ngoại thành tìm gặp. Hai bên rôm rả đọc thơ, bình luận, rồi gật gù, vỗ tay, tán thưởng… cho mãi đến khi đèn đường bật sáng, trần đăng khoa mới giật mình nhớ ra anh đang bỏ quên người yêu ngoài… siêu thị.

Trần đăng khoa cho hay: đi đâu, gặp người lạ, anh chỉ "tán nhăng nhít, tếu táo", chứ rất ít nói chuyện thơ. Thậm chí nói chuyện thơ với đối tượng không thích hợp anh còn cảm thấy ngượng. Trước sau anh quan niệm: Thời bây giờ không phải là "thời đại của thi ca". Hơn nữa, anh vốn rất dị ứng với các loại thơ "câu lạc bộ". Bởi vậy, không thể có chuyện anh vì mải nghe thơ các cụ mà bỏ quên người yêu được.

Trước đây, trên một tờ báo có in mẩu giai thoại kể chuyện nhà thơ trần đăng khoa… đi buôn. Từ liên xô về, anh cùng anh bạn chung vốn "đánh quả" mặt hàng… khăn quàng đỏ. Những thùng hàng này được anh cất kỹ dưới gầm giường, thỉnh thoảng lại trở dậy mở ra… ngắm nghía. Thế rồi, hàng bị phát hiện là có màu gạch cua (chứ không đỏ như loại khăn quàng ở việt nam), thành thử… không bán được.

Bình luận về mẩu giai thoại này, trần đăng khoa nói: "chuyện viết để vui thôi, không có gì ác ý, nhưng vô lý. đã buôn phải buôn thứ quý hiếm, không ai mua thứ không bán được. ở việt nam, không ai bán khăn quàng đỏ. Thứ này nó vào việt nam theo ngạch khác. Các em học sinh được kết nạp đội, được nhà trường phát khăn quàng, không phải mua. Vậy chúng tôi buôn khăn quàng thì bán cho ai?".

Lại có giai thoại về việc trần đăng khoa gặp dích dắc khi làm thủ tục đám cưới. Một tác giả đã viết mười mươi trên báo, rằng khi ông hỏi trần đăng khoa phương án đón dâu, ông được nhà thơ trả lời: "xe cô dâu thì thằng ninh bạn em nó lo. Còn tất cả nhà gái tự túc". ông trợn mắt: "kể cả người đến xin dâu, họ nhà gái cũng tự túc?". Trần đăng khoa ngạc nhiên: "xin dâu thì hôm nọ đi đăng ký, mình đã xin rồi còn gì nữa". Nghe thần đồng thơ trả lời vậy, tác giả bài báo buông câu bình luận: "thì ra cu cậu cũng chưa hiểu thế nào là xin dâu. Tôi vừa thấy tức, vừa buồn cười".

Khi tôi vừa nhắc lại chuyện này với trần đăng khoa, anh phẩy tay nói ngay: "bịa. Hoàn toàn bịa hết. Mình sinh ra và lớn lên ở nông thôn, lại như thằng ma xó ấy, làm gì không biết chuyện xin dâu phải như thế nào. đó là việc quá tối thiểu. Chẳng qua là lần đó, đám cưới đã cận ngày mà đống giấy mời vẫn chưa chuyển đi được là bao. Các cụ ở xa, mình chỉ có một thân một mình, nên mới nhờ bác ấy chuyển giúp một số thiếp mời. Ai ngờ bác ấy lại "vẽ" thêm ra chuyện như thế…".

Còn một "nỗi oan" mà trần đăng khoa cảm thấy nếu không kể ra thì anh vẫn còn thấy… tưng tức, đó là việc người ta gán cho anh cái giai thoại "sửa thơ tố hữu".

Anh nói: "không rõ từ bao giờ, trong dân gian loan truyền chuyện mình đã chữa câu thơ tố hữu (trong bài "ta đi tới"): đường ta rộng thênh thang tám thước thành ra đường ta rộng thênh thang ta bước. Chính thức thì mình chưa thấy cái giai thoại này in trên báo chí ta bao giờ, nhưng báo chí của người việt ở nước ngoài thì có.

Một lần, mình gặp gỡ độc giả người việt ở béclin, có người đã hỏi mình về việc này. Mình đính chính đây là "lời đồn". ấy thế rồi chính ông tác giả mẩu giai thoại trên lại xưng xưng mọc mọc rằng "trần đăng khoa bây giờ đang chối". Sự thật, nếu người tinh ý sẽ thấy, không ai dở hơi mà chữa thơ như thế cả. Vì câu trên của tố hữu là trên đường cái ung dung ta bước thì câu dưới không thể lại là đường ta rộng thênh thang ta bước, lặp lại hai chữ "bước" được. đấy, sự thể đơn giản vậy mà họ cứ dựng đứng lên như thế, rất buồn cười".

Chuyện trần đăng khoa "nhát gái" cũng đi vào giai thoại với mật độ khá dày đặc. Như có tác giả kể lại rằng: Một lần trần đăng khoa ngồi với bạn gái trong gian phòng chỉ có hai người. Khi cô gái ra khép cửa chính thì trần đăng khoa lại bước ra mở cửa, thậm chí lấy gạch chặn từng cánh lại cho chắc. Cứ "giằng co" vài lần như thế, cô gái phát bực, mắng: "anh làm sao thế. Những cửa sổ mở toang ra kia không đủ thở hay sao?".

đây là câu chuyện trần đăng khoa thừa nhận có thật, nhưng chỉ là "thật 50% thôi", vì người viết không nói rõ đó là vào thời điểm những năm 1975-1976, thời kỳ mà chuyện nam nữ đang tìm hiểu nhau không dưng khép cửa vào rất dễ khiến người đời dị nghị. Hơn thế, việc người khép người mở cũng chỉ được thực hiện một lần, "có phải trẻ con đâu mà giằng co".

Liên quan đến chuyện học tiếng nga, trần đăng khoa cũng phải "góp" vào làng văn nghệ việt nam một giai thoại không mấy dễ chịu.

Chuyện kể rằng: Hồi vừa rời khoa tiếng nga, trường đại học tổng hợp lômônôxốp để làm thủ tục nhập học ở trường viết văn goócky, trần đăng khoa được nhân viên giáo vụ của trường phát cho một tờ khai. Phần đầu nhà thơ trẻ trả lời khá mau lẹ. đến phần sau, với hai câu hỏi: "sang liên xô lần thứ mấy?" và "đã có vợ chưa?", đáng lẽ khai "sang liên xô lần thứ hai" và "chưa có vợ", không biết có phải do vốn tiếng nga còn mỏng, trần đăng khoa lại ghi số 0 vào mục "sang liên xô lần thứ mấy?" và ghi số 2 vào mục "đã có vợ chưa?". Giáo vụ trường viết văn goócky là một cô gái trẻ. đọc tờ khai của trần đăng khoa, cô trợn mắt ngạc nhiên, không ngờ một chàng trai trưởng thành dưới mái trường xhcn ấy lại là người "đa thê" như thế. Ngay lập tức, chuyện trần đăng khoa "hai vợ" được cô báo cáo với ban giám hiệu.

Sự thực, ở ngoài đời, trần đăng khoa có "yếu" ngoại ngữ đến vậy không?

fangzi
26-08-2012, 09:13 AM
NHÀ THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA & GIAI THOẠI... (tiếp theo)


Trước khi trả lời câu hỏi của tôi, nhà thơ Trần Đăng Khoa cho rằng, cần phải tặng "bằng khen" cho người bịa ra chuyện này, bởi theo anh "Ai học tiếng Nga đều biết, giữa hai câu hỏi: Sang Liên Xô lần thứ mấy? và Đã có vợ chưa?, chúng chẳng liên quan gì đến nhau. Người dốt tiếng Nga đến mấy cũng không thể nhầm nội dung câu nọ ra câu kia. Sự thực, nếu có nhầm thì là nhầm giữa hai câu: Đã có vợ chưa? và Anh có hiểu tiếng Nga không?, bởi trong hai câu hỏi này, có chữ zhenat (nghĩa là đã có vợ) và znat' (là hiểu biết) đọc nghe na ná nhau. Bởi thế hồi mới sang Nga, mình cũng đã từng trả lời lộn hai câu hỏi này".

Về khả năng tiếng Nga, nhà thơ Trần Đăng Khoa thật thà tâm sự: "Mình nói tiếng Nga không hay. Nó ra ngay một "thằng bồi". Nhưng được cái mình diễn đạt được đúng điều mình nói. Ngữ pháp mình dùng không phải ngữ pháp người Nga. Người Nga bảo: Anh nói tôi biết hết, nhưng người Nga chúng tôi không nói như thế. Tóm lại, ai đùa cứ đùa. Còn nói mình lõm bõm tiếng Nga thì không đúng. Nếu chỉ biết như thế thì làm sao mình có thể tốt nghiệp loại xuất sắc. Như chuyến đi Đức cách đây mấy năm, mình giao tiếp, làm việc tất tần tật bằng tiếng Nga đấy chứ".

Để kết thúc câu chuyện có vẻ hơi… dài dòng này, nhà thơ Trần Đăng Khoa thẳng thắn bày tỏ: "Các nhà giai thoại nên nhìn nhà thơ như người bình thường, không nên biến người ta thành… dị dạng. Các nhà thơ bây giờ cũng nhiều người khôn ngoan, thiết thực lắm".

Về phía mình, anh tự đưa ra nhận xét: "Tôi thực sự là con cáo trong đời sống. Chứ cứ "ú ớ" như người ta viết thì làm sao quản lý được số lượng cán bộ, nhân viên đông như thế".

(Nhân đây, xin giới thiệu thêm: Hiện tại, nhà thơ Trần Đăng Khoa đang là Giám đốc hệ VOVTV của Đài Tiếng nói Việt Nam với quân số lên tới gần trăm người)

Nguồn:CAND

thieugia
26-08-2012, 01:58 PM
NGẪM NGỢI VỚI TRẦN ĐĂNG KHOA TỪ MỘT ĐÁM MA
Tác giả NGUYỄN ĐỨC GIAO



NGẪM NGỢI TỪ MỘT ĐÁM MA

Thân gửi Nhà thơ Trần Đăng Khoa

Vẫn biết nghĩa tử là nghĩa tận nhưng mỗi lần đi đám tang của công chức hoặc người nhà của họ trong những năm gần đây vẫn cứ thấy thế nào ấy. Sự thương xót, tiếc nuối hình như ngày một vơi đi, mà sự chiếu lệ, vờ vĩnh, toan tính thì ngày càng hiện rõ trên khuôn mặt của những người tham dự. Sáng nay đi viếng đám tang của Sơ, người cùng cơ quan, tôi vừa buồn cho người đã khuất, vừa buồn vì cảm nhận này càng rõ.

ĐÁM MA BÁC GIUN

Bác Giun đào đất suốt ngày
Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà
Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến con đi trước, kiến già theo sau

Cầm hương kiến Đất bạc đầu
Khóc than kiến Cánh khoác màu áo tang
Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng
Kiến Kim chống gậy, kiến Càng nặng vai

Đám ma đưa đến là dài
Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà
Kiến Đen uống rượu la đà
Bao nhiêu kiến Gió bay ra chia phần...

1967
Cách đây hai hôm, nửa đêm tỉnh giấc vì tiếng chuông điện thoại. Anh Trưởng phòng thông báo với giọng thảng thốt: “ Anh Sơ mất rồi, anh đã biết tin chưa?”. Sao lại thế? Vừa uống rượu với nhau lúc tối đây mà. Hội nghi tổng kết công tác của ngành bế mạc lúc chiều. Anh em điếu đóm phục vụ phấn khởi vì hoàn thành nhiệm vụ, được Bộ trưởng biểu dương nên tổ chức bữa cơm thân mật ngay tại nhà ăn phục vụ Hội nghị. Anh Sơ là Vụ trưởng, lại là người biên tập lần cuối Báo cáo tổng kết được Bộ trưởng dõng dạc đọc trước Hội nghị sau nhiều lần do nhiều người viết đi viết lại không thành. Vì hứng chí, phấn khích nên anh uống hơi nhiều cả rượu lẫn bia. Có lẽ vì vậy chăng? Cũng cần nói thêm anh Sơ là một ứng cử viên nặng ký trong lần chuẩn bị bổ nhiệm Thứ trưởng lần này. Ôi thôi! Thế là hết! Hết cả sự kèn cựa, tranh giành. Hết cả sự nhờ vả, cầu cạnh. Chỉ còn lại những người lãnh cảm, thờ ơ.

Chợt nhớ lại bài thơ Đám ma bác giun của Trần Đăng Khoa mà mình thuộc từ ngày còn bé khi Tập thơ đầu tay Góc sân và khoảng trời của Khoa vừa ra đời, gây xôn xao trong dư luận. Xin lỗi anh Khoa: tôi chỉ thích bài này theo nguyên tác ngày xưa anh viết. Bản anh chỉnh sửa sau này là từ góc nhìn của người lớn, làm thay đổi ít nhiều chất ngây thơ, hồn nhiên của con trẻ. Mà lạ thay anh Khoa ạ: tôi cứ nghĩ là với bài thơ này theo nguyên tác, anh đã mô tả, đã chỉ đúng và sâu hơn cái không khí, cái chất, cái hồn của các đám tang công chức thời nay. Này nhé:

Bác giun đào đất suốt ngày
Trưa nay bỗng chết bóng cây sau nhà

Thế là bác giun đột tử vì làm việc quá sức, chắc vì lao lực. Thì đúng rồi như anh Sơ của chúng tôi đây suốt đời tận tụy, càng phải tận tụy vì anh vốn xuất thân trong một gia đình công giáo. Tận tụy cho đến khi chết vì bản báo cáo mà không kịp trăng trối một lời với vợ con, bạn bè. Nhưng mà cũng có niềm an ủi là anh đi mát mẻ, nhẹ nhàng như bác giun chết dưới bóng cây chứ không phải dưới cái nắng chang chang chết cả cá cờ mà Khoa đã tả.

Bác giun chết, thế là lũ kiến kéo ra làm thịt bác nhưng vì anh Khoa thương bác, nên anh cho là chúng đi đưa tang bác. Thật là nhân văn mà cũng rất trẻ con.

Họ hàng nhà kiến kéo ra
Kiến ông đi trước, kiến bà theo sau

Nghe đọc thì hai câu này được anh sửa thành: “Kiến con đi trước, kiến già đi sau”. Vậy là không có tôn ty trật tự, không hợp với cách ứng xử của người Việt Nam mình anh Khoa ạ. Không ai cho trẻ con đi trước, tức là liền sau linh cửu vì sự tôn nghiêm đã đành mà còn vì xót đám trẻ, không nên để cái phần âm ám vào bọn nó.

Hai câu tiếp anh cũng sửa:

Cầm hương kiến đất bạc đầu
Khóc than kiến cánh khóac màu áo tang

Theo trí nhớ của tôi thì ngày trước anh viết: “Cầm hương cụ kiến bạc đầu/ Khóc than kiến cánh khoe màu áo tang”. Thôi thì “cụ kiến” hay “kiến đất” cũng được. Mà cho kiến đất cầm hương thì có đủ thêm loài kiến. Nhưng “Khóc than kiến cánh khoe màu áo tang” hay hơn, ít nhất cũng hợp hơn với cảnh đám viếng mà tôi đang thẩn thơ ngắm nhìn đây. “Kiến cánh” bây giờ nhiều lắm anh Khoa ạ. Họ may sẵn hẳn vài bộ quần áo tang, nghĩa là màu đen, không phải bằng vải xô đâu mà bằng vải đẹp hẳn hoi, may theo mốt hẳn hoi. Và chờ có đám tang thì họ diện (như anh dùng chữ “khoe” ấy) và lăng xăng chạy ra chạy vào, đôi kẻ mau nước mắt còn vờ vịt than khóc để tỏ ra là mình có nghĩa, có tình, để làm xúc động những người họ đang muốn lấy lòng tin.

Nhưng kinh hoàng là loài kiến lửa: “Kiến lửa đốt đuốc đỏ làng”. May quá, câu này anh không sửa, trong khi có thể cần chỉnh vì sự vô lý: đám tang bác giun diễn ra buổi trưa mà sao kiến lửa “đốt đuốc đỏ làng” được. Nhưng trong sự vô lý ấy tôi thấy có sự hợp lý vì tôi nhìn thấu tâm can những “con kiến lửa” đang bâu quanh anh Sơ của tôi đây. Khổ thân anh Sơ! Chúng nó đốt đau lắm anh à, sưng cả người lên ấy. Không phải chúng đi đưa tang anh đâu. Chúng nó đang xâu xé anh đấy. Lại còn vừa ăn cướp vừa la làng. Cứ xem cái cách chúng ngang nhiên “đốt đuốc” ấy. Thôi không thèm chấp cái loại người vô nhân tính ấy.

Bây giờ hãy xem kiến kim và kiến càng: “Kiến kim chống gậy, kiến càng mang mai”. Đây đích thị là những người tốt, những người thực lòng, chịu khó gánh lấy cái phần việc vất vả nhất đối với người đã khuất: đào huyệt! (Xin anh Khoa đừng giao cho kiến càng cái việc khiêng quan tài “nặng vai”. Cứ để kiến càng vác cái mai xen đất để nó tỏ được cái tình, cái nghĩa của nó).

Cuối cùng là:

Kiến đen uống rượu la đà
Bao nhiêu kiến gió chạy ra chia phần

Xin đừng trách kiến đen. Đám tang nào mà chẳng có người say. Có kẻ nát rượu mà say, nhưng cũng có người buồn mà uống cho say đấy. Thực ra họ cũng vô tứ, vô tâm, không có ý đồ gì trước sự ra đi của một con người. Đáng trách, đáng giận, đáng phỉ nhổ là lũ kiến gió. Khi bác giun mất chẳng biết trốn đi đằng nào, sau khi “Đám ma đưa đến là dài/Đi qua vườn chuối, vườn khoai, vườn cà” mới chịu thò cái mặt ra “chia phần” quả thực. Vội đến nỗi có cánh nhưng không kịp khởi động để bay mà chạy ba chân bốn cẳng.

Thưa anh Sơ! Tôi vừa nhẩm đọc cho anh nghe bài thơ của anh Trần Đăng Khoa. Rất có thể lúc viết bài Đám ma bác giun Trần Đăng Khoa không nghĩ như tôi khi đi viếng anh. Xin anh đừng buồn nơi chín suối. Cuộc đời ấy mà.

Tây Hồ, tháng 5/2012
NGUYỄN ĐỨC GIAO


Trưa nay đi trực, có thời gian ngồi đọc lại bài phân tích của Nguyễn Đức Giao về bài thơ Đám ma bác giun của Trần Đăng Khoa... mà khiến laojia tôi có đến mấy đợt nổi gai. Không biết nổi gai vì cái không khí tang tóc của "Đám tang bác giun", nổi gai vì sự ra đi đột ngột của bác Sơ, nổi gai vì phép so sánh của bác Giao hay tôi nổi gai vì ngồi một mình (vì là ngày nghỉ nên chỉ một mình tôi trực ban trên cơ quan) ?!. Nhưng cho dù vì bất cứ lý do gì mà nổi gai ốc cũng khiến tôi vô cùng mừng. Vì đã lâu, lâu lắm rồi ! Lâu lắm rồi người tôi chưa bao giờ nổi gai ốc, chỉ có hôm nay... Vâng ! Chỉ có hôm nay đọc bài phân tích này mới khiến cho tôi như thấy lại chính mình, cảm nhận được cái cảm xúc đã bị lãng quên mấy chục năm nay... Mấy mươi năm nay, tuy không phải là kiến lửa, kiến gió nhưng hình như cũng có lúc mình đã từng nhập vai kiến cánh, kiến than ;)

Cảm ơn fangzi đã sưu tầm bài viết hết sức thú vị và độc đáo.

fangzi
27-08-2012, 10:26 PM
Đêm Côn Sơn
Thơ Trần Đăng Khoa

http://fc05.deviantart.net/fs38/i/2008/317/6/d/falling_leaf_by_eiran04.jpg
Ngoài thềm rơi cái lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng

Nguyên văn:



Tiếng chim vách núi nhỏ dần
Rì rầm tiếng suối khi gần khi xa
Ngoài thềm rơi cái lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng
Mờ mờ ông bụt ngồi nghiêm
Nghĩ gì, ông vẫn ngồi yên lưng đền...
...Bỗng đâu vang tiếng sấm rền
Tỉnh ra em thấy trong đền đỏ hương
Ngang trời kêu một tiếng chuông
Rừng xưa nổi gió, suối tuôn ào ào
Đồi thông sáng dưới trăng cao
Như hồn Nguyễn Trãi năm nào về thăm
Em nghe có tiếng thơ ngâm...
*
Ngoài kia nòng pháo ướt đầm sương khuya...

1968

fangzi
27-08-2012, 11:14 PM
KỂ CHUYỆN XUÂN DIỆU BÌNH THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA
Tác giả : Hoàng Kim



Tôi nhớ cách đây 40 năm khi chú Xuân Diện đến đọc thơ ở Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc. Mấy ngày hôm trước, trên bảng thông tin của Trường viết hàng chữ bằng phấn trắng. Lúc 7g tối thứ Bảy này có phim TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT CÓ THỂ HOÃN ! Thuở đó liên hệ phim rạp thật khó. Người viết có lẽ vì không chắc chắn nên đã viết câu trước rất khiêm tốn, nhỏ nhắn , còn câu sau thì viết rất to , ý muốn nói có thể có phim mà cũng có thể không, trường hợp đặc biệt có thể hoãn (để mọi người đừng phiền). Buồn cười là không hiểu sau, có lẽ là vì quá mong mỏi nên các lớp sinh viên chúng tôi lại kháo nhau, rũ nhau đi xem vì tên phim hay lắm, ngộ lắm. Trời mới chập tối, sân trường đã có nhiều người đến xí chỗ tốt gần rạp chiếu. Mặc dù thứ bảy là ngày cuối tuần, nhiều bạn thường về Hà Nội hoặc đi Bích Động. Cuối cùng, thì việc sẽ đến phải đến. Tối đó không có phim thật nhưng thay vào đó Đoàn trường đã rước được nhà thơ Xuân Diệu về nói chuyện.

Tôi thích thơ nên ngồi gần và nhớ như in cái chuyện thay kính của nhà thơ Xuân Diệu khi ông trò chuyện đến chỗ hứng nhất (Sau này trong Chân dung và đối thoại, tôi đặc biệt ấn tượng cái chi tiết tả thực này của Trần Đăng Khoa là Xuân Diệu không có thói quen lau kính mà ông có hai kính để luôn thay đổi., khi kính bị mờ là ông thay kính khác và nói chuyện thật say mê). Ông nói rất hào hứng và tôi thì nhìn ông như bị thôi miên. Đột nhiên ông chỉ vào mặt tôi : “Đố em biết Trần Đăng Khoa mấy tuổi?”. Tôi sững người hơi lúng túng vì bất ngờ nhưng sau đó kịp đáp ngay là Trần Đăng Khoa cỡ tuổi Hoàng Hiếu Nhân nên tôi nghĩ rằng có lẽ Khoa nhỏ hơn tôi ba tuổi. Hình như chú Xuân Diệu quên béng mất câu hỏi và cũng chẳng quan tâm đến tôi đang chờ đợi ông giải đáp cho mọi người là đúng hay sai. Mắt Xuân Diệu tự dưng như mơ màng, như thảnh thốt nhìn vào một chốn xa xăm … Giọng ông hạ chùng hẵn xuống như nói thủ thỉ với riêng tôi trước mặt mà quên mất cả một cử toạ đông đảo: “Tôi học bà má Năm Căn gọi anh giải phóng quân bằng thằng giải phóng quân cho nó thân mật. Tôi gọi Trần Đăng Khoa là thằng cháu Khoa vì sự thân mật, chứ thực tình Trần Đăng Khoa lớn lắm…. lớn lắm… lớn lắm (ông lắc lắc đầu và lặp lại ba lần). Mai sau, muốn biết thời gian lao của nước mình, người đọc chắc chắn phải tìm đến Khoa. Xuân Diệu đây này (Ông gập người xuống, tay nắm mũi làm điệu bộ )Tôi phải cúi..úi ..i xuống như thế này (Xuân Diệu gập người thấp, rất thấp, tay lay mũi, tay đỡ kính) đến lấm mũi và gọi là …. ông Khoa. Ông đột ngột nói to : ÔNG KHOA ! (mọi người cười ồ lên). Tôi – Xuân Diệu nói tiếp- đang chuyển thể và giới thiệu thơ Khoa ra thế giới. Hay lắm ! Thú lắm ! Tôi đọc cho các anh chị nghe nhé. EM KỂ CHUYỆN NÀY … Ông đọc chậm rãi – Chưa khi nào và chưa bao giờ tôi nghe thơ hay vậy. Và tôi thuộc , thuộc năm lòng suốt 40 năm! Các bạn biết không, tôi rất dỡ việc nhớ số điện thoại, thế mà lại thuộc một bài thơ dài. Số điện thoại của tôi đây, Hoàng Kim 0903613024. Bạn hãy kiểm tra bất chợt bất cứ lúc nào để biết chắc rằng tôi không có thủ một cuốn thơ của Khoa trong tay. Và rằng thật may mắn trên đời , chúng tôi có Khoa cùng xóm lá và Khoa thì may mắn có người thầy không lồ như Xuân Diệu để đứng lên vai, để lắng nghe những lời khen chê và tự soi lại mình, để Khoa mãi là Khoa trong lòng người cùng thời và Khoa không thể viết nhạt, không phụ lòng người đọc.

Để minh chúng , tôi xin chép lại bài thơ tôi nghe từ dịp đó. Bản này so với các bản in sau này, hình như Khoa có sửa một ít chữ hoặc cũng có thể nhà thơ Xuân Diệu hoặc tôi nhớ sai …

* Phản hồi từ: Trần Đăng Khoa ·http://Blogtiengviet.net/Lao Khoa 26.09.11@15:40 @Hoang Kim Cám ơn bác đã cho tôi những tư liệu rất hay về nhà thơ XD. Động tác và tính cách là rất chuẩn. XD đúng như vậy. Hy vọng dịp nào chúng ta gặp nhau. Chúc bác thành công trong sự nghiệp Dạy và Học.

Nguyên văn bài thơ



EM KỂ CHUYỆN NÀY…
Thơ Trần Đăng Khoa

Sáng nay
Bọn em đi đánh dậm
Ở ao làng
Bên ruộng Lúa xanh non
Những cô Lúa phất phơ bím tóc
Những cậu Tre
Bá vai nhau
Thầm thì đứng học

Những chị Cò trắng
Khiêng Nắng
Qua Sông
Cô Gió chăn Mây trên Đồng
Bác Mặt trời
đạp xe qua đỉnh Núi
vẻ vui tươi
nhìn chúng em nhăn nhó cười …

Chúng em rất vui
vì đánh được nhiều Cá.
Này chị Cua càng
giơ tay chào biển Lúa
Này thằng Rói nhớ ai
mà khóc mãi
mắt đỏ ngầu như lửa.
Này câu Trê
đánh võ ở đâu
mà ngã bẹp đầu.
Lòng chúng em dào dạt …

Bỗng …
Trên con đường cát
Có vài bạn gái
Dáng chừng vừa đi học về
Đầu đội mủ rơm
Lưng đeo túi thuốc
Khăn quàng nở xòe trước ngực
Theo gió bay bay…

-Các bạn tìm gì ở đây?
Hây tìm lọ mực
Hay tìm bút máy đánh rơi ?
Các bạn đều trả lời

- Hôm qua
Thằng Mỹ bị bắn rơi
xuống cánh đồng ta
Các chú dân quân dong nó đi xa
Vẫn còn lại
những dấu chân in trên cát
Vẫn còn lại
những dấu chân tội ác
Trông vào nhức mắt
Các bạn đào đổ xuống ao sâu
Đổ xuống lòng mương
Từ lúc mờ sương
Cho tới khi
tiếng trống gọi về trường
Vẫn chưa hết
những dấu chân trên cát
Vẫn chưa hết
những dấu chân tội ác
Các bạn còn đào
đổ xuống ao sâu.

- Chao ôi !
Những lão Trê
đánh võ ngã bẹp đầu
Thắng Rói
mắt đỏ ngầu như lửa
và những chị Cua càng
dơ tay chào biển Lúa
đã ăn phải dấu chân này
bẩn thỉu biết bao …

Chúng em lặng nhìn nhau
Chẳng ai bảo ai
Chúng em đổ cả xuống ao
Trở về nhà với chiếc giỏ không
Và hát nghêu ngao

(Em kể chuyện này…
Mẹ không mắng
nên chúng em rất thích)
Những chị chim Sâu trên cành
Nhìn chúng em cười
Tích !
Tích !


* Phản hồi từ: Trần Đăng Khoa http://lao.blogtiengviet.net 27.09.11@10:46 @Hoangkim Tôi quên bài thơ này rồi mà bác thì nhớ. Tài thật. Có nhiều câu thêm vào như “mẹ không mắng đâu nên em rất thích”. Còn thì cơ bản chính xac. Vái bác

fangzi
28-08-2012, 12:07 AM
MỐI DUYÊN THI CA XUÂN DIỆU - TRẦN ĐĂNG KHOA
Tác giả: VŨ NHO



Có thể nói nhà thơ Xuân Diệu là người có công lớn góp phần phát hiện ra tài năng Trần Đăng Khoa, quảng bá và giới thiệu thơ Trần Đăng Khoa không chỉ ở trong nước, mà còn cả ở nước ngoài. Chính ông đưa đoàn vô tuyến truyền hình Pháp về làng quay phim “Thế giới nhỏ của em Khoa” năm 1968. Và cũng chính ông dịch một số bài thơ Khoa ra tiếng Pháp. Xuân Diệu đã cùng Huy Cận về tận Hải Dương thăm nhà Khoa, thăm cái sân "cái thế giới đầu tiên của bé Khoa", xem xét tỉ mỉ các "nhân vật" trong thơ Khoa. Mẹ Trần Đăng Khoa kể: "Bác nhà báo đã mượn cây đèn bão xách ra vườn, soi từng giàn trầu, gốc cau, luống mía và mấy cây bưởi". Chiều hôm sau, trong khi Huy Cận nói chuyện với mọi người thì Xuân Diệu đã kéo Khoa ra ngoài, thực hiện cuộc chuyện trò đầu tiên."Ông ngồi bệt xuống góc sân trước cửa chuồng gà và bắt đầu chất vấn tôi. Mồ hôi ông vã đầm đìa, ướt đẫm cả cái áo sơ mi kẻ sọc". Nói về ảnh hưởng lớn lao của Xuân Diệu đối với đời thơ của mình, Trần Đăng Khoa viết: "Tôi đến với thơ hồn nhiên như em bé đến với trò chơi. Nhưng khi gặp Xuân Diệu thì tôi hiểu được rằng thơ ca không bao giờ là trò chơi cả. Nó là một công việc sáng tạo cực nhọc. Có thể nói may mắn cho đời tôi là tôi đã sớm gặp Xuân Diệu".

Sau khi Xuân Diệu gặp Trần Đăng Khoa ở quê, trực tiếp kiểm tra và xem xét hiện tượng thơ của chú bé thần đồng, đặc biệt là sau buổi phát thanh tiếng thơ đêm 1 tháng 6 năm 1968," Xuân Diệu trở thành người thầy dạy nghề nghiêm khắc, gần gũi, thân thiết" của Trần Đăng Khoa. Kể cũng là một sự lạ. Huy Cận cũng gặp Trần Đăng Khoa, Chế Lan Viên cũng thế.Cả hai nhà thơ đều cảm tình, quý mến bé Khoa. Nhưng chỉ có Xuân Diệu là gắn bó thân thiết với Khoa suốt đời. Phải chăng có một duyên nợ riêng, tiền định giữa hai người ?

Kỳ 1: Xuân Diệu sòng phẳng với Trần Đăng Khoa

Xuân Diệu coi Trần Đăng Khoa như cháu, như em, như đồng nghiệp và ông đã dành không ít tâm sức cho cậu học trò đặc biệt này. Ông có riêng một "bảo tàng" của Khoa- một thùng sắt" trông hao hao như cái tráp đồ lề của mấy ông thợ cạo nhà quê". Tất cả thư từ, bản thảo của Trần Đăng Khoa ông đều cất vào đó. Và ông đều đọc, đều có ý kiến nhận xét. Đây là hồi ức của Trần Đăng Khoa :"…nhận thư và thơ tôi, bao giờ ông cũng trả lời, và trả lời ngay tắp lự. Trong thư ông nhận xét và góp ý rất cụ thể. Ông không phân tích, bình luận dông dài, mà chỉ đưa ra cái kết luận ngắn gọn có tính tổng quát". Chúng ta thử xem những ý kiến của Xuân Diệu đã tác động đến Trần Đăng Khoa như thế nào trong những trường hợp cụ thể. Qua đó, có thể thấy được nhiệt tình, sự tinh tế, có nghề của Xuân Diệu. Đồng thời, cũng thấy được người học trò của ông đã tiếp thu sự chỉ bảo từ vị sư phụ của mình ra sao.

1.Bài thơ Hạt gạo làng ta

Trần Đăng Khoa viết đoạn kết của bài thơ như sau: “Hạt gạo làng ta/ Gửi ra tiền tuyến/ Gửi về muôn phương/ Làm nên chiến trường/ Làm nên niềm vui/ Các cô các bác/ Đừng để gạo rơi”. Khi Khoa đưa bài thơ này cho Xuân Diệu, ông đọc xong, trợn mắt bảo: "Các cô các bác không phải là trẻ con đâu nhé, không đợi cháu dạy khôn như thế. Cháu còn bé phải tránh cái lối dạy dỗ. Giáo huấn- đấy là cái nhược điểm, cái bệnh chung của nền thơ ta. Cháu phải tránh xa". Như vậy Xuân Diệu không chỉ chê nhược điểm của bài thơ cụ thể. Ông đã yêu cầu chú học trò tránh lối dạy dỗ đã đành. Xa hơn, ông còn chỉ ra cái nhược điểm của cả nền thơ ta lúc đó. Tiếp thu sự phê phán của Xuân Diệu, Trần Đăng Khoa đã làm cho bài thơ có kết thúc thật cô đọng và hồn nhiên: “Hạt gạo làng ta. Gửi ra tiền tuyến. Gửi về phương xa. Em vui em hát. Hạt vàng làng ta”.

2. Bài thơ Đêm Côn Sơn

Trần Đăng Khoa viết: “Mờ mờ ông Bụt ngồi nghiêm. Sợ gì, ông vẫn ngồi yên lưng đền”. Xuân Diệu đã thay hai chữ Sợ gì thành Nghĩ gì. Quả thật hai chữ Sợ gì làm cho câu thơ không thật liền mạch. Trần Đăng Khoa đã nhận xét về trường hợp này:" Xuân Diệu chỉ thay một chữ Nghĩ, ông bụt đã hoá thành cơ thể sống, đã thành sự sống. Câu thơ bỗng sinh động có thần"
Tôi có một cách nghĩ hơi khác. Đúng là thay như thế thì được cho ông bụt. Nhưng lại mất, lại thiệt cho bé Khoa. Cái cậu bé lần đầu ngủ đêm trong chùa, nhìn thấy bụt cũng hãi (Tất nhiên, ma thì càng hãi). Bởi thế cậu ta mới nói to lên Sợ gì, chính là để tự trấn an. Thay mất chữ sợ, cũng mất luôn dấu vết sợ hãi rất là trẻ con, đặc biệt trẻ con. Chỉ còn chú Khoa ngắm nhìn bụt, ông bụt sống mà thôi. Điều này tôi đem trao đổi với các bạn học sinh trung học cơ sở yêu thơ. Các em đều nghiêng về ý muốn giữ lại cách viết đầu tiên của Trần Đăng Khoa để đúng tính chất trẻ con hơn.
Lần in lại,Trần Đăng Khoa chữa câu thơ “Tỉnh ra em thấy trong đền đỏ hương” thành “Tỉnh ra em thấy sáng đèn đỏ hương”. Khoa nghĩ : "Đây là đồ cải mả. Xuân Diệu đã đọc cả rồi, ông có thời gian đâu mà đọc lại nữa". Nhưng hoá ra Trần Đăng Khoa đã nhầm. Xuân Diệu vần đọc, đọc kĩ, lại còn mắng:" Cậu làm hỏng bài thơ rồi. Bài thơ đã toàn bích lại mang ra vặn vẹo. Cậu chữa lợn lành thành lợn què!". Chú bé Khoa đã suy nghĩ nhiều vì sao Xuân Diệu lại cho rằng chú chữa chạy hỏng. Và rồi chú tự tìm ra kết luận : Hỏng trước hết là vô lí. Đèn đã sáng thì hương làm sao còn đỏ được. Thứ nữa là trong chùa, đèn chỉ vặn nhỏ đặt ở bệ thờ để giữ lửa, nó không sáng. Sau hết, bụt chỉ ngồi trong "cái quầng tối mờ mờ" thì các ngài mới linh thiêng, sống động.
Trong ba cái lí do đó, xin được bàn góp ở lí do thứ nhất. Có phải khi mà đèn sáng thì hương không đỏ như Trần Đăng Khoa nói hay không? Hoàn toàn không phải thế. ánh sáng của đèn dầu, cả của đèn điện có thể có ảnh hưởng. Nhưng đèn cứ sáng và hương cứ đỏ. Tất nhiên sắc đỏ trên đầu nén hương sẽ không giống như là sắc đỏ đó ánh lên trong bóng tối. Bởi thế mà chỉ có hai lí do sau là có thể tin được. Mà để thoả mãn ấn tượng đỏ hương trong đền, Trần Đăng Khoa cũng phải chấp nhận sự hi sinh nho nhỏ, phải lặp chữ đền.

3. Bài thơ Tiếng nói:

“À uôm ếch nói ao chuôm/ Rào rào, gió nói cái vườn rộng rênh/ Âu âu, chó nói đêm thanh/ Tẻ… te…, gà nói sáng banh ra rồi”. Xuân Diệu phê "bốn câu trên cọc cạch". Trần Đăng Khoa nghĩ mãi, không hiểu cọc cạch ở chỗ nào. Tất nhiên, ào ào, âu âu, tẻ te mô phỏng trực tiếp tiếng gió, tiếng chó, tiếng gà. Còn à uôm không thật rõ tiếng ếch. Nhưng cái tiếng ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước có trong tục ngữ cho phép chú bé Khoa nghe ra à uôm và dịch ra thành ao chuôm, cũng như chú đã dịch các thứ tiếng còn lại. Cho đến tận bây giờ Khoa vẫn không hiểu được vì sao Xuân Diệu chê. Phải chăng vì giữa tiếng của các con vật, lại đặt tiếng gió vào, tạo ra sự không hệ thống? Và tiếng gío vi vu ở câu thứ năm lại là một tiếng bị lặp lại ?

4. Bài thơ Thơ tình người lính biển

Trần Đăng Khoa viết: “Vòm trời kia có thể sẽ không em/ Không biển nữa. Chỉ mình anh với cỏ/ Cho dù thế thì anh vẫn nhớ/ Biển một bên và em một bên”. Xuân Diệu không ưng ý. Ông bảo sao lại là vòm trời kia? Có nghĩa là Khoa chỉ yêu chim, hay yêu tàu bay. Chỉ có chúng mới ở trong vòm trời chứ có cô gái nào lên đấy. Rõ ràng, chỗ này Xuân Diệu đã chi li đến thái quá.

5. Bài thơ Ở nghĩa trang Văn Điển

Trần Đăng Khoa viết mở đầu: “Người nổi tiếng và người không nổi tiếng/ Đều gặp nhau trắng toát ở nơi này”. Khoa đưa Xuân Diệu đọc. Đọc xong, nhà thơ ngồi lặng đi. Mãi sau mới nói:"Tại sao mấy câu đầu, cậu lại "đánh" người nổi tiếng? Ví dụ như mình ấy. Sự nổi tiếng có tội gì đâu? Theo mình nên đổi là người danh lợi và người không danh lợi”. Trần Đăng Khoa thấy quả thật người nổi tiếng chỉ là số ít. Nổi tiếng hay vô danh không phải là sự khác biệt chủ yếu của mỗi phận người. Những năm tám mươi, trong tư duy thời ấy, sự khác biệt rõ nhất là giàu- nghèo. Khoa nói buột ý nghĩ của mình với Xuân Diệu: "Người danh lợi và không danh lợi nghe buồn cười. Nó được ý nhưng không thơ chú ạ!". Ai ngờ Xuân Diệu quát: "Cái gì là thơ, không thơ hả? Không có cái gì là không thơ nếu đặt đúng chỗ. Vấn đề là phải đặt đúng chỗ. Khi đặt đúng chỗ thì cứt cũng thơ. Ví như câu ca dao của ông bà: Em như cục cứt trôi sông. Anh như con chó ngồi trông trên bờ. Đấy, có gì thay thế được cái của ấy". Xuân Diêụ tặc tặc lưỡi, mắt nhắm lại đầy khoái cảm. Dù vậy thì Trần Đăng Khoa vẫn không dùng khái niệm danh lợi và không danh lợi của thầy. Nhưng cũng không nói về người nổi tiếng và không nổi tiếng. Nhà thơ nói về hạnh phúc và đau khổ. Đó là sự chung nhất cho cả mọi loại người, giàu nghèo, sang hèn, già trẻ…

Trên đây là một số trường hợp Xuân Diệu góp ý cụ thể cho thơ Trần Đăng Khoa. Phần nhiều ông chỉ đặt ra các câu hỏi. Đại loại:
- Sao cháu lại chọn thể thơ này, mà không phải là lục bát?
- Tại sao thế?
- Thế còn…sao cháu lại viết thế?
- Tại sao lại đội sấm, đội chớp? Ông sấm ông ấy đánh cái xoẹt. Thế cậu muốn bố cậu chết hay sao mà bắt ông ấy đội sấm?
- Vẫn mưa mà đất trước nhà vẫn khô. Khéo đất nhà cậu có ma chắc?
Những gợi ý, những câu hỏi như thế làm cho Trần Đăng Khoa suy nghĩ, xem xét và tự hoàn thiện thơ mình.

Tuy nhiên, sẽ là phiến diện khi chỉ tìm hiểu những gì Xuân Diệu chê Khoa, vặn hỏi Khoa. Một người thầy giỏi là người thầy biết chê, nhưng cũng phải biết khen đúng, biết động viên, khích lệ học trò của mình. Xuân Diệu đã rất công bằng và nghiêm túc khi biểu dương Khoa. Cần phải nhớ lại là ban đầu Xuân Diệu không thích nống lên các tên tuổi trẻ em. Xuân Diệu "không hoan nghênh, không đề cao. Cứ vài năm lại ồ à, đưa lên đào kép mới rồi lụi dần, mất dần".(Văn Hồng. Mười năm ghi nhận. Nxb Kim Đồng 1997, tr.165). Xuân Diệu về gặp Khoa qua màn dàn dựng của các đồng chí huyện đoàn để tránh cho Khoa sự kiêu ngạo. Nhưng khi đã thẩm định, đã tin Khoa thì Xuân Diệu cũng không dè sẻn những lời khen.

fangzi
28-08-2012, 12:09 AM
Tiếp theo...


6. Bài thơ Bến đò

Xuân Diệu dịch sang tiếng Pháp và khen gọn trong mấy chữ 'hay!sâu sắc!". Phải chăng hay, vì đây là bài thơ hoài cảm về một thời có những kỉ niệm ấu thơ gắn với bến đò. Sâu sắc vì Trần Đăng Khoa đã nói về tuổi thơ ai cũng chỉ có một lần, về tâm trạng của chú bé thành người lớn: “Gió thổi cồn cào mặt nước/ Mất một nỗi gì không thể tìm lại được/ Ta đi, lòng vẫn ở nơi đây/ Ai cũng chỉ có một lần/ Cái thuở thơ ngây…”

7. Bài thơ Em dâng cô một vòng hoa

Trần Đăng Khoa viết: “Trưa nay em đến thăm cô/ Lúa chiêm chín rực đôi bờ phi lao”. Sau đó, tự Khoa sửa lại thành “Nắng chiêm chín rực đôi bờ phi lao”. Viết lúa chiêm là viết kiểu thấy gì ghi nấy. Nắng chiêm là nắng vụ chiêm. Nắng đã từng ửng trong thơ Hàn Mặc Tử ( Trong làn nắng ửng, khói mơ tan - Mùa xuân chín). Nay thì nắng chín trong thơ Trần Đăng Khoa. Hơn nữa lại là nắng chín rực, màu sắc thật chói lọi. Câu thơ bỗng ảo và thanh thoát hơn. Nhà thơ Xuân Diệu khen học trò là có sáng tạo.

8. Bài thơ Tiếng nói

Xuân Diệu chê bốn câu đầu cọc cạch, ông khen "hai câu cuối sáng tạo". Đáng chú ý là ông khen trước rồi mới chê sau. Hai câu sáng tạo đó là: “Vi vu gió nói mây trôi. Thào thào trời nói xa vời mặt trăng”. Mây với gió, trăng với trời. Gió vi vu thì mây cũng trôi theo gió cuốn. Còn cái tiếng thào thào thì quả là mơ hồ và xa lăng lắc. Như là vọng về từ mãi tận cung trăng. Có phải Xuân Diệu khen vì thế chăng?

9. Bài Côn Sơn

Chỉ có 4 câu: “Sáng đứng đỉnh Côn Sơn/ Hương đồng thơm trong túi/ Chiều xay thóc góc nhà/ Tóc lại bay gió núi”. Xuân Diệu khen bài thơ có "niềm vui lí thú của người thơ" và "có những cánh cửa mở rộng ra như thế". Nhân đấy ông cũng khen ngợi những câu thơ trong bài “Lời của than”. Đó là những câu: “Tôi biết từng đoàn sứa/ Giương ô đi trong hội lân tinh”. Những câu tả bác công nhân: “Có cái mũ đội đầu/ Ngồi lên không bẹp/ Sớm sớm lên tầng/ Măt trời mọc dưới chân như một giọt phẩm đỏ”

10. Trong bài thơ Nhớ và nghĩ

Trần Đăng Khoa viết: “Tiếng cây lách chách đâm chồi/ Tiếng người trò chuyện với người yêu thương”. Xuân Diệu coi hai câu thơ này là "những câu thơ rất sinh động".

11. Bài thơ Tháng Ba

“Sau làn mưa bụi tháng Ba/ Lá tre bỗng đỏ như là lửa thiêu/ Nền trời rừng rực ráng treo/ Tưởng như ngựa sắt sớm chiều vẫn bay”. Xuân Diệu khen bài thơ "tổng hợp nhiều vẻ của thiên nhiên, đưa đến một hình tượng, một ấn tượng đặc biệt; trên trời vẫn còn vệt ngựa, lửa sắt của Thánh Gióng". Xuân Diệu khen chi tiết thơ: “Bóng cau ngã xuống cây đàn/ Lung lay/ Như bàn tay/ Xoá đi những âm thanh dơ bẩn”. Ông viết: "Tôi nghĩ: làm thơ như nấu món ăn. Đúng vị, hợp vị thì ngon. Cái bóng cau đưa vào lúc này thật là đúng lúc, đúng chỗ; mà nó có hình nét, lại có tâm hồn".

fangzi
28-08-2012, 12:11 AM
MỐI DUYÊN THI CA XUÂN DIỆU - TRẦN ĐĂNG KHOA
Tác giả: VŨ NHO


12. Xuân Diệu còn khen Trần Đăng Khoa "không lìa gốc làng quê, các giác quan rất tinh" và "Lòng yêu ruộng đồng mọc rễ sâu chắc trong lòng Khoa".

Điều ấy thể hiện trong bài thơ “Hương đồng”. Cụ thể là trong những câu thơ: “Nắng nồng chiều nay/ Mùi bùn đang ngấu/ Mùi phân đang hoai/ Vôi chưa ta hẳn/ Còn hăng rãnh cày… Trời đất đêm nay/ Như chim mới hót/ Như rượu mới cất/ Như mật mới đông/ Đi trong ngào ngạt/ Niềm vui gieo trồng/ Thịt da ta cũng/ Toả hơi ruộng đồng

13. Xuân Diệu khen, rất khen lời thơ của Trần Đăng Khoa.

Có thể nói là những đánh giá rất cao của một ông thầy vốn khe khắt như đã thấy ở phần đầu bài này. Xuân Diệu viết: "Thơ Khoa lời viết theo lối cổ điển, nghĩa là không dàn trải, mà gọn ghẽ, do biết chọn chữ đúng, chính xác, nên không rườm rà. Khoa biết dùng những lời khêu gợi".

Khảo sát những hiện tượng khen, chê của Xuân Diệu với Trần Đăng Khoa, chúng tôi muốn trước hết thấy được sự khen đúng, chê đúng của nhà thơ. Mặt khác muốn cùng nhau xem lại cách thức mà Xuân Diệu đã bồi dưỡng, dìu dắt Khoa, một chú bé thần đồng. Sự tinh tế của Xuân Diệu, kết hợp với sự cẩn trọng, hơn nữa vừa tràn đầy tình cảm yêu thương lại vừa nghiêm khắc, và đặc biệt là sự gần gũi, thân ái đã làm cho mối quan hệ thầy trò trở nên tri kỉ tri âm. Làm việc nhiều với Xuân Diệu, Trần Đăng Khoa được Xuân Diệu chỉ bảo, khuyến khích. Nhưng cái được lớn nhất của Trần Đăng Khoa chính là Khoa đã học được cách làm việc, cách lao động nghệ thuật của thầy. Trần Đăng Khoa giãi bày:" Tôi thường sửa chữa lại, đánh vật với từng chữ, theo đúng cách lao động nghệ thuật của Xuân Diệu".

Kỳ 2: Trần Đăng Khoa ân nghĩa với Xuân Diệu

Nếu chỉ xem xét ảnh hưởng của ông thầy với người học trò bé nhỏ thì e rằng chưa thấy được mối quan hệ đặc biệt này của hai nhà thơ xuất phát cách nhau gần một nửa thế kỉ. Chúng tôi muốn tìm hiểu xem Trần Đăng Khoa đã thụ giáo những điều chỉ dạy của thầy mình, đồng thời ảnh hưởng, chính xác hơn là tác động lại thầy mình như thế nào.

Trước hết xét về mối quan hệ tình cảm. Hồi tưởng lại cách cư xử của Xuân Diệu, Trần Đăng Khoa viết: "Trong quan hệ ông đối xử với tôi rất bình đẳng. Ông gọi tôi bằng cháu, đôi khi hứng lên bằng em. Nhưng trong sáng tác, ông coi tôi như một người bạn đồng nghiệp. Còn tôi thì luôn biết mình là một người học trò nhỏ bé của ông". Ban đầu, Trần Đăng Khoa rụt rè. Nhưng không có nghĩa là mặc cảm, thiếu tự tin. Ngay khi Xuân Diệu đang là ông Tây trong mắt dân làng, Xuân Diệu cưỡi ô tô về quê, chất vấn chú bé Khoa. Bé Khoa cũng đã chất vấn lại ông Tây khi chú trả lời:
Xuân Diệu:- Thế còn ông trời mặc áo giáp đen. Sao cháu lại viết thế?
Trần Đăng Khoa: - Vì cháu nghĩ đến Thánh Gióng. Ông Thánh Gióng ra trận. Thế bác có biết ông Thánh Gióng không?
Tất nhiên là bằng sự nhạy bén, Khoa đã nhận ra sự ngớ ngẩn của mình. Song chính sự mạnh dạn này và thái độ dân chủ, tôn trọng của Xuân Diệu đã khuyến khích Trần Đăng Khoa hỏi lại và sau này là góp ý lại cho thầy mình.

Trong những lần gặp Xuân Diệu, Khoa vốn nhạy cảm nên nhận ra ngay nhiều nét buồn xa xăm của ông. Khoa không biết nói gì hơn là những câu an ủi: "Ôi, chú cứ lo xa. Chứ chú khoẻ lắm. Cháu trông chú đang vượng đấy!". Hoặc phần nhiều thì Khoa cười. Cái cười xuế xóa trong một câu đùa. Nhưng câu nói đùa ấy lại làm Xuân Diệu rất vui. Phải chăng gặp Khoa còn trẻ, còn non, gặp sự hồn nhiên cũng làm cho Xuân Diệu vui. Nhất là chú bé lại là người chịu chuyện, biết lắng nghe. Cái chú bé nhà quê áo quần nhếch nhác nhưng có tài và thật thà, được Xuân Diệu mặc nhiên coi như "một quảng đại quần chúng" để ông diễn thuyết. Cậu ta" chỉ im lặng ngồi nghe rồi cười trừ". Rồi không nén được, cậu ta “bật cười". Cái cười hồn nhiên và tự nhiên đã “lây" sang Xuân Diệu. "Ông cũng cười. Nụ cười làm gương mặt Xuân Diệu dịu hẳn lại". Nhưng Trần Đăng Khoa không chỉ nghe chú Diệu góp ý, tìm cách làm cho chú ấy vui. Nhiều khi, hồn nhiên, Khoa cũng làm cho Xuân Diệu ngớ ra, làm cho Xuân Diệu giật mình.

Chuyện xoay quanh những trường ca của Trần Đăng Khoa và của người khác. Đầu tiên, Xuân Diệu im lặng, không ỏ ê gì, cứ như "một vách núi bí hiểm, không dội lại một tiếng vang nào". Rồi Xuân Diệu mượn lời Tố Hữu mà chê Trần Đăng Khoa: "Này, chú Tố Hữu gửi lời chê Khoa đấy nhé. Chú ấy bảo Khoa dạo này oai lắm. Khoa đang múa giáo giữa đường đấy!". Khi Xuân Diệu đang cao hứng giảng giải về trường ca, và tuyên bố dứt khoát "Xuân Diệu không có ca đâu nhé", thì Trần Đăng Khoa dẫn chứng:
- Nhưng chú cũng đã ca rồi đấy chứ. Hội nghị non sông, Ngọn quốc kì, Mị Châu Trọng Thuỷ.
Xuân Diệu ngỡ ngàng. "Ông ớ ra một thoáng". Rồi Xuân Diệu lấy lại thế chủ động:
- À, cái đó tớ viết bằng hồn. Còn các cậu, các cậu viết bằng gì? Toàn là những sự kiện. Những thông tấn báo chí. Cái đó không phải là thơ đâu nhé! Tớ chẳng ngửi thấy gì cả.
Trần Đăng Khoa không cãi. Nhưng rõ ràng ông thầy đã phải phần nào nguỵ biện và chống chế, khi ông trò tìm đúng gót chân A sin của thầy.

Khi Trần Đăng Khoa thật thà khen Xuân Diệu, khen đúng, Xuân Diệu tặng lại người học trò lời cám ơn và ban khen "có con mắt xanh". Trên đà chân thật, Trần Đăng Khoa bộc bạch: “Cháu rất thích tập thơ này. Nhưng không hiểu sao vẫn cứ tiêng tiếc. Cháu thấy có nhiều bài dở chú ạ”
Xuân Diệu đã từng dạy Trần Đăng Khoa: "Cái gì hay thì khen. Không hay thì im lặng, lờ đi. Im lặng cũng là một lời chê đấy". Có lẽ Trần Đăng Khoa không muốn áp dụng cái qui tắc này với người thầy gần gũi của mình. Chỉ cần nói có nhiều bài trung bình, nhiều bài không hay thì đã gây sốc cho người viết. Đằng này, Trần Đăng Khoa lại thẳng tuồn tuột nhận xét "có nhiều bài dở". Có điều là Xuân Diệu không tranh cãi với Khoa. Ông lại đánh lảng bằng cách ví von với việc chạy đồ đạc khi nhà cháy. Cứ vứt ra rồi sau nhặt nhạnh, chọn lọc lại. Ngay lúc đó, Khoa mụ mị, Khoa im tịt, Khoa tự thấy mình ngu. Nhưng rồi Khoa ra khỏi mê cung Xuân Diệu và sực tỉnh:"In thơ tập và cháy nhà là hai việc rất khác nhau".

Ta thấy rằng Trần Đăng Khoa không bao giờ tin ngay những điều thầy dạy. Bao giờ Khoa cũng trăn trở, cũng suy nghĩ xem liệu ông thầy có đúng thật không? Liệu bản thân Khoa có quá dở không khi tiếp thu những chỉ dạy của thầy? Chính cái thói quen làm việc như thế này với Xuân Diệu đã tạo cho Trần Đăng Khoa tự tin, dám đối thoại hàng loạt vấn đề văn chương trong cuốn sách nổi tiếng "Chân dung và đối thoại " sau này.

Trở lại quan hệ của Trần Đăng Khoa với Xuân Diệu. Khoa rất hồn nhiên góp ý cho thầy mình. Đó là khi đọc bài thơ “Dấu nằm” mà Xuân Diệu chép tay trong dạng bản thảo. Đọc xong, Trần Đăng Khoa đã chê người yêu của Xuân Diệu, chứ không phải chê trực tiếp thơ ông. Cũng là một sự láu cá của chú bé Khoa.
- Thơ chú hay lắm, nhưng cái cô gái này rất dở. Không thể mê được.
Và Xuân Diệu đang mê cô gái, đang mê thơ mình, bỗng kinh ngạc:
- Sao, cậu nói sao?
Lý lẽ của chú bé nhà quê khá thẳng thắn và chắc chắn:
- Cháu nghĩ, con gái phải gọn ghẽ, kín đáo. Con gái mà nằm ngủ tênh hênh ra là hỏng rồi. Em gái cháu mà nhơ thế thì mẹ cháu giết. Cái cô gái này đã đi xa rồi, mà còn để nguyên dấu vết của mình bề bộn trên giường, thế là cô gái vô ý, là đoảng, chú ạ!
- Cậu chả hiểu gì cả. Yêu nhau rồi, say đắm nhau rồi thì còn gì là đoảng nữa. Đến cái mùi hôi nách của nó cũng thành hương nhài hương huệ(…). Mà cậu đã yêu chưa?
Khi Khoa thú nhận chưa yêu, Xuân Diệu kết luận là anh chàng không thể nào hiểu được Xuân Diệu, cái người còn rất trẻ đã yêu nhiều, đã từng viết “yêu là chết ở trong lòng một ít”. Khoa có cái lí của Khoa. Xuân Diệu cũng có cái lí của Xuân Diệu. Và rốt cuộc, ông thầy vẫn cứ in “Dấu nằm” trong tập “Thanh ca”, mặc cho có cậu học trò chê người yêu của mình là đoảng.

Cần phải lưu ý một điều, bản thân Trần Đăng Khoa thú nhận "không hiểu nhiều lắm về đời tư Xuân Diệu". Song, hình như Khoa cũng linh cảm về cái cô gái trong bài thơ kia chỉ là một cô do Xuân Diệu tưởng tượng ra, lập tứ ra từ câu ca dao Nam bộ: “Ghe lui để lại dấu dằm. Người yêu đâu vắng, chỗ nằm còn đây”. Câu ca dao nói chỗ nằm, chứ không nói dấu nằm. Xuân Diệu biến cải, khai thác dấu nằm, nên ngay từ đầu đã sơ hở, đã biến cô gái thành người đoảng. Mà Trần Đăng Khoa thì lại giỏi quan sát, nhạy cảm về chi tiết.

Một lần nhìn Xuân Diệu lụi cụi nấu cơm, tâm trí chú bé vẳng lên những câu thơ thân thuộc:
-Em ngồi ríu rít ở sau xe
Đời vui khi được có em kề
-Em bóc anh múi cam
Em chăm anh miếng nước
-Em có tài nấu nướng
Anh có tài ngợi khen
Và đây là những câu hỏi:
-Người con gái ấy là ai? Và cái cảnh đầm ấm ríu rít ấy ở đâu? Ở trong đời hay ở cõi mộng? Chính những câu hỏi không lời giải đáp này đã khiến cho Trần Đăng Khoa nghiêng về ý "trong cõi mộng". Và vì thế, mà thật thà chê cô gái trong bài thơ “Dấu nằm” chăng?

Dẫu sao thì trong quan hệ chú cháu, trong quan hệ của hai nhà thơ đã có một sự chân tình, có một sự bình đẳng, có sự qua lại hai chiều chứ không phải một chiều. Nói theo cách nói dân gian thì đó là quan hệ có đi có lại. Chính mối quan hệ này đã làm cho mối cảm tình của hai người luôn luôn phát triển và ngày càng bền chặt.

Tôi không được biết tình cảm của Trần Đăng Khoa khi Xuân Diệu mất. Nhưng đọc chân dung Xuân Diệu do Trần Đăng Khoa viết, thấy rõ sự biết ơn, sự ngưỡng mộ người thầy, người bạn lớn; thấy rõ tấm lòng của một nhà thơ với một nhà thơ. Chắc hẳn Xuân Diệu cũng cười vui, nếu ông đọc những dòng Trần Đăng Khoa viết về mình. Và cả những dòng bàn thêm này nữa.
-----------------
Những tư liệu dùng cho bài viết trích từ:
- Văn học và tuổi trẻ số 1.
- Chân dung và đối thoại.
- Thơ em Khoa của Xuân Diệu.

taothao
28-08-2012, 10:36 AM
Topic thật hay và thú vị, qua đây taothao hiểu biết thêm nhiều về Trần Đăng Khoa. Phải nói là thật tuyệt.

backieuphong
29-08-2012, 04:51 AM
Khi Trần Đăng Khoa thật thà khen Xuân Diệu, khen đúng, Xuân Diệu tặng lại người học trò lời cám ơn và ban khen "có con mắt xanh". Trên đà chân thật, Trần Đăng Khoa bộc bạch: “Cháu rất thích tập thơ này. Nhưng không hiểu sao vẫn cứ tiêng tiếc. Cháu thấy có nhiều bài dở chú ạ”
Xuân Diệu đã từng dạy Trần Đăng Khoa: "Cái gì hay thì khen. Không hay thì im lặng, lờ đi. Im lặng cũng là một lời chê đấy". Có lẽ Trần Đăng Khoa không muốn áp dụng cái qui tắc này với người thầy gần gũi của mình. Chỉ cần nói có nhiều bài trung bình, nhiều bài không hay thì đã gây sốc cho người viết. Đằng này, Trần Đăng Khoa lại thẳng tuồn tuột nhận xét "có nhiều bài dở". Có điều là Xuân Diệu không tranh cãi với Khoa. Ông lại đánh lảng bằng cách ví von với việc chạy đồ đạc khi nhà cháy. Cứ vứt ra rồi sau nhặt nhạnh, chọn lọc lại. Ngay lúc đó, Khoa mụ mị, Khoa im tịt, Khoa tự thấy mình ngu. Nhưng rồi Khoa ra khỏi mê cung Xuân Diệu và sực tỉnh:"In thơ tập và cháy nhà là hai việc rất khác nhau".

Ta thấy rằng Trần Đăng Khoa không bao giờ tin ngay những điều thầy dạy. Bao giờ Khoa cũng trăn trở, cũng suy nghĩ xem liệu ông thầy có đúng thật không? Liệu bản thân Khoa có quá dở không khi tiếp thu những chỉ dạy của thầy? Chính cái thói quen làm việc như thế này với Xuân Diệu đã tạo cho Trần Đăng Khoa tự tin, dám đối thoại hàng loạt vấn đề văn chương trong cuốn sách nổi tiếng "Chân dung và đối thoại " sau này.

Mình không thích thơ, chả có thời gian mà ngẫm đến thơ thế nhưng vừa rồi thấy có bài viết đề cập đến những bài xưa kia mềnh đã đọc nên tiện cũng ghé mắt xem qua lun. Và thiệt bất ngờ, bất ngờ vì biết được quá nhiều từ nhà thơ, sự thú vị từ những câu chuyện, giai thoại của nhà nhơ... và cả nhân cách, cái thói quen, tư duy suy nghĩ của một số người, trong đó có cây đại thụ là nhà thơ Xuân Diệu. Cảm ơn người đã lập ra topic.

minh_anh
29-08-2012, 05:10 AM
Bài thơ : HƯƠNG ĐỒNG
Tác giả Trần Đăng Khoa



Hương đồng

Đồng ẩm trăng non
Luống cày sực nức
Mưa rào bữa trước
Nắng hồng chiều nay
Mùi bùn đang ngấu
Mùi phân đang hoai
Vôi chưa tan hẳn
Còn hăng rãnh cày
Hạt giống mùa qua
Bốc men trong đất
Giọt giọt mồ hôi
Ủ lâu thành mật
Bốn bề lên hương
Dịu mát bờ sương
Thoảng hơi gió nhẹ
Vầng trăng mới hé
Làn mây trong ngần
Đường cày ai rạch
Thành dòng sông Ngân
Sao như gốc rạ
Lô nhô xa gần

*

Trời đất đêm nay
Như chim mới hót
Như rượu mới cất
Như mật mới đông
Đi trong ngào ngạt
Niềm vui gieo trồng
Thịt da ta cũng
Tỏa hơi ruộng đồng

1972

minh_anh
30-08-2012, 11:34 PM
Bài thơ: THƠ VUI
Tác giả Trần Đăng Khoa


Đôi lời của tác giả về tập thơ "Góc sân và khoảng trời":

Bản in lần đầu tập thơ tôi gồm 52 bài vào năm 1968, khi tôi tròn 10 tuổi. Tôi tự coi đây là tập tuyển với những dấu ấn thực khó quên của tuổi thơ tôi, trong những năm tháng đánh giặc gian khổ và hào hùng. Làng tôi là một trạm nghỉ chân trên đường đi B của các trung đoàn đồng bằng Bắc bộ, trong suốt thời chống Mỹ sau khi huấn luyện ở núi rừng Yên Tử. Hàng ngàn chú bộ đội đã lần lượt rải chiếu ngủ trên nền đất nhà tôi, đã mắc võng nằm trong vườn cây nhà tôi. Các chú nghe thơ tôi, chép thơ tôi vào sổ tay và mang nó ra mặt trận. Sự tiếp xúc có phần ngẫu nhiên đó đã dậy tôi một cách nghiêm túc phải viết như thế nào. Đấy là điều lý giải vì sao thơ tôi đã có mặt từ những năm chiến tranh.

Bài thơ nào cũng gợi cho tôi những kỷ niệm mà tôi đã đôi lần nói tới trong các dịp xuất bản trước. Có bài khá quen thuộc với bạn đọc, nhưng tôi đã phải chia tay, bởi tôi nghĩ nó đã hoàn thành nhiệm vụ ở thời điểm mà nó ra đời. Tôi hy vọng phần chắt lọc lại lần này sẽ là một chân dung trọn vẹn của tôi, những năm tôi còn là một chú học trò.

Trong tập thơ, có bài tôi viết trong lúc sát hạch, nghĩa là các cô chú đến chơi, vây quanh rồi ra đề cho tôi làm, như bài Bên sông Kinh Thầy, Sao không về Vàng ơi?. Có bài tôi viết nhanh, theo những thông tin và yêu cầu của báo Văn nghệ, như bài Lời một bạn gái 12 tuổi. Có bài tôi viết để thay một bức thư trả lời, như bài Thơ vui. Bác Mạnh Sinh, 75 tuổi, ở số nhà 12 phố Đông Kinh, thị xã Lạng Sơn, không hiểu nghe tin đâu, tưởng tôi đã chết, bác bèn gửi về nhà tôi hai câu đối và 5 bài thơ khóc rất cảm động. Khi đó tôi chưa biết cũng đã có một trường hợp tương tự xảy ra từ hàng chục năm trước.

Con bướm vàng là bài thơ dầu tiên tôi viết vào tháng 2-1966, khi tôi 8 tuổi, đang học ở học kỳ II lớp 1 trường làng. Suốt 10 năm học phổ thông, tôi đã được đăng báo in sách khoảng trên 200 bài và 4 trường ca.

Đã hơn 30 năm trôi qua, bây giờ đọc lại, tôi vẫn thấy như còn hiện ra trước mắt những cảnh vật, những con người mà tôi quen thuộc, yêu mến.

Mọi cố gắng đều khó vượt qua sự hạn chế của chính bản thân mình. Tuổi học trò và những năm gian khổ chiến tranh đều đã qua đi. Nhưng tập thơ này nếu còn neo giữ lại được một chút gì, dù chỉ một chút thôi, trong lòng bạn đọc hôm nay, thì đối với tôi đã là niềm an ủi to lớn lắm rồi.



Thơ vui


Kính tặng bác Mạnh Sinh

Cảm ơn bác tặng thơ vui
Cháu chưa lặng lẽ qua đời được đâu
Cháu còn ở với cây cau
Bùng xòe tán lá, đỏ au quả cà
Cháu còn ở với mẹ cha
Mắt mờ chân chậm, biết là cậy ai
Cháu ăn hạt gạo bao đời
Mồ hôi, máu, ngấm vào người, đã lâu
Cháu làm đã được gì đâu
Cuộc đời còn cả đằng sau rất dài

Cảm ơn bác tặng thơ vui
Đường về âm phủ còn vời vợi xa
Lối rầu xơ xác cỏ hoa
Rêu xanh bậc đá đã nhòa dấu chân
Điện Diêm Vương lạnh hương trầm
Sân rồng quỉ ngủ, đầm đầm mưa rơi
Diêm Vương đi vắng lâu rồi
Nghe đâu ăn cỗ nhà trời xa xăm
Ngọc Hoàng mở tiệc trăm năm
Cổng rung muôn nhịp, rượu tăm nghìn vò
Mải vui chén rượu, cuộc cờ
Quên không mở cửa Phủ cho cháu vào...

Năm nay cháu đã lớn cao
Chẳng còn như buổi chiều nào bác thăm
Quả bòng vẫn rủ ngang sân
Tiếng chim năm ngoái vẫn ngân ngang trời
Cảm ơn bác tặng thơ vui...

1972

minh_anh
30-08-2012, 11:46 PM
Bài thơ : NHỚ BẠN
Tác giả : Trần Đăng Khoa


NHỚ BẠN

Chiều nay
Tao ngồi trên cầu gỗ
Nghe róc rách chân cầu sóng vỗ
Con thuyền xưa, mui chổng như đuôi chim
Tất cả vẫn còn nguyên
Tao bỗng nhớ chúng mày, nhớ thế
Đâu rồi thằng Tí
Mái tóc hoe hoe, mắt lươn ti hí
Xúng xính quần nâu
Bành bạnh chiếc cằm đã lún phún râu
Thằng Trình, nước da mai mái
Ỏn ẻn tiếng cười như con gái
Cái Thủy, cái Liên
Tên nghe có vẻ dịu hiền
Mà nghịch như quỉ sứ
Câu chuyện xưa thầy kể
Theo chúng mày, đi đâu?
Về đâu?
Chúng mình thường bảo nhau
Đất nước quá nghèo rồi, không thể nghèo hơn nữa
Chúng mình lớn lên
Không tiếc nghĩ suy và mồ hôi đổ
Không biết đứa nào, tay có trước vết chai
Không biết tuổi chúng mình bao nhiêu
Đất nước rạ rơm sẽ thành sắt thép
Dù chẳng làm nên, hay làm nên sự nghiệp
Cũng không bao giờ quên nhau
Chúng mày ơi, bây giờ chúng mày đâu?

Và chiếc cầu
Cong như vành trăng chia tay đêm ấy
Ở xa, chúng mày có thấy
Trên cầu gỗ chiều nay
Tao nôn nao ngồi nhớ chúng mày...

Hè lớp bảy 1972

Nguồn: Trần Đăng Khoa, Góc sân và khoảng trời, Nxb Văn hóa dân tộc, 1999

bach_djen
31-08-2012, 04:01 PM
Em nghe bạn em nói nên vào xem thử, thật tuyệt vời, em thấy diễn đàn này rất hay, khác với diễn đàn khác có nhiều thông tin ít lộn xộn, khô cứng như thường thấy ở một số diễn đàn võ khác. Em rất thích topic này, cảm ơn các anh chị.

minh_anh
07-09-2012, 12:11 PM
Cơn giông
Thơ: Trần Đăng Khoa



Cơn giông


Cơn giông bỗng cuộn giữa làng
Bờ ao lở. Gốc cây bàng cũng nghiêng
Quả bòng chết chẳng chịu chìm
Ao con mà sóng nổi lên bạc đầu...

1972


Ao nhà mùa hạn
Thơ: rần Đăng Khoa


Ao nhà mùa hạn

Mùa mưa mà mưa chẳng đến
Đáy sâu nẻ toác khi nào
Rêu nằm mơ những sấm sét
Rồi khô trên cọc cầu ao...

1972

minh_anh
07-09-2012, 12:56 PM
Bài thơ: CHỚM THU
Tác giả Trần Đăng Khoa




Chớm thu

Sân trăng nghe đã dần phai
Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây
Nghe trời trở gió heo may
Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau...

1967

Liên quan lến bài Chớm Thu, Trong tập "Thơ tuổi học trò - Trần Đăng Khoa" của Nhà xuất bản Giáo dục tháng 5 năm 2004 có đoạn:


"Anh Khoa ơi, bài thơ Chớm thu này đã in lại nhiều lần. Em thấy có bản in là Hoa cau. Câu mở đầu cũng có bản in là "Sân trăng nghe đã dần phai". Vậy thì bản nào là chuẩn xác?"
HÀ THỊ HẢI YẾN



Tên chuẩn của bài thơ này là Chớm thu, chứ không phải là Hoa cau. Hoa cau trong bài chỉ là một chi tiết nhỏ để tả thời tiết chuyển mùa ở làng quê. Bài thơ không phải viết về hoa cau. Nhưng khi in báo, không biết bác biên tập nào lại đổi thành Hoa cau. Bời thế, cô Trần Thị Nhâm, người đầu tiên biên tập thơ tôi ở nhà xuất bản Kim Đồng, khi tập hợp bản thảo thơ tôi, có hỏi tôi về bài Hoa cau. Tôi bảo: "Cháu chằng có bài nào là bài Hoa cau cả". Nhà thơ Xuân Diệu tưởng tôi quên thơ mình, nhưng đâu phải. Nó chính là bài Chớm thu. Tôi có lấy tên là bài Hoa cau đâu. Sau này, khi in lại, tôi giữ nguyên văn ban đầu của nó.
Bài thơ này, nhà thơ Xuân Diệu rất thích. Ông có lần biểu dương tôi, như ông chê câu đầu: "Nửa đêm nghe ếch học bài". Câu ấy, Xuân Diệu bảo là cọc cạch, vì nó lạc ra khỏi cái không khí của toàn bài. Bởi thế, tôi chữa lại: "Sân trăng nghe đã dần phai". Có hai lần nghe, nhưng đều nghe cái không tiếng. Bài thơ bắt đầu từ nửa đêm về sáng, khi ánh trăng đang lạt dần ở trên sân. Cũng cái ý này, ngày xưa, cụ Nguyễn Du viết: "Bóng tàu vừa lạt vẻ ngân"...
Nhiều bạn đọc bảo tôi, tại sao anh không để cho con ếch nó kêu nữa? Bài thơ hình như đã bị thiếu đi tiếng ếch. Tôi nghĩ, đó chỉ là thói quen của bạn đọc thôi. Thực ra ếch chỉ kêu khi sắp mưa hoặc sau mưa. Mùa mưa là mùa sinh sản của ếch. Tiếng kêu là tín hiệu để chúng gọi nhau. Còn khi vào thu "Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây" là mưa chuyển mùa, không khí đã nhuốm lạnh, thì ếch bắt đầu chui vào hang để tìm chỗ ngủ qua mùa đông. Có chọc, chúng cũng chẳng kêu nữa. Con ếch thật ngoài đời có thể không kêu. Nhưng con ếch thơ thì vẫn có thể kêu chứ.

TRẦN ĐĂNG KHOA

minh_anh
15-09-2012, 06:06 PM
Bài thơ

HOA BƯỞI
Tác giả: Trần Đăng Khoa



Hoa bưởi

Đêm qua hoa rụng cánh rồi
Sớm nay cái cuống đã chồi quả non
Hoa rơi trắng mảnh sân con
Ôi hoa đã rụng vẫn còn ngát hương...
1970

minh_anh
15-09-2012, 06:13 PM
Bài thơ

VƯỜN CẢI
Tác giả: Trần Đăng Khoa



Vườn cải

Gió lên vườn cải tốt tươi
Lá xanh như mảnh mây trời lao xao
Em đi múc nước dưới ao
Chiều chiều em tưới, em rào, em trông

Sớm nay bướm đến lượn vòng
Thì ra cải đã lên ngồng vàng tươi
Bé Giang trông thấy nhoẻn cười
Nhăn nhăn cái mũi hở mười cái răng...

2-1966

minh_anh
15-09-2012, 06:21 PM
Bài thơ

TRẬN ĐỊA BỎ KHÔNG
Tác giả: Trần Đăng Khoa



Trận địa bỏ không

Các chú đi đã xa rồi
Cao cao ụ pháo như người đứng canh
Dế co càng đạp cỏ xanh
Cất cao giọng gáy một mình ri ri...
Dưới hào nước chẳng theo đi
Cá cờ đớp nắng, động ria cánh bèo
Em nhìn đáy nước trong veo
Máy bay một mảnh cắm xiêu vỏ hà...

Thảo nào các chú đã xa
Thằng giặc chẳng dám bay qua nơi này...

1968

minh_anh
15-09-2012, 06:25 PM
Bài thơ

SƯƠNG MUỐI
Tác giả: Trần Đăng Khoa




Sương muối

Bất ngờ trắng ngõ, móc sa
Lá tre bỗng đỏ như hoa rong giềng
Làng xa cuồn cuộn gió lên
Rập rờn dải lửa cháy bên chân trời...

1973

minh_anh
23-09-2012, 05:46 PM
Bài thơ



GỬI THEO CHÚ BỘ ĐỘI
Tác giả: Trần Đăng Khoa



Gửi theo các chú bộ đội

Cháu nghe chú đánh những đâu
Những tàu chiến cháy, những tàu bay rơi
Đến đây chỉ thấy chú cười
Chú đi gánh nước, chú ngồi đánh bi

Rồi từ nhà cháu chú đi
Lúa chiêm vào mẩy, chim ri bay về
Nghiêng nghiêng buồng chuối bên hè
Rặng tre, bãi mía bốn bề vẫy theo...

Chú qua bao suối bao đèo
Đến nay chắc đã thêm nhiều chiến công
Ngoài này cháu đứng cháu trông
Những đêm súng nổ, lửa hồng chân mây

Cháu về lớp cũ tường xây
Thông hào luồn dưới bóng cây xanh rờn
Chú đi phá nốt bốt đồn
Cuối trời còn giặc, chú còn ra đi

Vẫn mong ngày chú trở về
Lại ngồi với cháu bên hè đánh bi...

1968

minh_anh
23-09-2012, 05:53 PM
Bài thơ

MÙA XUÂN - MÙA HÈ
Tác giả: Trần Đăng Khoa


Mùa xuân - mùa hè

Mùa xuân hoa nở đẹp tươi
Bướm con bướm mẹ ra chơi hoa hồng
Bướm mẹ hút mật đầu bông
Bướm con đùa với nụ hồng đỏ hoe

*
* *

Vui sao khi chớm vào hè
Xôn xao tiếng sẻ tiếng ve báo mùa
Rộn ràng là một cơn mưa
Trên đồng bông lúa cũng vừa uốn câu

1966

minh_anh
23-09-2012, 06:02 PM
Bài thơ

MẶT BÃO
Tác giả: Trần Đăng Khoa


Mặt bão

Bão đến ầm ầm
Như đoàn tàu hỏa
Bão đi thong thả
Như con bò gầy
Xanh đẹp là cây
Bão vặt trụi hết
Mặt bão thế nào
Suy ra cũng biết...

1969

Bài thơ

NGÔI ĐỀN BÃI CHÁY
Tác giả: Trần Đăng Khoa


Ngôi đền Bãi Cháy

Ngôi đền có tự bao đời
Rêu xanh bậc đá, lá rơi úa vàng

Cột đền, đạn Mỹ xiên ngang
Bàn thờ đã lạnh khói nhang lâu rồi
Hố bom sâu hoắm chân đồi
Ngẩng lên nham nhở mảnh trời biếc trong

Vách đền ai tạc tượng ông
Lửa quăn giáp sắt, kiếm cong tuốt trần
Mặt hiền như bác nông dân
Nụ cười tươi sáng, mến thân, đậm đà

Từ đền em bước chân ra
Hạ Long muôn sóng chói lòa gươm vung
Từng đoàn các chú qua sông
Pháo vươn. Lá ngụy trang rung tiếng cười

Phà sang, đền đã khuất rồi
Nghĩ về các chú bồi hồi không yên
Và em bỗng hiểu ngôi đền
Hiểu ai tạc tượng người hiền cầm gươm...

1971

minh_anh
23-11-2012, 10:14 AM
Tháng ba

Tác giả: Trần Đăng Khoa




Sau làn mưa bụi tháng ba
Lá tre bỗng đỏ như là lửa thiêu
Nền trời rừng rực ráng treo
Tưởng như ngựa sắt sớm chiều vẫn bay

1972

minh_anh
23-11-2012, 10:20 AM
Bài thơ:

Thả diều

Tác giả: Trần Đăng Khoa



Cánh diều no gió
Sáo nó thổi vang
Sao trời trôi qua
Diều thành trăng vàng

Cánh diều no gió
Tiếng nó trong ngần
Diều hay chiếc thuyền
Trôi trên sông Ngân

Cánh diều no gió
Tiếng nó chơi vơi
Diều là hạt cau
Phơi trên nong trời

Trời như cánh đồng
Xong mùa gặt hái
Diều em - lưỡi liềm
Ai quên bỏ lại

Cánh diều no gió
Nhạc trời réo vang
Tiếng diều xanh lúa
Uốn cong tre làng

Ơi chú hành quân
Cô lái máy cày
Có nghe phơi phới
Tiếng diều lượn bay?

Tiếng diều vàng nắng
Trời xanh cao hơn
Dây diều em cắm
Bên bờ hố bom...

1968

minh_anh
23-11-2012, 10:25 AM
Bài thơ:

Vườn cải

Tác giả: Trần Đăng Khoa



Gió lên vườn cải tốt tươi
Lá xanh như mảnh mây trời lao xao
Em đi múc nước dưới ao
Chiều chiều em tưới, em rào, em trông

Sớm nay bướm đến lượn vòng
Thì ra cải đã lên ngồng vàng tươi
Bé Giang trông thấy nhoẻn cười
Nhăn nhăn cái mũi hở mười cái răng...

2-1966

thieugia
09-05-2013, 09:24 PM
Bài thơ

Tiếng võng kêu

Tác giả: Trần Đăng Khoa

http://www1.baohaugiang.com.vn/uploadfiles/2011/12/21/SB1113-7-4866400ok.jpg



Kẽo cà kẽo kẹt
Kẽo cà kẽo kẹt
Tay em đưa đều
Ba gian nhà nhỏ
Đầy tiếng võng kêu

Kẽo cà kẽo kẹt
Mênh mang trưa hè
Chim co chân ngủ
Lim dim cành tre

Kẽo cà kẽo kẹt
Cây na thiu thiu
Mắt na hé mở
Nhìn trời trong veo

Kẽo cà kẽo kẹt
Võng em chao đều
Chim ngoài cửa sổ
Mổ tiếng võng kêu

Kẽo cà kẽo kẹt
Xưa mẹ ru em
Cũng tiếng võng này
Cánh cò trắng muốt
Bay - bay – bay – bay...

Kẽo cà kẽo kẹt
Bé Giang ngủ rồi
Tóc bay phơ phất
Vương vương nụ cười...


http://tamhoc.com/wp-content/uploads/loi-ru-2.jpg

Trong giấc em mơ
Có gặp con cò
Lặn lội bờ sông
Có gặp cánh bướm
Mênh mông, mênh mông
Có gặp bóng mẹ
Lom khom trên đồng
Gặp chú pháo thủ
Canh trời nắng trong

Em ơi cứ ngủ
Tay anh đưa đều
Ba gian nhà nhỏ
Đầy tiếng võng kêu
Kẽo cà kẽo kẹt
Kẽo cà kẽo kẹt
Kẽo cà...
...kẽo kẹt

1967

fangzi
02-08-2013, 02:13 PM
Phát hiện thú vị về bài thơ "Mẹ Ốm" của Trần Đăng Khoa**


*LỜI KỂ CỦA NHÀ THƠ:

Dạo chiến tranh chống Mỹ, một buổi trăng suông, hai mẹ con nhà thơ tỉnh giấc sớm, không có đồng hồ, tưởng trời đã sáng, Trần Đăng Khoa cắp sách đến trường còn mẹ thì đi chợ. Tới trường lúc trăng lặn, nhà thơ mới biết mình nhầm và phải chờ trời sáng. Còn mẹ nhà thơ thì gặp chuyện hết sức kỳ lạ.
Trên đường tới chợ, mẹ nhà thơ gặp một cô gái. Hai người vừa đi vừa trò chuyện cho quên quãng đường dài. Rồi cô gái mời bà mẹ ghé nhà cô chơi vì trời còn sớm quá. Vào tới nhà, cô gái thu xếp chỗ nằm và mẹ nhà thơ ngủ thiếp đi.
Câu chuyện sẽ không có gì đáng nói nếu buổi sớm hôm đó một ông lão đánh dậm không nhìn thấy một người đàn bà đang nằm trên một ngôi mộ đất còn đang mới, đôi quang gánh để bên. Sợ hãi tưởng có người bị chết, ông lão kêu ầm lên khiến mẹ nhà thơ tỉnh dậy. Khi biết vừa gặp “ma”, về tới nhà, bà lăn ra ốm. Trận ốm kéo dài hai tháng khiến bà rụng hết cả tóc. Bài thơ Mẹ ốm ra đời trong hoàn cảnh đó.


Trên đây là câu chuyện em đọc được trong cuốn sách “Lý giải hiện tượng dị thường - tập 2: Hiện Tượng Tâm Linh”, tác giả là nhà Vật lý Y sinh Đỗ Kiên Cường (NXB Trẻ. 2001). Nhận thấy đây là câu chuyện có tình tiết ly kỳ hấp dẫn và rất thú vị vì xưa nay em không thấy sách vở hay tài liệu nào đề cập đến nguyên do của “Mẹ Ốm” và sự ra đời của bài thơ, vậy em xin trích nguyên si để mọi người cùng biết.


MẸ ỐM

Tác giả: Trần Đăng Khoa

Cánh màn khép lỏng cả ngày
Ruộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm trưa
Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan.

http://thaicucthieugia.com/images/stories/minhhoa2/goc_san_va_khoang_troi/u%20m%20.jpg

Khắp người đau buốt, nóng ran
Mẹ ơi! Cô bác xóm làng đến thăm
Người cho trứng, người cho cam
Và anh y sĩ đã mang thuốc vào.

Sáng nay trời đổ mưa rào
Nắng trong trái chín ngọt ngào bay hương
Cả đời đi gió đi sương
Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi.

Mẹ vui con có quản gì
Ngâm thơ kể chuyện, rồi thì múa ca
Rồi con diễn kịch giữa nhà
Một mình con sắm cả ba vai chèo.

Vì con, mẹ khổ đủ điều
Quanh đôi mắt mẹ đã nhiều nếp nhăn
Con mong mẹ khoẻ dần dần
Ngày ăn ngon miệng, đêm nằm ngủ say.
Rồi ra đọc sách, cấy cày
Mẹ là đất nước,tháng ngày của con...

-----------------------------------
** Đây là bài viết của bạn nha_que tại topic Những bài thơ hay nhất về Mẹ, fangzi xin đăng vào đây cho mọi người cùng biết.

thieugia
13-11-2013, 10:47 PM
Gởi Theo Các Chú Bộ Đội


Tác giả: Trần Đăng Khoa


http://thaicucthieugia.com/images/stories/minhhoa2/goc_san_va_khoang_troi/nh%20th%20tran%20dang%20khoa.jpg

Cháu nghe chú đánh những đâu
Những tàu chiến cháy, những tàu bay rơi
Đến đây chỉ thấy chú cười
Chú đi gánh nước, chú ngồi đánh bi

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Luc_luong_Vu_trang/giai-phong-bmt.gif

Rồi từ nhà cháu chú đi
Lúa chiêm vào mẩy, chim ri bay về
Nghiêng nghiêng buồng chuối bên hè
Rặng tre, bãi mía bốn bề vẫy theo...

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Luc_luong_Vu_trang/bc%20chn%20trn%20dy%20trng%20sn.jpg

Chú qua bao suối bao đèo
Đến nay chắc đã thêm nhiều chiến công
Ngoài này cháu đứng cháu trông
Những đêm súng nổ, lửa hồng chân mây

Cháu về lớp cũ tường xây
Thông hào luồn dưới bóng cây xanh rờn
Chú đi phá nốt bốt đồn
Cuối trời còn giặc, chú còn ra đi

Vẫn mong ngày chú trở về
Lại ngồi với cháu bên hè đánh bi...

http://thaicucthieugia.com/images/stories/minhhoa2/goc_san_va_khoang_troi/bn%20bi%2024.jpg

1968

Shaolaojia
22-05-2014, 05:03 PM
Mặt bão


Thơ: Trần Đăng Khoa


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Hoang_So_Dan_Da/binhyen.jpg

Bão đến ầm ầm
Như đoàn tàu hỏa
Bão đi thong thả
Như con bò gầy.


http://www.thanhnien.com.vn/Pictures201310/NguyetMinh/Thang10/12/tambao.jpg

Xanh đẹp là cây
Bão vặt trụi hết
Mặt bão thế nào
Suy ra cũng biết...

1969

Shaolaojia
22-05-2014, 05:17 PM
Cháu làm bà còng


Thơ: Trần Đăng Khoa


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tao_lao/ngho%20.jpg

Cái chân thì khuệnh khoạng
Tay vắt vẻo lưng cong
Đầu vấp va vấp vểnh
Cháu bỗng hóa bà còng


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/dong_thuc_vat/meo_ngo_ngac.jpg

Mèo tròn mắt lạ lùng
Chị cười lăn ra đất
Mẹ ngồi lặng hồi lâu
Bà đứng trào nước mắt...

1972

han_chungly
07-10-2014, 10:04 PM
Ngôi đền Bãi Cháy

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Dao_gia/dencobe1.jpg


Thơ: Trần Đăng Khoa

Ngôi đền có tự bao đời
Rêu xanh bậc đá, lá rơi úa vàng

<><><>

Cột đền, đạn Mỹ xiên ngang
Bàn thờ đã lạnh khói nhang lâu rồi
Hố bom sâu hoắm chân đồi
Ngẩng lên nham nhở mảnh trời biếc trong

<><><>

Vách đền ai tạc tượng ông
Lửa quăn giáp sắt, kiếm cong tuốt trần
Mặt hiền như bác nông dân
Nụ cười tươi sáng, mến thân, đậm đà


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Dao_gia/pht%202.jpg
<><><>

Từ đền em bước chân ra
Hạ Long muôn sóng chói lòa gươm vung
Từng đoàn các chú qua sông
Pháo vươn. Lá ngụy trang rung tiếng cười

<><><>

Phà sang, đền đã khuất rồi
Nghĩ về các chú bồi hồi không yên
Và em bỗng hiểu ngôi đền
Hiểu ai tạc tượng người hiền cầm gươm...

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Dao_gia/gioi%20san.jpg
1971

nhan_voky
05-05-2015, 10:35 PM
Nghe thầy đọc thơ
http://thaicucthieugia.com/images/stories/minhhoa2/Luubut_hoctro/thay-giao-hot-boy-1.jpg


Thơ » Trần Đăng Khoa »


Kính tặng thầy Lê Thường

Em nghe thầy đọc bao ngày
Tiếng thơ đỏ nắng, xanh cây quanh nhà
Mái chèo nghiêng mặt sông xa
Bâng khuâng nghe vọng tiếng bà năm xưa
Nghe trăng thở động tàu dừa
Rào rào nghe chuyển cơn mưa giữa trời...


http://thaicucthieugia.com/images/stories/minhhoa2/Luubut_hoctro/thay_hieu.jpg

Đêm nay thầy ở đâu rồi
Nhớ thầy, em lại lặng ngồi em nghe...

1967