PDA

View Full Version : Võ thuật Thiều Gia & Từ Điển - Bách Khoa Tự Soạn



thieugia
26-03-2013, 09:29 PM
THUẬT NGỮ CHUYÊN MÔN DÙNG TRONG VHNT

1. Tạp bút, tạp văn, tản mạn là gì?

Tản văn : là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, có thể trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu tả phong cảnh, khắc họa nhân vật. Lối thể hiện đời sống của tản văn mang tính chất khám phá, không nhất thiết đòi hỏi có cốt truyện phức tạp, nhân vật hoàn chỉnh nhưng có cấu tứ độc đáo, có giọng điệu, cốt cách á nhân. Điều cốt yếu là tản văn tái hiện được nét chính của các hiện tượng giàu Ý ‎ nghĩa xã hội, bộc lộ trực tiếp tình cảm, Ý nghĩ mang đậm bản sắc cá tính của tác giả. Tản văn là loại văn tự do, dài ngắn tùy Ý, cách thể hiện đa dạng, đặc biệt là thể hiện nổi bật chính kiến và cá tính tác giả, có truyền thống lâu đời và sức sống mạnh mẽ. (Từ điển thuật ngữ văn học - NXB GD)

Tạp văn: “Những áng văn tiểu phẩm có nội dung chính trị, có tác dụng chiến đấu mạnh mẽ. Đó là một thứ văn vừa có tính chính luận sắc bén, vừa có tính nghệ thuật cô đọng, phản ánh và bình luận kịp thời các hiện tượng xã hội. Chẳng hạn như tạp văn của Lỗ Tấn, được ông gọi là dây thần kinh cảm ứng, là chân tay tiến công và phòng thủ, là dao găm và mũi lao, có thể cùng bạn đọc mở ra một con đường máu để sinh tồn. Phần lớn tạp văn mang yếu tố châm biếm, trào lộng, đả kích.” (Từ điển thuật ngữ văn học -NXB GD)

Tạp bút: Chưa cập nhật trong Từ điển tiếng Việt –NXB Đà Nẵng, chưa thấy xuất hiện trong Từ điển thuật ngữ văn học-NXB GD.
Theo mình, nó cùng nội hàm với khái niệm Tạp văn. Tản mạn: Theo Từ điển tiếng Việt NXB Đà Nẵng 2005: nghĩa là “ở tình trạng rời rạc, không có sự liên hệ với nhau, không tập trung” => đây là một tính từ chỉ một trạng thái, không phải danh từ chỉ một thể loại văn học.

"Tản mạn", nghĩa của nó là gì thế....?!?

Câu trả lời hay nhất - Do người đặt câu hỏi bình chọn

Tản mạn: Ở tình trạng rời rạc, không có sự liên hệ với nhau, không tập trung. Trình bày tản mạn, thiếu tập trung. Những ý nghĩ tản mạn, không đâu vào đâu.
Từ nguyên: từ “tản mạn” là một từ Hán-Việt, có gốc từ hai chữ Hán:
- “tản”散 là rời rạc, chia ra nhiều hướng khác nhau, như trong “tản cư”(rời khỏi nơi ở -”cư”- để tránh nạn), hay trong “di tản”(đi -”di”- ra chỗ khác để tránh nạn), còn một âm nữa là “tán” như trong “phân tán”;
- “mạn”漫 là tràn ra, không ở một chỗ (cũng tương tự như “tản”), nhưng không phải chữ “mạn”慢 là nhờn láo, khinh thường, như trong “ngạo mạn” hay “mạn phép”.
Vậy nên nguyên gốc của chữ “tản mạn” này có nghĩa là lan man, rời rạc. Tuy nhiên nghĩa này thường được dùng với từ “tản mác”(nửa Hán, nửa Nôm). Còn nghĩa hay được dùng trong văn chương, cũng như quái khách đã tìm thấy, là nghĩa mở rộng (nghĩa bóng), có nghĩa là nói bâng quơ, không có chủ đích, không tập trung về một điều gì đó

2. Ký & Các tiểu loại ký

Do hướng đến những phạm vi thông tin và nhận thức đa dạng, ký cũng rất phong phú, bao gồm nhiều thể, nhiều tiểu loại:

Ký sự: là một thể của ký thiên về tự sự, thường ghi chép các sự kiện, hay kể lại một câu chuyện khi nó mới xảy ra. Ký sự có cốt truyện hoàn chỉnh hoặc tương đối hoàn chỉnh, cũng là loại thể có yếu tố trữ tình và chính luận, nhưng khuynh hướng của tác giả được toát ra từ tình thế và hành động. Yếu tố phi cốt truyện của những loại ký này không nhiều. Ghi chép khá hoàn chỉnh một sự kiện, một phong trào, một giai đoạn. Tác phẩm ký sự cũng cấu tạo theo phương thức kết cấu thông thường của một tác phẩm nghệ thuật: mở đầu và phát triển sự kiện, sự biến phát triển đến cao độ - hoặc căng thẳng nhất - và kết thúc. Ký sự là bức tranh toàn cảnh trong đó sự việc và con người đan chéo, những gương mặt của nhân vật không thật rõ nét.

Phóng sự: là một thể ký nổi bật bằng những sự thật xác thực, dồi dào và nóng hổi, không chỉ đưa tin mà còn dựng lại hiện trường cho mọi người quan sát, đánh giá, do đó nó nghiêng hẳn về phía tự sự, miêu tả, tái hiện sự thật. Ở phương Tây đề ra công thức 5W cho phóng sự (What: cái gì đã xảy ra, Where: xảy ra ở đâu, When: xảy ra khi nào, Who: xảy ra với ai, Why: tại sao lại xảy ra). Tuy nhiên, thật ra đây là những tiêu chuẩn đề ra cho phương thức luận cứ trong một thiên phóng sự. Nội dung chủ yếu của phóng sự lại thiên về vấn đề mà người viết muốn đề xuất và giải quyết. Do đó phóng sự, mặc dù có chất liệu chủ yếu là người thật việc thật, nhưng có màu sắc chính luận.

Nhật ký: là một thể loại ký mang tính chất riêng tư, đời thường nhiều nhất. Nếu hầu hết các tác phẩm văn học là để giao lưu với người khác, thì nhật ký lại chỉ để giao lưu với chính mình. Là ghi chép của cá nhân về sự kiện có thật đã, đang và tiếp tục diễn ra theo thời gian, nhật ký thường bao gồm cả những đoạn trữ tình ngoại đề và những suy nghĩ có tính chất chủ quan về sự kiện. Một nhật ký có phẩm chất văn học khi nó thể hiện được một thế giới tâm hồn, khi qua những sự việc và tâm tình cá nhân tác giả giúp người đọc nhìn thấy những vấn đề xã hội trọng đại. Trong thực tế có thể có những nhật ký ít có chất văn học như các nhật ký hành trình (nhật ký hàng hải), nhật ký công tác; và cũng có những tác phẩm có tên nhật ký nhưng nội dung lại không hoàn toàn là nhật ký (chẳng hạn Nhật ký người điên của Lỗ Tấn, Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh).

Hồi ký: những ghi chép có tính chất suy tưởng của cá nhân về quá khứ, một dạng gần như tự truyện của tác giả. Hồi ký cung cấp những tư liệu của quá khứ mà đương thời tác giả chưa có điều kiện nói được. Khác với nhật ký, do đặc thù thời gian đã lùi xa, sự kiện trong hồi ký có thể bị nhớ nhầm hoặc tưởng tượng thêm mà người viết không tự biết.

Bút ký: là một thể của ký, nằm trung gian giữa ký sự và tùy bút. Bút ký thiên về ghi lại một cảnh vật mà nhà văn mắt thấy tai nghe, thường trong các chuyến đi. Bút ký tái hiện con người và sự việc một cách phong phú, sinh động, nhưng qua đó biểu hiện khá trực tiếp khuynh hướng cảm nghĩ của tác giả, có màu sắc trữ tình. Kết hợp linh hoạt các phương thức nghị luận, tự sự, trữ tình nhưng tùy theo độ đậm nhạt khác nhau của các phương thức mà ta có bút ký chính luận, bút ký tùy bút v.v..

Tùy bút: Là một thể của ký đối lập với phóng sự. Nếu phóng sự thiên về tự sự với điểm tựa là sự kiện, thì tùy bút nghiêng hẳn về trữ tình với điểm tựa là cái tôi của tác giả. Hình thức thể loại này cho phép nhà văn phóng bút viết tùy theo cảm hứng, tùy cảnh, tùy việc mà suy tưởng, nhận xét, đánh giá, trình bày v.v. Những chi tiết, con người cụ thể trong tác phẩm chỉ là cái cớ để tác giả bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh giá.

Du ký: loại ký có cốt truyện ghi chép về vẻ kỳ thú của cảnh vật thiên nhiên và cuộc đời; những cảm nhận, suy tưởng của con người trong những chuyến du ngoạn. Du ký phản ánh, truyền đạt những nhận biết, những cảm tưởng, suy nghĩ mới mẻ của bản thân người du lịch về những điều mắt thấy tai nghe ở những xứ sở xa lạ, nơi mọi người ít có dịp đi đến, chứng kiến. Hình thức du ký có thể bao gồm các ghi chép, ký sự, hồi ký, thư tín, hồi tưởng v.v. Tác giả của du ký tường bộc lộ niềm say mê khát khao tìm kiếm, khám phá những điều mới lạ.

Kỷ hành: một dạng thức của nhật ký hành trình hay du ký của văn học Nhật Bản, thường phát triển đậm đặc tính chất trữ tình thông qua sự kết hợp của những đoạn tản văn và thơ. Nổi tiếng trong thể ký này phải kể đến những sáng tác của nhà thơ Nhật Bản Matsuo Bashō.

Truyện ký: ngược lại với ký sự, thường tập trung cốt truyện vào việc trần thuật một nhân vật: những danh nhân về khoa học và nghệ thuật, những anh hùng trên mặt trận chiến đấu và sản xuất, chính khách, nhà hoạt động cách mạng.

Tản văn: Giới nghiên cứu có người cho tản văn là một loại ký, có người cho rằng ký chỉ bao gồm một phạm vi hẹp hơn tản văn[1]. Có hai ý kiến như trên bởi khái niệm tản văn được hiểu theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, tản văn là văn xuôi, đối lập với vận văn (văn vần). Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long chia toàn bộ thư tịch thành "văn" và "bút", trong đó văn là "vận văn", còn bút là tản văn. Trong văn học cổ các áng văn xuôi không viết theo văn biền ngẫu như kinh, truyện, sử, tập, biểu, chiếu, cáo, hịch, phú, minh, luận đều là tản văn. Theo nghĩa hẹp, tản văn là tác phẩm văn xuôi ngắn gọn, hàm xúc, giàu khả năng khơi gọi với kết cấu có sự kết hợp linh hoạt tất cả các phương thức, phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nội dung thường thể hiện đời sống theo kiểu chấm phá và đặc trưng quan trọng nhất là nó thể hiện đậm nét dấu ấn cá nhân của người cầm bút.

Ngoài những thể ký phổ biến nói trên, trong thực tế còn có nhiều thể ký khác, và trong mỗi thể nói trên cũng có thể bao gồm nhiều tiểu thể loại. Ranh giới giữa các thể loại ký nói trên cũng không tuyệt đối, luôn có tình trạng chuyển hóa, thâm nhập lẫn nhau. Trong Người bạn đọc ấy[2], Tô Hoài nhận xét: Trước kia từ điển văn học phân chia: phóng sự thì chỉ trình bày sự việc, bút ký thì có những lời bình phẩm của người viết. Bây giờ ta có thể đọc một bài bút ký trong đó không thiếu những đoạn viết theo lối phóng sự, lẫn hồi ký, có khi cả thể truyện ngắn. Mà ai dám đánh cuộc: bút ký bây giờ không bằng ngày trước?". Chỉ trong những cuốn sách lý luận và sách giáo khoa các nhà nghiên cứu mới phân chia thể tài một cách chính xác, trong khi thực tế văn học luôn diễn ra những yếu tố ngoại biên, mờ nhòe, đặc biệt với những tác giả văn học có năng khiếu đặc biệt và sự linh hoạt cao độ khi cầm bút.

thieugia
26-03-2013, 10:07 PM
Ý kiến khác về "tản văn":



Câu trả lời hay nhất - Do người đọc bình chọn

a. Tản văn là một trong các thể loại văn học.
Theo sự phát triển của văn học, ý nghĩa và phạm vi của tản văn ngày càng biến đổi không ngừng. Tản văn hiện đại ngoài các tác phẩm thể loại văn học như thơ, ca, kịch, tiểu thuyết... còn bao gồm các thể loại khác như tạp văn, tiểu phẩm, tùy bút, truyền kí, du (lịch) kí, những chuyện kể tai nghe mắt thấy, hồi ký, báo cáo văn học v.v... Gọi là "tản văn" vì thể loại này có hình thức đa dạng, đề tài rộng rãi, phong phú, không bị sự hạn chế của thời gian và không gian. Cách viết không câu nệ, có thể trần thuật lại diễn biến sự việc, cũng có thể miêu tả hình tượng nhân vật, có thể mượn vật gửi gắm tình cảm, phát biểu quan điểm; hơn nữa tác giả còn có thể dựa vào nội dung cần viết mà tự do điều chỉnh, biến hóa tùy ý.

b. Những đặc điểm của tản văn:
- Mang ý nghĩa sâu sắc thâm thúy, giàu tính trữ tình, cảm xúc chân thành...
- Ngôn từ đẹp đẽ, lời lẽ cô đọng, súc tích..
- Thể hiện cảm nhận của tác giả về cuộc sống xung quanh...

c. Dựa vào nội dung và tính chất của tản văn, có thể phân ra mấy loại sau:
- Kể chuyện, tự sự
- Trữ tình
- Tả cảnh
- Triết lý


Thể loại tùy bút là gì ?

Tùy bút là một từ Hán Việt. TÙY là tùy ý, BÚT là cây viết, tùy bút là viết tùy thích theo ý của mình, không có chủ đề gì cả, thường là miêu tả cảm xúc của tác giả về vấn đề gì đó.

Tùy bút là cách phóng bút môt cách hết sức phóng khoáng thậm chí đến mức tùy tiện . bạn đọc Tùy Bút Sông Đà rồi thì biết . Ban đầu đọc thì văn phong nghe như đấm vào tai độc giả bởi cách viết quá phóng khoáng , sự liên hệ tạt ngang một cách tùy tiện đang chuyện này lại chạy sang chuyện khác . Nhưng chính thể loại tùy bút mới thể hiện tốt nhất đặc điểm phong cách của Nguyễn Tuân . Hy vọng câu chuyện về Nguyễn Tuân sẽ giúp bạn hiểu rõ thế nào là tùy bút .

Thể loại Tiểu Thuyết


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhminhoa/Tho_duong/tamquoc_l1.jpg
Tam Quốc Chí
Tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi có hư cấu, thông qua nhân vật, hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn và những vấn đề của cuộc sống con người, biểu hiện tính chất tường thuật, tính chất kể chuyện bằng ngôn ngữ văn xuôi theo những chủ đề xác định.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhminhoa/Tho_duong/tam%20quc%20ca%20t.jpg
Số phận Anh Hùng

Trong văn học phương Đông, danh từ tiểu thuyết xuất hiện khá sớm nhằm phân biệt với hai thể loại cơ bản khác là đại thuyết và trung thuyết. Đại thuyết là kinh sách của các thánh nhân viết như Kinh Thư, Kinh Thi của Khổng Tử, đó là loại sách mang nặng tính triết học, gần như chân lý, kiểu khuôn vàng thước ngọc và rất khó đọc. Trung thuyết do các hiền sư, sử gia thực hiện như Sử ký của Tư Mã Thiên. Còn tiểu thuyết, vốn chỉ những chuyện vụn vặt, đời thường. Những chuyện ấy cùng với cổ tích, ngụ ngôn là những mầm mống của tiểu thuyết phương Đông. Thuỷ Hử và Hồng Lâu Mộng là một trong những số đó.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhminhoa/Tho_duong/tam%20quc.jpg

Theo quan niệm trước đây, đặc biệt là quan niệm của Trung Quốc và Nhật Bản, tiểu thuyết bao gồm có hai loại chính là tiểu thuyết đoản thiên hay truyện ngắn, thậm chí là "vi hình tiểu thuyết" (truyện cực ngắn, truyện siêu ngắn) hay "truyện trong lòng bàn tay" và tiểu thuyết trường thiên (truyện dài). Tuy nhiên hiện nay, ở Việt Nam, khi nói đến tiểu thuyết, độc giả thường hiểu đó là tác phẩm truyện dài.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhminhoa/Tho_duong/tamquoc_l.jpg

3. Tiểu Luận là gì ?

a. Định nghĩa - Khái niệm

Kể ra câu hỏi nầy cũng khá ngô nghê ... nhưng cũng không dễ trả lời !
Theo tôi , bài viết nào có hai yếu tố : một là chứng cứ cụ thể được đưa ra , hai là dựa theo đó mà bàn tán rậm rịt thì có thể gọi là tiểu luận . Cách viết thì tuỳ người , đưa chứng cứ trước rồi luận sau , và có khi luận trước rồi dẫn chứng sau , hoặc vừa luận vừa chứng !

Tuy có chữ tiểu đứng đầu , nhưng bài luận có thể dài lê thê đến vài trăm tờ .. đừng thắt mắc nhiều cho thêm mệt , cũng như tiểu thuyết vậy thôi , viết dưới trăm trang là thiên hạ chê mỏng , không xướng danh gọi tiểu thuyết !

Riêng câu "... vì đây không phải là một tiểu luận cho nên...." được hiểu là bài viết của tác giả thiếu một trong hai yếu tố của tiểu luận . Thiếu yếu tố luận thì đó là một báo cáo hay thống kê gì đấy , còn thiếu chứng cứ thì tùy tâm người đọc , xếp hàng từ chuyện phiếm cho đến vu khống hay bôi nhọ gì cũng được !

b. Cách viết một bài luận



Phần I
YÊU CẦU CỦA TIỂU LUẬN

Làm tiểu luận là một trong những công việc mà người sinh viên phải thực hiện trong quá trình học tập tại trường đại học. Để làm tốt tiểu luận, cần phải nắm được các yêu cầu của tiểu luận. Phần này sẽ trình bày vắn tắt các yêu cầu đó, bao gồm : Yêu cầu về nội dung, yêu cầu về hình thức, yêu cầu về phương pháp.

I.1: Yêu cầu về nội dung
Tiểu luận là một bài tập nghiên cứu khoa học sau khi học xong một môn học nào đó. Nội dung của tiểu luận phải có liên quan đến môn học, góp phần giải đáp, mở rộng hoặc nâng cao kiến thức về một vấn đề khoa học thuộc môn học. Người làm cần phải đưa ra những nghiên cứu riêng, ý kiến riêng của mình về vấn đề khoa học được đề cập tới trong tiểu luận. Không nên dừng ở mức độ chỉ tổng hợp các tài liệu và ý kiến có sẵn.

I.2: Yêu cầu về hình thức
Tiểu luận cần được soạn thảo bằng máy tính, trình bày đúng qui cách, bao gồm các điểm chính :
+ Tiểu luận được làm trên khổ giấy A4.
+ In kiểu chữ Times, cỡ chữ 13, nên in 1 mặt.
+ Số dòng in trong một trang là 26-27 dòng (dãn cách dòng 1,5 lines).
Không nên lạm dụng các tính năng trình bày của máy tính, chỉ nên trình bày rõ ràng, sáng sủa. Tiểu luận cần được viết với văn phong giản dị, trong sáng, sử dụng chính xác các thuật ngữ chuyên môn, đặc biệt, không được mắc các lỗi chính tả và ngữ pháp. Muốn vậy, sau khi hoàn thành xong về nội dung, trước khi in, cần phải đọc lại và sửa chữa kỹ lưỡng về chính tả, ngữ pháp, câu văn và cách trình bày trang in.
Về hình thức, tiểu luận bao gồm các thành phần chính sau :
Bìa :Ngoài cùng của tiểu luận là bìa tiểu luận. Bìa được làm bằng giấy cứng, phía trên cùng đề tên trường và khoa, giữa trang đề tên đề tài bằng khổ chữ to, góc phải cuối trang đề họ tên người hướng dẫn, người thực hiện đề tài, lớp và năm học. Trang bìa có thể đóng khung cho đẹp.
Trang bìa : Là bản chụp của bìa, in trên giấy bình thường.
Lời cảm ơn (nếu cần)
Mục lục

Phần nội dung chính: Đây là phần trình bày kết quả nghiên cứu của tiểu luận. Phần này gồm nhiều phần nhỏ, được trình bày chi tiết ở mục sau (xem mục II.3).
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục (nếu cần)

I.3: Yêu cầu về phương pháp

Viết tiểu luận là tập nghiên cứu khoa học, tiểu luận có thể được coi là một công trình khoa học nho nhỏ. Do vậy cần phải xác định rõ phương pháp thực hiện tiểu luận bao gồm các phương pháp nghiên cứu của ngành học cùng với các phương pháp hỗ trợ khác, trong đó phương pháp sử dụng máy tính để soạn thảo văn bản.

Phần II:

CÁC BƯỚC THỰC HIỆN TIỂU LUẬN
Sau khi xác định được các yêu cầu của tiểu luận, cần phải phân chia việc thực hiện tiểu luận thành các công việc nhỏ hơn và đơn giản hơn, định rõ thứ tự thực hiện các công việc đó, thời gian cần thiết cho từng công việc. Tức là phải xác định các bước thực hiện tiểu luận. Kết quả của việc này là một bản kế hoạch thực hiện tiểu luận được giáo viên hướng dẫn chấp thuận.
Phần này trình bày các bước chính để thực hiện một tiểu luận (*), bao gồm các bước :
+ Xác định đề tài
+ Tập hợp thông tin,
+ Lập đề cương
+ Giải quyết từng mục trong nội dung nghiên cứu
+ Hoàn thiện tiểu luận
(*) Tất nhiên, tùy theo môn học và đề tài mà có thể phải có thêm bớt các bước.

II.1: Xác định đề tài
Trước tiên cần tìm kiếm và lựa chọn đề tài nghiên cứu. Đề tài có thể do người hướng dẫn nêu ra nhưng cũng có khi sinh viên phải tự tìm kiếm. Có thể tìm kiếm đề tài trong chương trình học hoặc trong thực tiễn liên quan tới ngành hoặc môn học.
Cần phải xác định rõ phạm vi nghiên cứu của đề tài như giới hạn về nội dung, về mức độ nghiên cứu, đối với một số ngành còn phải giới hạn về thời gian, không gian của sự kiện, điều kiện thực hiện.... Vì thời gian làm tiểu luận có hạn nên cần chọn những đề tài vừa sức và phải đưa ra những giới hạn phù hợp, đừng nên chọn những đề tài quá khó, quá rộng.
Khi trình bày với giáo viên hướng dẫn, cần phải nói rõ nội dung đề tài, lý do chọn đề tài, phương pháp nghiên cứu đề tài, giới hạn phạm vi nghiên cứu và cuối cùng là tên đề tài (tên đề tài ngắn gọn, chính xác với nội dung và giới hạn của đề tài).

II.2: Tập hợp thông tin
Sau khi đã xác định được đề tài nghiên cứu của tiểu luận, cần phải tập hợp các thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu, ví dụ như :
Các nguồn tài liệu như sách, báo, tạp chí, kỷ yếu khoa học... được lưu trữ trong các thư viện hoặc trên Internet.
Các kết quả có được từ các thí nghiệm, thực nghiệm, thực địa, thực tập, điều tra,...
v.v
Kết quả của việc tập hợp thông tin là một bản danh mục các tài liệu tham khảo, trong đó các tài liệu được sắp thứ tự theo tên tác giả hoặc tên tài liệu...

thieugia
26-03-2013, 10:15 PM
II.3: Lập đề cương
Đề cương là cái khung của tiểu luận. Đề cương là các nét chính về phương cách giải quyết vấn đề nghiên cứu được nêu ra. Ở bước này, cần nêu ra được nội dung tiểu luận sẽ gồm bao nhiêu phần, chương, mục; cách bố trí ra sao, nội dung chủ yếu của mỗi mục là gì. Tất nhiên đây chỉ là những dự kiến, sau này có thể còn thay đổi.
Nói chung, nội dung tiểu luận gồm các phần chính sau:
Phần mở đầu : Trong phần này cần nêu rõ nội dung đề tài nghiên cứu, lý do và mục đích nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu.
Phần thân : Phần này bao gồm nhiều phần nhỏ (chương) I, II, III.... Đây là nội dung chủ yếu của tiểu luận, thuộc chuyên môn ngành học. Mỗi phần nhỏ có thể gồm nhiều mục, thể hiện quá trình giải quyết vấn đề nêu trong đề tài, các kết quả trong quá trình nghiên cứu, các nhận định, đánh giá... Phần này có thể được viết nhiều lần, sửa chữa, bổ sung trong suốt quá trình nghiên cứu. Đây là phần chủ yếu thể hiện công sức và trình độ nghiên cứu của người thực hiện tiểu luận.
Phần kết luận : Trong phần này cần tóm tắt quá trình giải quyết vấn đề các kết quả nghiên cứu. Nêu lên được ý nghĩa khoa học và thực tiễn của kết quả nghiên cứu. Cuối cùng, Nêu ra những vấn đề chưa giải quyết được và hướng phát triển của đề tài.

II.4: Giải quyết nội dung nghiên cứu
Đây là bước chiếm nhiều công sức nhất trong quá trình làm tiểu luận. Người thực hiện tiểu luận cần phải tiến hành:
Nghiên cứu
Làm thí nghiệm
Thực nghiệm
Điều tra
Phỏng vấn, tra cứu tài liệu, tổng hợp và phân tích dữ liệu, suy nghĩ và đưa ra những nhận xét, đánh giá, ... cho từng mục trong tiểu luận. Sau đó viết những kết quả nghiên cứu của mình vào tiểu luận.

Trước hết nên viết dưới dạng bản thảo tất cả những thông tin, những kết quả có được, những ý tưởng đã có cho đề tài cho dù còn lộn xộn, chưa chắc chắn. Trong các bước tiếp theo sẽ sửa chữa, sàng lọc, sắp xếp, hoàn chỉnh lại.

II.5: Hoàn thiện tiểu luận
Sau khi đã viết được hầu hết nội dung tiểu luận, cần phải đọc lại và hoàn thiện tiểu luận. Chính trong phần này, việc soạn thảo tiểu luận bằng máy tính sẽ phát huy tác dụng rất tốt. Với máy tính, ta có thể thêm, bớt, xóa, sửa văn bản tiểu luận một cách hết sức tự do, có thể chèn các hình ảnh, biểu bảng, sơ đồ, công thức, ... rất tiện lợi.
Trong bước này, cần phải :
Điều chỉnh nội dung và bố cục tiểu luận cho phù hợp với quá trình và kết quả nghiên cứu, đồng thời khiến các phần được liên kết với nhau một cách mạch lạc, rõ ràng. Lược bỏ những phần, những ý chưa thật chắc chắn hoặc quá lan man.
Sửa chữa lỗi chính tả, câu văn và ý tứ sao cho tiểu luận được trình bày một cách chính xác, dễ hiểu và trong sáng.
Chỉnh sửa nội dung và hình thức các bảng, biểu, hình ảnh.... Nhập Danh mục tài liệu tham khảo.
Ví dụ:
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (1996), Báo cáo tổng kết 5 năm (1992-1996) phát triển lúa lai, Hà Nội.
2. Nguyễn Hữu Đống, Đào Thanh Bằng, Lâm Quang Dụ, Phan Đức Trực (1997), Đột biến – Cơ sở lí luận và ứng dụng, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
3. Võ Thị Kim Huệ (2000), Nghiên cứu, chẩn đoán và điều trị bệnh, Luận án Tiến sĩ y khoa, Trường Đại học Y Hà Nội.
Đối với tài liệu tham khảo là bài báo trong tạp chí, bài trong một cuốn sách, ghi đầy đủ các thông tin sau:
Tên tác giả (năm công bố), “tên bài báo”, tên tạp chí hoặc tên sách, tập (số), các số trang.
Ví dụ:
Quách Ngọc Ân (1992), “Nhìn lại hai năm phát triển lúa lai”, Di truyền học ứng dụng, 98 (1), tr.10-16.
Điều chỉnh định dạng các phần của văn bản tiểu luận như các tiêu đề, chú thích, tham chiếu, .... Tạo các phần cần thiết cho văn bản tiểu luận như : Trang bìa, Mục lục, Header/Footer,.


Cách viết một bài luận hay:



Cách viết một bài luận hay
Bài luận là một đoạn viết ngắn tổng quát miêu tả cách nhìn nhận của tác giả đối với một vấn đề cụ thể. Có nhiều dạng bài luận, bao gồm dạng tường thuật, dạng miêu tả, và dạng khẳng định. Tuy nhiên, các bước sau đây có thể được dùng để viết bất kì một bài luận ở dạng nào.
- Lập dàn ý
+ Tổ chức và triển khai ý
+ Viết phác thảo
+ Rà soát bản phác thảo
+ Đọc lại và sửa bản thảo
- Thiết lập ý
Giáo viên có thể đưa ra một chủ đề hoặc yêu cầu bạn chọn một trong một số chủ đề. Bài tập dạng này có thể chứa một số từ khóa gợi ý cho nội dung và cấu trúc bài luận của bạn. Ví dụ, bạn có thể được yêu cầu:
+ Phân tích
+ Phản bác
+ So sánh
+ Miêu tả
+ Thảo luận
+ Tóm tắt
Nếu bạn không hiểu những gì yêu cầu bạn phải làm, hãy kiểm chứng lại cùng giáo viên. Có thể bạn được yêu cầu tự tìm lấy chủ đề bài luận. Việc tự tìm chủ đề tương đối khó. Bạn phải bỏ ra không ít thời gian để nghĩ về cái bạn muốn viết. Thử trả lời các câu hỏi liên quan đến chủ đề đó có thể giúp bạn có các ý hay trong bài luận.
(+) Bạn quan tâm đến đề tài nào?
(+) Cái gì khiến bạn quan tâm nhất trong một vấn đề cụ thể?
(+) Có điều gì liên quan đến đề tài đó mà bạn vẫn thắc mắc hay không hiểu không?
(+) Hãy chắc chắn rằng đề tài bạn chọn đủ hẹp để bạn có thể viết một cách chi tiết trong số lượng trang cho phép. Ví dụ, bạn được yêu cầu viết bài luận về ột thành viên trong gia đình với phạm vi 1 trang, vì bạn bị giới hạn độ dài của bài luận, nên bạn có thể tập trung vào một tính cách cụ thể, hoặc một việc nào đó liên quan đến cuộc sống của người đó, chứ bạn không nên cố gắng viết về tất cả những gì thuộc về người đó. Có sự tập trung tốt giúp bạn viết một bài luận hấp dẫn hơn.
Quá chung chung: chị gái tôi
Cụ thể hơn: chị gái tôi là một người bạn tốt
Tương tự, bạn có thể được yêu cầu viết một bài luận dài 5 trang về núi lửa. Lại một lần nữa, bạn bị giới hạn về số trang của bài luận, bạn nên chọn và tập trung vào một khía cạnh của nó hay sự phun trào của một ngọn nào đó hơn là cố gắng viết tất cả những gì liên quan đến núi lửa chung chung.
Quá chung chung: Núi lửa trên thế giới
Cụ thể hơn: Sự phun trào của ngọn núi lửa Pinatubo vào tháng 6 năm 1991
Một phương pháp để giới hạn đề tài được gọi là phương pháp vận dụng trí tuệ lập thể để giải quyết một vấn đề phức tạp. Với bút chì và giấy, hay ngồi vào máy tính, bạn gạch ra những gì đến trong đầu mình về đề tài mà không quan tâm đến tính tổ chức của các ý.
Tiếp tục gạch các ý trong thời gian ngắn khoảng 3-5 phút. Không nên dừng lại để đổi những gì bạn đã viết hay sửa các lỗi chính tả, ngữ pháp.
Sau đó, bạn nên đọc lại những ý mà bạn đã viết ra. Có thể bạn không dùng tất cả các ý đó, nhưng chúng cũng giúp bạn đưa ra một ý nào đó để tiếp tục phát triển nó.
Tiến hành một số đề tài để thấy bạn có thể phát triển ý tưởng từ phương pháp này.
- Sắp xếp các ý
+ Triển khai dàn ý để tổ chức các ý của bạn. Một dàn ý chỉ ra các ý chính và thứ tự viết bài luận.
+ Viết tất cả các ý chính
+ Liệt kê các ý phụ trong các ý chính đó
+ Tránh bất kì sự trùng lặp nào
- Viết phác thảo
Tất cả các bài luận đều gồm có ba phần chính sau:
+ Giới thiệu
+ Thân bài
+ Kết luận
Giới thiệu là phần đầu tiên của bài luận. Nó thường bắt đầu bởi một ý chung về đề tài và kết thúc bằng một ý chi tiết hơn của ý chính trong bài luận. Mục đích của phần giới thiệu là:
(+) Cho người đọc biết quan điểm của bạn
(+) Gợi tính tò mò của người đọc làm cho họ muốn đọc bài viết của bạn hơn
Phần tiếp theo là thân bài, nó bao gồm một vài đoạn văn được phát triển chi tiết từ dàn ý. Mỗi đoạn có thể diễn tả một ý chính. (Không nên cố viết nhiều hơn một ý trong một đoạn). Sử dụng các ví dụ và trích dẫn cụ thể để liên tục chứng minh các quan điểm của mình. Dùng các từ nối, chuyển tiếp đê đảm bảo tính trôi chảy, hợp lý của các ý từ đoạn này qua đoạn khác.
Kết luận là đoạn văn cuối cùng, mục đích của nó là tóm tắt các ý chính của bạn mà không gồm các ví dụ chi tiết, phát biểu lại ý chính của bài luận.
- Rà soát bản phác thảo
Cố gắng bỏ qua bản phác thảo trong một hay hai ngày trước khi rà soát. Điều này giúp dễ dàng hơn trong việc xem lại công việc của bạn một cách khách quan và nhận ra các kẽ hở hoặc thiếu sót. Việc rà soát gồm cả việc xem lại các ý kiến, lọc lại các phản bác của bạn, sắp xếp lại các đoạn văn, và diễn đạt lại các câu văn. Bạn có thể phát triển ý kiến của mình chi tiết hơn, đưa ra nhiều bằng chứng hơn bổ sung cho các khẳng định của mình, hoặc xóa các dữ liệu không cần thiết.
Đọc to đoạn văn, điều này giúp bạn dễ dàng phát hiện ra các câu văn lủng củng và không rõ ràng.
Nhờ người khác đọc bài viết của bạn và nói ý kiến của họ nếu có chỗ nào không rõ ràng, lủng củng.
- Đọc lại và sửa bản thảo
Tìm các lỗi cẩu thả cũng như lỗi chính tả, các phép chấm câu và viết hoa sai.
Các bài viết ở máy tính khó phát hiện hơn khi nó được in ra giấy. Nếu bạn đánh bài viết trên máy tính, bạn nên in ra và đọc lại. Nên nhớ rằng, công cụ kiểm tra chính tả và ngữ pháp không phải luôn luôn đúng, do đó bạn không nên quá lạm dụng nó./.

thieugia
27-03-2013, 03:18 PM
4. Khóa luận, Luận văn, Luận án, …

Trước, trong, sau khi học xong một chương trình, một môn học, một học kì, một khóa học, … thì người giảng dạy, hướng dẫn sẽ yêu cầu ta thực hiện một “cái gì đó”.
“Cái gì đó” thì có nhiều loại. Bài này sẽ phân loại những cái đó theo tên để mọi người biết mà sử dụng.



Bài tập:
Trong lúc học thì giáo viên, giảng viên, người hướng dẫn sẽ yêu cầu thực hiện nó. Nó thường chiếm tỉ lệ điểm của môn đó là 10~30%. Thực hiện một công việc gì đó, có thể tạo ra sản phẩm hoặc không. Và phải có một bài viết nhỏ, mô tả cách thực hiện, cách sử dụng, …
Đồ án:
Giống như bài tập, nhưng chiếm tỉ lệ điểm cao hơn, và độ khó cũng hơn nhiều lần, thường từ 30~100% số điểm.
Báo cáo:
Giống như bài tập, nhưng chỉ là mô tả cách thực hiện và những gì xảy ra trong quá trình thực hiện, nói chi tiết và cụ thể. Tỉ lệ điểm không cao 10~30%.
Bài thu hoạch:
Giống như bài tập, không nhất thiết tạo ra sản phẩm, không mô tả chi tiết cách thức thực hiện cũng như cách sử dụng. Trình bày các kiến thức mà bản thân tiếp thu được sau khi kết thúc chương trình học một cách chi tiết. Có thể pha chút cảm xúc cá nhân.
Đồ án tốt nghiệp:
Ở trên là đồ án môn học, đồ án tốt nghiệp là một đồ án. Nhưng nó là kết quả của cả khóa học, chứ không phải của một môn học. Có tạo ra sản phẩm, có viết báo cáo trình bày, mô tả chi tiết cách thực hiện, cách sử dụng, và ứng dụng của nó trong đời sống. Sinh viên sau khi kết thúc chương trình toàn khóa thì học một vài môn bắt buộc để thi và phải làm đồ án tốt nghiệp để có thể tốt nghiệp. Đồ án tốt nghiệp, tùy theo trường mà có hoặc không bảo vệ trước hội đồng phản biện.
Tiểu luận:
Là một bài viết nói về một vấn đề gì đó. Trình bày một luận chứng, luận điểm gì đó, đưa ra những bằng chứng để chứng minh điều đó. Có thể luận điểm trước, chứng minh sau, hoặc chứng minh trước, luận điểm sau, hoặc vừa chứng minh vừa kết luận. Có thể dùng làm bài tập môn học, đồ án môn học, nói về cái gì đó. Có thể dùng nó để thuyết trình trước một đoàn thể nào đó hoặc không. Không có sự phản biện. Và sau khi nói xong thì kết thúc.
Khóa luận:
Là một tiểu luận bự. Thiên về tìm hiểu nghiên cứu một cái gì đó. Không quan trọng việc tạo ra sản phẩm hay ứng dụng của nó trong đời sống. Dành cho sinh viên thực hiện để ra trường. Bắt buộc bảo vệ trước hội đồng phản biện. Cấp bậc sinh viên -> cử nhân.
Luận văn:
Khóa luận. Cấp bậc cử nhân -> thạc sĩ.
Luận án:
Là luận văn. Có thể có sản phẩm hoặc không. Phải ứng dụng được trong đời sống hay trong khoa học. Cấp bậc thạc sĩ -> tiến sĩ.


Giải thích thêm về đồ án:


Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia :


Đồ án tốt nghiệp là một công trình nghiên cứu khoa học của sinh viên các trường đại học thực hiện vào học kỳ cuối để tốt nghiệp ra trường.

Ở Việt Nam cũng có một số truờng lấy kết quả thi một số môn học mà không phải làm đồ án tốt nghiệp. Khái niệm đồ án tốt nghiệp cũng tương đương với luận văn tốt nghiệp, nhưng luận văn mang tính chất lý thuyết, nghiên cứu nhiều hơn, còn đồ án tốt nghiệp thì mang tính chất thực hành, có thể tạo thành sản phẩm phục vụ cho công việc nào đó.

Sau khi làm hoàn thành và bảo vệ xong đồ án tốt nghiệp, thì sinh viên có thể sẽ được phát bằng đại học; và có đủ điều kiện để xác nhận là đã đạt trình độ tốt nghiệp đại học. Những sinh viên có đồ án làm xuất sắc hay có kết quả học tập tốt có thể học tiếp lên cao học, tiến sỹ hoặc có thể được giữ lại trường làm trợ giảng, hoặc cả hai, sau một thời gian rèn luyện thì có thể trở thành giảng viên chính thức.

thieugia
27-03-2013, 03:28 PM
5. Khái niệm khoa học và nghiên cứu khoa học

a. Khoa học

Là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức mới, học thuyết mới, … về tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay học thuyết mới này, tốt hơn, có thể thay thế dần những cái cũ, không còn phù hợp. Thí dụ: Quan niệm thực vật là vật thể không có cảm giác được thay thế bằng quan niệm thực vật có cảm nhận.
Như vậy, khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về quy luật của vật chất và sự vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội, và tư duy. Hệ thống tri thức này hình thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội. Phân biệt ra 2 hệ thống tri thức: tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học.

Tri thức kinh nghiệm: là những hiểu biết được tích lũy qua hoạt động sống hàng ngày trong mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên. Quá trình nầy giúp con người hiểu biết về sự vật, về cách quản lý thiên nhiên và hình thành mối quan hệ giữa những con người trong xã hội. Tri thức kinh nghiệm được con người không ngừng sử dụng và phát triển trong hoạt động thực tế. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm chưa thật sự đi sâu vào bản chất, chưa thấy được hết các thuộc tính của sự vật và mối quan hệ bên trong giữa sự vật và con người. Vì vậy, tri thức kinh nghiệm chỉ phát triển đến một hiểu biết giới hạn nhất định, nhưng tri thức kinh nghiệm là cơ sở cho sự hình thành tri thức khoa học.

Tri thức khoa học: là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ thống nhờ hoạt động NCKH, các họat động nầy có mục tiêu xác định và sử dụng phương pháp khoa học. Không giống như tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học dựa trên kết quả quan sát, thu thập được qua những thí nghiệm và qua các sự kiện xảy ra ngẫu nhiên trong hoạt động xã hội, trong tự nhiên. Tri thức khoa học được tổ chức trong khuôn khổ các ngành và bộ môn khoa học (discipline) như: triết học, sử học, kinh tế học, toán học, sinh học,…

b. Nghiên cứu khoa học

Là một họat động tìm kiếm, xem xét, điều tra, hoặc thử nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức,… đạt được từ các thí nghiệm NCKH để phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, và để sáng tạo phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn. Con người muốn làm NCKH phải có kiến thức nhất định về lĩnh vực nghiên cứu và cái chính là phải rèn luyện cách làm việc tự lực, có phương pháp từ lúc ngồi trên ghế nhà trường.

c. Đề tài nghiên cứu khoa học

Khái niệm đề tài:
Đề tài là một hình thức tổ chức NCKH do một người hoặc một nhóm người thực hiện. Một số hình thức tổ chức nghiên cứu khác không hoàn toàn mang tính chất nghiên cứu khoa hoc, chẳng hạn như: Chương trình, dự án, đề án. Sự khác biệt giữa các hình thức NCKH này như sau:

Đề tài: được thực hiện để trả lời những câu hỏi mang tính học thuật, có thể chưa để ý đến việc ứng dụng trong hoạt động thực tế.

Dự án: được thực hiện nhằm vào mục đích ứng dụng, có xác định cụ thể hiệu quả về kinh tế và xã hội. Dự án có tính ứng dụng cao, có ràng buộc thời gian và nguồn lực.

Đề án: là loại văn kiện, được xây dựng để trình cấp quản lý cao hơn, hoặc gởi cho một cơ quan tài trợ để xin thực hiện một công việc nào đó như: thành lập một tổ chức; tài trợ cho một hoạt động xã hội, ... Sau khi đề án được phê chuẩn, sẽ hình thành những dự án, chương trình, đề tài theo yêu cầu của đề án.

Chương trình: là một nhóm đề tài hoặc dự án được tập hợp theo một mục đích xác định. Giữa chúng có tính độc lập tương đối cao. Tiến độ thực hiện đề tài, dự án trong chương trình không nhất thiết phải giống nhau, nhưng nội dung của chương trình thì phải đồng bộ.

d. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: là bản chất của sự vật hay hiện tượng cần xem xét và làm rõ trong nhiệm vụ nghiên cứu.

Phạm vi nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu được khảo sát trong trong phạm vi nhất định về mặt thời gian, không gian và lãnh vực nghiên cứu.

Mục đích và mục tiêu nghiên cứu: Khi viết đề cương nghiên cứu, một điều rất quan trọng là làm sao thể hiện được mục tiêu và mục đích nghiên cứu mà không có sự trùng lấp lẫn nhau. Vì vậy, cần thiết để phân biệt sự khác nhau giữa mục đích và mục tiêu.

Mục đích: là hướng đến một điều gì hay một công việc nào đó trong nghiên cứu mà người nghiên cứu mong muốn để hoàn thành, nhưng thường thì mục đích khó có thể đo lường hay định lượng. Nói cách khác, mục đích là sự sắp đặt công việc hay điều gì đó được đưa ra trong nghiên cứu. Mục đích trả lời câu hỏi "nhằm vào việc gì?", hoặc "để phục vụ cho điều gì?" và mang ý nghĩa thực tiển của nghiên cứu, nhắm đến đối tượng phục vụ sản xuất, nghiên cứu.

Mục tiêu: là thực hiện điều gì hoặc hoạt động nào đó cụ thể, rõ ràng mà người nghiên cứu sẽ hoàn thành theo kế hoạch đã đặt ra trong nghiên cứu. Mục tiêu có thể đo lường hay định lượng được. Nói cách khác, mục tiêu là nền tảng hoạt động của đề tài và làm cơ sở cho việc đánh giá kế hoạch nghiên cứu đã đưa ra, và là điều mà kết quả phải đạt được. Mục tiêu trả lời câu hỏi “làm cái gì?”.

Thí dụ: phân biệt giữa mục đích và mục tiêu của đề tài sau đây.

Đề tài: "Ảnh hưởng của phân N đến năng suất lúa Hè thu trồng trên đất phù sa ven sông ở Đồng Bằng Sông Cửu Long".

Mục đích của đề tài: Để tăng thu nhập cho người nông dân trồng lúa.
Mục tiêu của đề tài:
Tìm ra được liều lượng bón phân N tối hảo cho lúa Hè thu.
Xác định được thời điểm và cách bón phân N thích hợp cho lúa Hè thu.[/SIZE]

thieugia
27-03-2013, 03:43 PM
Hướng dẫn viết báo cáo chuyên đề

MỘT SỐ GỢI Ý VỀ CÁCH TRÌNH BÀY VÀ BỐ CỤC BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC

PHẦN ĐẦU BÁO CÁO
Cần có các mục sau:
- Mục lục
- Bảng chú giải các ký hiệu, đơn vị đo, từ viết tắt, thuật ngữ

PHẦN CHÍNH BÁO CÁO
Nên chia thành các chương, mục như sau:

I. Đặt vấn đề:
- Khái quát về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến chuyên đề nghiên cứu. Từ đó làm nổi bật sự cần thiết phải nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu.
- Mục đích yêu cầu của chuyên đề: Vì chuyên đề là một nhánh của đề tài/dự án, nên mục đích yêu cầu của chuyên đề phải bám sát mục đích yêu cầu của đề tài/Dự án. Chủ nhiệm đề tài/dự án phải đề ra mục đích yêu cầu một cách cụ thể. Khi nghiệm thu sản phẩm cần đối chiếu kết quả đạt được với mục đích yêu cầu đã đề ra.

II. Phương pháp nghiên cứu, cách tiếp cận:
Để đạt được mục đích, yêu cầu đặt ra, tác giả đã sử dụng những phương pháp gì trong quá trình nghiên cứu, tính phù hợp của những phương pháp đã chon.. Cần nêu một cách cụ thể, tránh nêu chung chung

III. Nội dung nghiên cứu và kết quả đạt được:

3.1. Đối với chuyên đề nghiên cứu tổng quan, điều tra khảo sát cần trình bày:
- Kết quả thu thập thông tin (những thông tin thu thập được phải nêu rõ nguồn cung cấp thông tin từ trực tiếp điều tra, theo niên giám thống kê, sách, báo, trang web...)
- Phân tích đánh giá thông tin thu thập được

3.2. Đối với chuyên đề nghiên cứu về công nghệ (Xây dựng công nghệ hoặc quy trình công nghệ) cần trình bày:
- Những nội dung công việc đã thực hiện trong quá trình nghiên cứu. Đối với Dự án sản xuất thử nghiệm, phải nêu những vấn đề tồn tại của đề tài xuất xứ, kết quả nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện, những vấn đề đã nghiên cứu mới nếu có.
- Những thí nghiệm/thực nghiệm đã tiến hành, kết quả đạt được
- Những công nghệ hoặc quy trình công nghệ xây dựng được. Nếu là quy trình công nghệ phải trình bày đúng kết cấu của bản quy trình công nghệ và cần có Hội đồng khoa học cấp cơ sở thông qua
- Kết quả ứng dụng công nghệ hoặc quy trình công nghệ tại mô hình ứng dụng/ mô hình sản xuất thử nghiệm
- Chất lượng sản phẩm đạt được so với đăng ký (Ghi trong thuyết minh và hợp đồng)
Riêng Quy trình công nghệ chế tạo, có hướng dẫn riêng (ở phần cuối)

3.3. Đối với chuyên đề nghiên cứu thiết kế thiết bị:
- Bản thuyết minh cơ sở tính toán thiết kế của thiết bị, những chi tiết, cụm chi tiết chính.
+ Cần mô tả nguyên lý, kết cấu của thiết bị, nêu bật tính mới, tính sáng tạo trong thiết kế. Nếu có thí nghiệm/thử nghiệm cần nêu phương pháp và kết quả thí nghiệm/thử nghiệm, so sánh với các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật đã đăng ký.
+ Đối với dự án sản xuất thử nghiệm, bản thuyết minh cần nêu những vấn đề tồn tại của đề tài xuất xứ, những nội dung mà dự án đã hoàn thiện (TD: Chọn vật liệu chế tạo mới, thay đổi kết cấu của máy, những cụm chi tiết hoặc chi tiết máy....). Kết quả đạt được sau khi hoàn thiện thiết kế
- Bản vẽ thiết kế kỹ thuật:
+ Phải vẽ theo đúng tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN)
+ Bản vẽ cần có tên, chữ ký của người vẽ, người kiểm tra, người duyệt

3.4. Đối với chuyên đề xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ, thiết bị của đề tài/dự án, gồm một số nội dung chính:
- Công nghệ, thiết bị ứng dụng tại mô hình
- Tổ chức, quản lý sản xuất của mô hình (Địa điểm, thời gian xây dựng và đưa mô hình vào hoạt động, hình thức tổ chức, số lượng, chất lượng cán bộ kỹ thuật, công nhân được bố trí để thực hiện mô hình....)
- Hoạt động của mô hình ( khối lượng sản phẩm đạt được trong thời gian thử nghiệm, tình hình tiêu thụ sản phẩm...)
- Các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật qua theo dõi thực tế hoạt động của mô hình
- Đánh giá chất lượng công nghệ, thiết bị
- Đánh giá chất lượng sản phẩm
- Từ số liệu theo dõi tại mô hình, đánh giá hiệu quả kinh tế - kỹ thuật (xã hội, môi trường...).

IV. Kết luận và kiến nghị:
- Rút ra những kết quả nghiên cứu chủ yếu mà chuyên đề đã thực hiện được. đối chiếu với mục đích yêu cầu đề ra đã đạt được đến mức độ nào. Những vấn đề còn hạn chế, nguyên nhân
- Nêu lên những kiến nghị có liên quan đến việc nghiên cứu của đề tài/dự án, đề xuất hướng tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hoặc biện pháp chuyển giao cho sản xuất...
V. Tài liệu tham khảo:
Sắp xếp danh mục các nguồn tài liệu và sách xuất bản đã tham khảo để thực hiện chuyên đề. Nguồn tài liệu thường được trình bày theo thứ tự sau đây:
Họ tên tác giả/nhan đề/các yếu tố xuất bản (tên sách, tạp chí..., năm xuất bản, trang...)
Trong khi viết báo cáo, nếu nội dung liên quan đến tài liệu tham khảo thì sau nội dung đó, phải viết số thứ tự trong danh mục tài liệu tham khảo trong ngoặc vuông [ ]
VI. Phụ lục:
Những tài liệu, hình, ảnh cần thiết để làm sáng tỏ báo cáo, nếu đưa vào báo cáo sẽ nặng nề thì đưa vào phụ lục.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý

1. Đơn vị đo lường:
Phải sử dụng đơn vị đo lường hợp pháp của Việt Nam. Nếu dùng đơn vị khác thì phải viết cả giá trị chuyển đổi và đặt trong dấu ngoặc ( )

2. Kích thước báo cáo:
- Khổ giấy in báo cáo: A4 (210mm x 297mm)
- Phông chữ (Font): Thống nhất dùng Times New Roman
- Cỡ chữ 13
- Khoảng cách giữa các dòng 1,5lines

BỐ CỤC VÀ CÁCH TRÌNH BÀY BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ


XÂY DỰNG QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ CHẾ TẠO CHI TIẾT MÁY

Đề cương gợi ý

1. Mục đích yêu cầu nghiên cứu xây dựng …. (hoặc nghiên cứu hoàn thiện…) quy trình công nghệ chế tạo
2. Phương pháp nghiên cứu xây dựng … (hoặc nghiên cứu hoàn thiện…) quy trình công nghệ chế tạo …
3. Đặc điểm cấu tạo của thiết bị
- Nêu khái quát cấu tạo, hoạt động của thiết bị, nêu tên các cụm chi tiết và các chi tiết chính, đặc biệt là các chi tiết cần xây dựng quy trình công nghệ chế tạo.
- Vẽ sơ đồ cấu tạo
4. Quy trình công nghệ chế tạo các chi tiết hoặc các cụm chi tiết
a, Quy trình công nghệ chế tạo chi tiết 1
- Đặc điểm cấu tạo, đặc tính kỹ thuật và hoạt động của chi tiết 1 (những vấn đề liên quan đến yêu cầu công nghệ chế tạo)
- Bản vẽ thiết kế chi tiết 1
- Quy trình công nghệ chế tạo chi tiết 1 (gồm những nội dung chính dưới đây)
+ Chuẩn bị phôi trước khi gia công
+ Xác định hình dáng, kích thước chi tiết
- Các nguyên công gia công:
Thí dụ:
+ Nguyên công cắt thép
+ Nguyên công mài …
- Các nguyên công nhiệt luyện…
- Các nguyên công kiểm tra chất lượng sản phẩm
Trong từng nguyên công cần xác định:
+ Nguyên vật liệu làm chi tiết
+ Thiết bị dùng gia công nhiệt luyện,
+ Các công cụ gá lắp
+ Dụng cụ, thiết bị dùng kiểm tra
+ Yêu cầu bậc thợ chuyên môn thực hiện từng nguyên công
b, Quy trình công nghệ chế tạo chi tiết 2.chi tiết 3….
Nội dung quy trình cũng tương tự như trên
5. Kết quả thử nghiệm chất lượng chi tiết hoặc cụm chi tiết
Nêu một số nét chính về độ bền, độ tin cậy của các chi tiết đã xây dựng quy trình công nghệ chế tạo nêu trên.
6. Kết luận và kiến nghị
7. Tài liệu tham khảo

thieugia
27-03-2013, 04:58 PM
6. Thơ ca hò vè

a. Thơ Đường Luật

Thơ Ðường Luật phổ biến trên thi đàn Việt Nam xưa, xuất xứ từ đời Ðường (618-907) bên Tàu, có luật lệ nhất định, thường gọi là Thơ Luật để phân biệt với Thơ Cổ Phong xuất hiện trước đời Ðường không có luật lệ nhất định.

Thơ Luật có 4 thể: Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt, Ngũ Ngôn Bát Cú, Thất Ngôn Tứ Tuyệt, Thất Ngôn Bát Cú. Thất Ngôn Bát Cú có luật lệ gò bó khó làm nhất nhưng lại được các Cụ ưa thích nhất, thường dùng để bày tỏ tình cảm ý chí, ngâm vịnh, trào phúng, xướng họa, thù tạc, chúc mừng quan hôn, khai bút đầu Xuân... Lúc đầu làm bằng chữ Hán, đến đời Trần, Hàn Thuyên là người đầu tiên làm bằng chữ Nôm, nên Ðường luật còn gọi là Hàn Luật. Từ đó thể Thất Ngôn Bát Cú trở thành độc tôn trên thi đàn, ngay trong các kỳ thi cũng bắt thí sinh làm một bài. Sau đây xin trình bày khái quát về bố cục và luật lệ căn bản của thể thơ này:

I. BỐ CỤC:
Một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú có 4 phần:

1- Mạo: là mào đầu (vào bài) còn gọi là Ðề, gồm:

- Phá đề (câu 1) nghĩa là mở ra, giới thiệu tựa đề.

- Thừa đề (câu 2) nghĩa là chuyển xuống.

2- Thực hay Trạng: gồm câu 3 + 4: giải thích, khai triển tựa đề.

3- Luận: gồm câu 5+6: bàn luận ý nghĩa của bài.

4- Kết: gồm câu 7+8: tóm tắt ý nghĩa, bày tỏ tình cảm, thái độ.

II. LUẬT LỆ CĂN BẢN:

1- Vần: là bộ phận chủ yếu của âm tiết trong tiếng Việt là âm tiết trừ đi phụ âm đầu nếu có.

Ví dụ: "tà, hoa, nhà, gia, ta" trong bài Qua Ðèo Ngang có cùng một vần "a".

Vần có vần bằng, vần trắc, độc vận, ép vận. Trong thất ngôn bát cú chỉ gieo 1 vần, gọi là độc vận rơi vào 5 chữ cuối của 5 câu: 1, 2, 4, 6, 8 thường là vần bằng, ít khi dùng vần trắc, 5 chữ này tránh trùng nhau, phải hiệp vận cho đúng nếu gieo sai gọi là lạc vận, gieo vần không sát gọi là gượng ép.

Ghi chú:

Vần có cước vận (vần ở cuối câu), và yêu vận (vần ở lưng câu).

Vần điệu: Ðiệu là đều đặn, là số chữ đều đặn trong mỗi câu thơ, như điệu thất ngôn mỗi câu 7 chữ, điệu lục bát gồm 1 câu 6, 1 câu 8. Riêng điệu ca trù mỗi câu bao nhiêu chữ cũng được, trừ câu chót bắt buộc 6 chữ.

Nhịp điệu: Nhịp là cách ngắt đoạn đều đặn trong câu thơ. Nhịp điệu là cái dáng đi khi mau khi chậm trong thơ.

Tiết tấu: tiết là đốt, là đoạn ngắn, tấu là đánh nhạc, là đọc cao lên.

Thi nhạc (gồm vần, điệu, nhịp, tiết tấu): Nhà thơ dùng âm thanh (tượng thanh), dùng sự thay đổi của của âm, độ cao thấp của thanh, sự đều đặn của vần điệu nhịp điệu, sự nhịp nhàng của tiết tấu... làm cho bài thơ đọc lên như một bản nhạc gọi là thi nhạc.

2. Ðối: là phép đặt 2 câu thơ đối nhau gồm có:

Ðối chữ: bằng đối trắc, trắc đối bằng, danh từ đối danh từ, động từ đối động từỳ...

Ðối ý: ví dụ cảnh dưới núi đối cảnh bên sông, cảnh động đối cảnh tĩnh như trong 2 câu thực của bài Qua Ðèo Ngang.

Trong thể thơ này, 2 câu thực phải đối nhau, 2 câu luận phải đối nhau.

Sau đây xin mời quý vị thưởng thức những cặp đối thần sầu của các thi sĩ tiền bối:

* Thi hào Nguyễn Trãi:

- Hương cách gác vân thu lạnh lạnh

Thuyền kề bãi tuyết nguyệt chênh chênh

- Khách đến chim mừng hoa xẩy rụng

Chè tiên nước kín nguyệt đeo về

- Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn

Lòng người quanh nữa nước non quanh

* Bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương:

- Năm thì mười họa chăng hay chớ

Một tháng đôi lần có cũng không

- Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm

Cầm bằng làm mướn, mướn không công

(Làm Lẽ)

("Cố đấm ăn xôi" và "Làm mướn không công" là 2 câu tục ngữ)

- Duyên thiên chưa thấy nhô đầu trọc

Phận liễu sao đà nảy nét ngang

(Không Chồng Mà Chửa)

(Trong Hán tự, chữ THIÊN nếu kéo nét phẩy nhô lên thì thành ra chữ PHU là chồng. Chữ LIỄU nếu thêm nét ngang thì thành ra chữ TỬ là con)

- Ðôi gò bồng đảo sương còn ngậm

Một lạch đào nguyên suối chửa thông

(Thiếu Nữ)

- Chày kình tiểu để suông không đấm

Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo

(Chùa Quán Sứ)

("suông không đấm" và "đếm lại đeo" đều có nghĩa nói lái rất tục)

- Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe

Giọng hi, giọng hỉ, giọng hi ha

(Sư Hổ Mang)

- Gió giật sườn non kêu lắc cắc

Sóng dồn mặt nước vỗ long bong

(Kẽm Trống)

* Thi sĩ Nguyễn Khuyến:

- Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt

Làn ao lóng lánh ánh trăng loe

- Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió sẻ đưa vèo

- Tầng mây lơ lững trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

* Thi sĩ Trần Tế Xương:

- Học đã sôi cơm nhưng chửa chín

Thi không ngậm ớt thế mà cay

- Ðì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột

Om sòm trên vách bức tranh gà

- Chí cha chí chát khua giày dép

Ðen thỉ đen thui cũng lụa là

- Van nợ lắm khi tràn nước mắt

Chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi

- Sỉ khí rụt rè gà phải cáo

Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi

- Một tuồng rách rưới con như bố

Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng

- Ví cho thi đỗ làm quan lớn

Thì cũng nhỏ to cưới chị hầu

- Tiễn chân cô mất hai đồng lẻ

Sờ bụng thầy không một chữ gì

("Gà phải cáo" và "Cố đấm ăn xôi" là 2 câu tucỳ ngữ)

3. Luật: tức thanh luật là quy tắc xếp đặt thanh bằng (B) thanh trắc (T) cho mỗi chữ trong một câu thơ theo lệ:

"Nhất tam ngũ bất luận": bất luận là không ràng buộc,

"Nhị tứ lục phân minh": phân minh là rõ ràng bắt buộc đồng thời phải tuân theo thanh: "nhị bằng tứ trắc lục bằng", hay ngược lại: "nhị trắc tứ bằng lục trắc"

- Sau đây là bài thất ngôn bát cú luật bằng vần bằng:

Câu 1: BBTTTBB

Câu 2: TTBBTTB

Câu 3: TTBBBTT

Câu 4: BBTTTBB

Câu 5: BBTTBBT

Câu 6: TTBBTTB

Câu 7: TTBBBTT

Câu 8: BBTTTBB

- Sau đây là bài thất ngôn bát cú luật trắc vần bằng:

Câu 1: TTBBTTB

Câu 2: BBTTTBB

Câu 3: BBTTBBT

Câu 4: TTBBTTB

Câu 5: TTBBBTT

Câu 6: BBTTTBB

Câu 7: BBTTBBT

Câu 8: TTBBTTB

Âm là tiếng động phát ra khi đọc một nguyên âm. Thanh là độ cao thấp của âm. Mỗi âm trong tiếng Việt có 6 bực độ quy định bởi 6 dấu: 2 thanh BẰNG gồm trầm (dấu huyền) và phù (không dấu), bốn thanh TRẮC gồm thượng (dấu sắc, dấu ngã), và khứ hay nhập (dấu hỏi, dấu nặng).

Trong một câu thơ, tất cả những chữ cùng một thanh nên thay đổi bực độ.

Trong bài thất ngôn, chữ thứ 3 các câu chẵn và chữ thứ 5 các câu lẻ, đáng là bằng mà đổi ra trắc gọi là khổ độc (nghĩa là khó đọc). Trong 1 câu thơ, chữ nào đáng đặt tiếng bằng mà lại đặt tiếng trắc, hay đáng đặt tiếng trắc mà lại đặt tiếng bằng thì gọi là thất luật.

4. Niêm: nghĩa là dán cho dính lại. Phép niêm trong thơ là quy tắc sắp xếp các câu thơ trong bài dính lại với nhau về âm điệu, hay nói một cách khác NIÊM là sự liên lạc về âm luật của 2 câu thơ với nhau. Trong bài Ðường Luật, hai câu 1 và 8, 2 và 3, 4 và 5, 6 và 7 niêm với nhau.

Hai chữ thứ hai cùng một thanh đượỳc sắp xếp như sau đây hay ngược lại:

Chữ thứ 2 câu 1: trắc

Chữ thứ 2 câu 2: bằng

Chữ thứ 2 câu 3: bằng

Chữ thứ 2 câu 4: trắc

Chữ thứ 2 câu 5: trắc

Chữ thứ 2 câu 6: bằng

Chữ thứ 2 câu 7: bằng

Chữ thứ 2 câu 8: trắc

Nếu không theo đúng như thế gọi là thất niêm.

III. VÍ DỤ:

Qua Ðèo Ngang

Bước tới Ðèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá chen hoa

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông, rợ mấy nhà

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Dừng chân đứng lại trời non nước

Một cảnh tình riêng ta với ta.

Ðây là bài thơ Ðường luật thất ngôn bát cú luật trắc (chữ TỚI) vần bằng (chữ TÀ). Niêm luật vần đối đúng phép. Bố cục chia làm 4 phần rõ rệt:

Mạo: giới thiệu tổng quát cảnh Ðèo Ngang.

Thực: tả cảnh Ðèo Ngang.

Luận: nhớ nước thương nhà.

Kết: tình riêng tác giả.

Về vần: Năm chữ: tà, hoa, nhà gia, ta: vần với nhau rất chỉnh.

Về đối: Hai cặp thực và hai cặp luận đối nhau chan chát: chữ đối chữờ, ý đối ý.

Về luật: Luật trắc (ở chữ TỚI). Cả 8 câu thơ đều đúng luật.

Về niêm: Rất chặt chẽ: chữ TỚI niêm với chữ CẢNH cùng là trắc, chữ CÂY niêm với chữ KHOM cùng là bằng, chữ ÐÁC niêm với chữ NƯỚC cùng là trắc, chữ NHÀ niêm với chữ CHÂN cùng là bằng.

thieugia
27-03-2013, 05:01 PM
IV. KẾT LUẬN:

Trên đây chỉ là những quy tắc căn bản, khi làm thơ có nhiều thi gia đôi lúc không răm rắp tuân theo trăm phần trăm mà bài thơ vẫn hay, vì tác giả đặt cái thần/ hồn của bài thơ cao hơn luật tắc. Ví dụ như bài "Thu Vịnh" của Nguyễn Khuyến gieo vần "ao" nhưng câu 2 lại gieo vần "iu":

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu

Và bài "Tổng Vịnh Truyện Kiều" của Chu Mạnh Trinh gieo vần "ương" nhưng câu 4, câu 8 lại gieo vần "ang" là "chàng" và "vàng":

Cuốn ngỏ rèm xuân trải mấy sương

Sắc tài chi lắm để làm gương

Công cha bao quản liều thân thiếp

Sự nước xui nên phụ với chàng

... Ðem bắt đồng cân đáng mấy vàng.

Chữ "chàng" tuy gieo không chính vận, nhưng khi đọc lên... nó phát ra một âm thanh nghe não nề, trầm buồn, vang dội trong tâm hồn ta.

Bài "Thu Ðiếu" của Nguyễn Khuyến về bố cục, tác giả say mê "tả cảnh" suốt cả 8 câu; còn về vần thì trong 5 chữ : "veo, teo, vèo, teo, bèo", đã có đến 2 chữ "teo" trùng nhau vốn là điều cấm kỵ trong 1 bài thơ luật, nhưng ở đây cụ Tam Nguyên Yên Ðỗ vẫn mạnh dạn sử dụng, vì Cụ thấy 2 từ ngữ ấy (tẻo teo, vắng teo) diễn đạt được tình cảm của Cụ. Ðiều này cho thấy Cụ là một nhà Nho phóng khoáng có bản lĩnh trong sáng tạo. Và bài Thu Ðiếu xưa nay vẫn được nhiều người công nhận là một trong những bài thơ tả cảnh mùa Thu hay nhất trong thơ ca Việt Nam.

Cũng chính vì luật tắc quá gò bó khó khăn của nó mà giới Nho sĩ Việt Nam đã bị kiềm hãm trong suốt một nghìn năm, chẳng để lại cho hậu thế được bao nhiêu bài thơ hay so với thể thơ mới. Thời tiền chiến xảy ra một trận bút chiến vang dội cả ba miền giữa thơ mới và thơ cũ, cuối cùng thơ cũ đại bại nhường thi đàn lại cho thơ mới thống trị đến ngày nay. Ngay nhà thơ Quách Tấn chuyên làm Thất ngôn bát cú với tác phẩm "Mùa Cổ Ðiển", về sau cũng từ giã nhảy qua thể Thất ngôn tứ tuyệt với thi tập "Ðọng Bóng Chiều".

Ngày nay, thể Thất Ngôn Bát Cú được nhiều người làm sống lại bằng những hình thức cách tân noi theo bước chân tiền phong của các nhà thơ tiền bối có bản lĩnh sáng tạo như Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... mạnh dạn từ bỏ phong cách quý phái, đài các, cung đình: ưa xài điển tích, thích dùng Hán tự, vọng ngoại, vong bản, bắt chước, sáo mòn... để trở về với tình tự cội nguồn dân tộc Việt Nam đầy sinh động và sáng tạo của mình.

thieugia
27-03-2013, 08:48 PM
Cách Gieo Vần, Nguyên Tắc Đối, Luật Bằng Trắc và Cách Họa trong thơ Đường

Thơ Đường Luật còn có những tên gọi khác nhau như: Thơ Đường, Đường Thi, Thất Ngôn Bát Cú và Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật. Thơ Đường Luật có 2 loại: Tứ Tuyệt (tức mỗi câu có 7 chữ và mỗi bài có 4 câu) và Bát Cú (tức mỗi câu có 7 chữ và mỗi bài có 8 câu).

A- Thể Thất Ngôn Bát Cú

I- Cách Gieo Vần:
Thơ Đường Luật có luật lệ nhất định của nó, bạn không thể biến chế một cách khác được. Cách gieo vần như sau:
- Suốt bài thơ chỉ gieo theo một vần mà thôi. Ví dụ: Vần ơi thì đi với ơi, vần tâm thì đi với tâm hoặc tầm.
- Trong bài thơ có 5 chữ vần được gieo ở cuối câu đầu (câu số 1) và ở cuối các câu chẵn (2, 4, 6 và 8). Ngoài việc các chữ cuối của câu 1,2,4,6,8 phải cùng một vần ra, cả 5 chữ mang vần đó phải khác nhau, trừ khi cùng chữ nhưng khác nghĩa (Ví dụ: dặm trường và mái trường or trái mơ và giấc mơ…)- Gieo vần thì phải hiệp vận (tức cho đúng vận của nó). Ví dụ: hương, thương, trường... Nếu gieo vần thưa với thây thì bị lạc vận. Còn nếu gieo vần không hiệp với nhau thì gọi là cưỡng vận hay ép vận, chẳng hạn như: in với tiên.

II- Nguyên Tắc Đối:
Các câu đối với nhau phải thật chỉnh, cả về ý, tình, và thể loại từ ngữ, v.v... Thể loại từ ngữ tức tính từ phải đối với tính từ, danh từ phải đối với danh từ, động từ phải đối với động từ, v.v...
Trong bài thơ có 4 phần: Đề (gồm có Phá đề và Thừa đề ) Thực hoặc Trạng, Luận, và Kết.

1. Đề gồm có hai phần:
- Phá đề (câu thứ 1):
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà,
- Thừa đề (câu thứ 2):
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.

2. Thực hoặc trạng (câu thứ 3 và câu thứ 4): Hai câu này phải đối với nhau.


Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.

Ghi chú: Lom khom đối với lác đác (trạng tự ) và bằng đối với trắc. Tiều đối với chợ (danh từ ) và bằng đối với trắc. Chú đối với nhà (danh từ ) và trắc đối với bằng.

3. Luận (câu thứ 5 và câu thứ 6): Luận có nghĩa là luận bàn. Hai câu này bàn bạc
thêm về nội dung của bài thơ, về phong cảnh hay về tình cảm. Hai câu này phải đối với nhau.


Nhớ nước, đau lòng con quốc quốc
Thương nhà, mỏi miệng cái gia gia

Ghi chú: Nhớ đối với thương (động từ ) và trắc đối với bằng. Nước đối với nhà (danh từ ) và trắc đối với bằng. Đau lòng đối với mỏi miệng (trạng từ ) và bằng đối với trắc. Con quốc quốc đối với cái gia gia (danh từ ) và trắc đối với bằng.

4. Kết (câu thứ 7 và câu thứ 8): Hai câu kết không nhất thiết phải đối nhau, nhưng phải giữ luật bằng trắc.


Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta


(Qua Đèo Ngang—Bà Huyện Thanh Quan)

Ghi chú: Dừng chân là vần bằng đối với một mảnh là vần trắc; đứng lại là vần trắc đối với tình riêng là vần bằng; nước là vần trắc đối với ta là vần bằng.

III- Luật Bằng Trắc:
Luật Bằng Trắc gồm có Thanh, Luật, và Niêm.

1. Thanh-Gồm có Thanh Bằng và Thanh Trắc.

a) Thanh Bằng-là những tiếng hay chữ không có dấu (như: minh, lan, thanh, trinh...) và những tiếng hay chữ có dấu huyền (vi’ dụ như: mà, hoàng, thành, trình...)

Thanh trắc-Là những tiếng hay chữ có dấu sắc (') dấu hỏi (?) dấu ngã (~) và dấu nặng (.). Ví dụ: Nhớ, tưởng, lữ, vọng …

2. Luật-Thơ bát cú làm theo hai luật: Luật Bằng và Luật Trắc.

a) Luật Bằng: Chữ thứ hai ở câu đầu thuộc vần Bằng. Ví dụ:

Vu vơ dạo bước ngắm trời xinh

Luật Bằng Vần Bằng-Cách dùng mẫu tự và viết tắt như sau: B = Bằng, T = Trắc và V = Vần. Luật Bằng Vần Bằng như sau:

1. B B T T T B B (V)
2. T T B B T T B (V)
3. T T B B B T T
4. B B T T T B B (V)
5. B B T T B B T
6. T T B B T T B (V)
7. T T B B B T T
8. B B T T T B B (V)

Ví dụ:


Mời cô đến với góc vườn thơ
Khánh tiếng lung lay gót nhẹ chờ
Thi vận mực tươi hoa khẽ hé
Hoạ âm giấy liễng nhạc đường tơ
Nghe mưa tí tách buông màn khói
Thử gió vi vu thoảng giấc mơ
Một cách gieo hồn đùa lãng tử
Bài này chớ để ngó chơ vơ

(Nhã Uyên)

Luật Trắc: Chữ thứ hai ở câu đầu thuộc vần Trắc. Ví dụ:


Luyến nhớ trời quê buổi nắng vàng

Luật Trắc Vần Bằng-Luật Trắc Vần Bằng như sau:

1.T T B B T T B (V)
2.B B T T T B B (V)
3.B B T T B B T
4.T T B B T T B (V)
5.T T B B B T T
6.B B T T T B B (V)
7.B B T T B B T
8.T T B B T T B (V)

Ví dụ:


Văng VẲNG tai NGHE tiếng KHÓC gì?
Thương CHỒNG nên KHÓC tỉ TÌ tị
Ngọt BÙI, thiếp NHỚ mùi CAM thảo,
Cay ĐẮNG, chàng ƠI, vị QUẾ chị
Thạch NHŨ, trần BÌ, sao ĐỂ lại,
Quy THÂN, liên NHỤC, tẩm MANG đị
Dao CẦU, thiếp BIẾT trao AI nhỉ?
Sinh KÝ, chàng ƠI, tử TẮC quỵ


(Bà Lang Khóc Chồng—Hồ Xuân Hương)

Chú Thích: Những chữ CAPITALIZED (chữ thứ 2, 4 và 6) đều phải theo đúng luật, còn những chữ khác (trừ chữ ở cuối câu) có thể không cần phải theo luật. Mẹo để nhớ:

Nhất (chữ thứ 1), tam (chữ thứ 3), ngũ (chữ thứ 5) bất luận
Nhị (chữ thứ 2), tứ (chữ thứ 4), lục (chữ thứ 6) phân minh

Nghĩa là chữ thứ nhất, thứ ba và thứ năm không kể (bất luận), tức không nhất thiết phải theo đúng luật; còn chữ thứ hai, thứ tư và thứ sáu thì bắt buộc phải theo luật (phân minh). Nếu không theo luật thì gọi là thất luật.

3. Niêm-Những chữ phải đi cặp với nhau và dính với nhau

Ví du: Luật Bằng

Câu 1 niêm với câu 8
1.B B T T T B B (V)
8.B B T T T B B (V)

Câu 2 niêm với câu 3
2.T T B B T T B (V)
3.TT B B B T T

Câu 4 niêm với câu 5
4.B B T T T B B (V)
5.B B T T B B T

Câu 6 niêm với câu 7
6.T T B B T T B (V)
7.T T B B B T T


Ví dụ: Luật Trắc

Câu 1 niêm với câu 8
1. T T B B T T B (V)
8. T T B B T T B (V)

Câu 2 niêm với câu 3
2. B B T T T B B (V)
3. B B T T B B T

Câu 4 niêm với câu 5
4. T T B B T T B (V)
5. T T B B B T T

Câu 6 niêm với câu 7
6. B B T T T B B (V)
7. B B T T B B T


Cũng có trường hợp nhà thơ làm sai luật, thay vì đang ở Luật Bằng thì lại đổi sang Luật Trắc. Vì Niêm không đi với nhau nên gọi là Thất Niêm.
Ví dụ: Dùng bài thơ Cảnh Làm Lẽ (Lấy Chồng Chung) của Hồ Xuân Hương (đúng niêm luật) để đổi sang thất niêm (xem chữ thứ 2 CAPITALIZED):


Kẻ ĐẮP chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém CHA cái kiếp lấy chồng chung!
Năm THÌ mười họa, nên chăng chớ,
Một THÁNG đôi lần, có cũng không...
Cố ĐẤM ăn xôi, xôi lại hỏng,
Cầm BẰNG làm mướn, mướn không công.
Thân NÀY ví biết dường này nhỉ,
Thà TRƯỚC thôi đành ở vậy xong.

Đổi thành thất niêm:

Kẻ ĐẮP chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém CHA cái kiếp lấy chồng chung!
Cố ĐẤM ăn xôi, xôi lại hỏng *** (thất niêm) ***
Cầm BẰNG làm mướn, mướn không công.
Năm THÌ mười họa, nên chăng chớ,
Một THÁNG đôi lần, có cũng không...
Thân NÀY ví biết dường này nhỉ,
Thà TRƯỚC thôi đành ở vậy xong.

Chú ý: Dù chỉ đặt sai có một câu (câu thứ 3) nhưng bị thất niêm toàn bài thơ. Thế mới biết luật thơ Đường khắt khe biết dường nào!

Khi làm thơ Đường Luật thì phải giữ cho đúng niêm luật. Nếu không, dù bài thơ của bạn có nội dung hay mấy đi nữa thì cũng không thể chấp nhận được.

Như đã nêu ra ở trên là các câu đối với nhau phải thật chỉnh. Có điều là không bắt buộc phải từng chữ một đối nhau mà có thể đối theo cụm từ. Nếu 3 chữ tạo thành nhóm danh từ (ở câu 3 chẳn hạng) thì ở câu 4 cũng dùng 3 chữ cùng nhóm để đối lại

Ví dụ


Ngày vương mãi nhớ hương tình cũ
Tháng quyện hoài mong bóng dáng xưa


(Trích "Xóm Tịnh Chiều Luyến Nhớ"—Vân Hạc)

Ngày (danh từ, bằng) đối với tha’ng (danh từ, trắc)
vương (động từ, bằng) đối với quyện (động từ, trắc)
mãi (phó từ, trắc) đối với hoài (phó từ, bằng)
nhớ (động từ, trắc) đối với mong (động từ, bằng).
hương tình cũ (cụm danh từ) đối với bóng dáng xưa (cụm danh từ)

thieugia
27-03-2013, 09:06 PM
B.Thơ Tuyệt Cú

Tuyệt cú theo nghĩa đen là ngắt câụ Là một thể thơ bốn câu (còn gọi là tứ tuyệt), có thể là cổ phong hoặc thơ luật, nhưng ý tứ, ý nghĩa phải trọn vẹn, sâu sắc. Cũng phải có mở có kết, có thể hiện nội dung chủ đề mình định nói

Ví dụ:


Chim buồn lẻ bạn chốn thâm sơn
Cánh ngã chao nghiêng ngắm nguyệt thường
Én lạc cô phòng thương nắng hạ
Diều đây lẻ phận nhớ thu đơn

(Nguyễn Duy)

Lối làm thơ tuyệt cú có thể tuân theo luật bốn câu đầu hoặc bốn câu cuối của ngũ ngôn hoặc thất ngôn. Ở thể cổ phong, thơ tuyệt cú càng rộng rãi hơn, các câu thơ không cần đối, không phụ thuộc luật bằng trắc, miễn là ý tứ sâu sắc, lời đẹp, giầu âm điệu ...


Phong Kiều Dạ Bạc


Tác giả: Trương Kế


Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhminhoa/phong%20kiu%202.jpg
Phong Kiều Dạ Bạc

Bản dịch của Tản Đà


Đêm thuyền đậu bến Phong Kiều


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhminhoa/phong%20kiu.jpg
Trăng tà, chiếc quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

IV-Cách Họa Đường Thi:

Cao nhất trong Đường Thi là họa thơ với người khác. Khi họa một bài Đường Thi, người họa phải dùng lại các từ mang vần (chữ cuối của câu 1,2,4,6,8) của bài thơ muốn họa (gọi là bài XƯỚNG) và diễn tả theo ý thơ của mình. Bài họa nằm trong 3 loại tiêu biểu: Hoạ Vần, Họa Vần Đối Luật và Họa Nguyên Vận.

1) Họa Vần: Dĩ nhiên bài HỌA phải dùng lại vần của bài XƯỚNG, nhưng luật có thể thay đổi và ý nghĩa của bài Họa hoàn toàn khác với bài XƯỚNG.

Ví dụ như trong trường hợp VH dùng vần bài “Nhớ Nhà” của Bà HTQ để làm bài “Cảnh Vật Ngày Xuân”

Nhớ Nhà (Bà HTQ—Xướng)

Vàng tỏa non tây, bóng ác tà
Ðầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa
Ngàn mai lác đác, chim về tổ
Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà
Còi mục thét trăng miền khoáng dã
Chài ngư tung gió bãi bình sa
Lòng quê một bước càng ngao ngán
Mấy kẻ tình chung có thấu là

Cảnh Vật Ngày Xuân (Vân Hạc—Họa vần)

Lụa thắm tung bay phất phới tà
Vườn hồng rực rỡ bướm vờn hoa
Xanh xanh khóm trúc xinh bờ dậu
Trắng muốt cành lê đẹp góc nhà
Trước ngõ mai đào chờ nắng xuống
Bên thềm cúc lựu đón sương sa
Hương trời sắc nước nên thơ quá
Cảnh vật ngày Xuân quả thật là…


2) Họa Vần Đối Luật: Như tên gọi, bài HỌA dùng luật trái với bài XƯỚNG. Nếu bài Xướng gieo theo Luật Bằng thì bài Họa đi theo Luật Trắc và ngược lại.

Ví dụ:

Xuân Hứng (Hàn Mặc Tử—Luật Bằng)

Non sông ngàn dặm ngắm càng xinh
Ừ tết năm nay thật hữu tình
Pháo nổ nổ tan luồng thất nghiệp
Xuân về về ghẹo khách ba sinh
Hoa tươi sánh với thiên kiều gái
Cảnh đẹp dường như thủy mặc tranh
Cao hứng đã toan cầm bút vịnh
Đào nguyên đâu lại thoảng qua mành

Xuân Mộng (Họa by Vân Hạc—Luật Trắc)

Cảnh vật khoe mình dưới nắng xinh
Kià Xuân đã đến đượm hương tình
Tưng bừng pháo nổ mừng hồi phục
Rộn rã lời chào chúc tái sinh
Vạn bướm hòa màu tô mộng cảnh
Ngàn hoa trải sắc vẽ mơ tranh
Bên song thiếu nữ cười duyên dáng
Cứ ngỡ bồng lai đứng tựa mành

3) Hoạ Nguyên Vận: Ngoài việc giữ cùng luật, bài họa phải có chủ đề và ý nghĩa giống như bài Xướng.

Ví dụ:

Trời Quê Luyến Nhớ (Xướng by Vân Hạc)

Luyến nhớ trời quê buổi nắng vàng
Đàn em hớn hở hát reo vang
Bờ xa thấp thoáng đò đầy chuyến
Bến cũ xôn xao chợ lắm hàng
Bát ngát nương dâu dài cuối xóm
Bao la ruộng lúa ngập thôn trang
Tha phương vọng mãi mùa Xuân trước
Viễn xứ miên man nỗi nhớ làng

NHỚ QUÊ XƯA

Đàn bướm vờn hoa dưới nắng vàng
Hè về phượng nở, giọng ve vang
Cành cây chim chóc gù xây tổ
Bến chợ thuyền ghe bốc dở hàng
Chán cảnh bon chen rời phố thị
Vui đời mộc mạc đến thôn trang
Quê người vẫn nhớ về quê cũ
Nhớ mái nhà xưa nhớ xóm làng


CÁC THỂ LOẠI TIÊU BIỂU TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT

Ngoài việc các câu 3,4 and 5,6 phải đối, thời bấy giờ các nhà thơ còn đưa ra các thể loại đặc thù, được coi như là những "xảo thuật" để chứng tỏ người viết giỏi về từ ngữ và tạo thêm sự gay cấn cho người họa . Dưới đây là một vài thể loại tiểu biểu thường thấy trong thơ Đường Luật .

1) Thủ Nhất Thanh: Là thể thơ trong đó từ đứng đầu các câu đều giống nhau.

Ví dụ:

Mừng đón xuân về, muôn sắc hoa
Mừng xuân,xuân mới, mới thêm ra
Mừng nghe nhựa sống, như còn trẻ
Mừng thấy đời tươi, chửa muốn già
Mừng khỏe đôi chân, đi đứng vững
Mừng tinh cặp mắt ngắm nhìn xa
Mừng nhau tuổi Thọ tăng tăng mãi
Mừng được trường xuân hưởng thái hòa.

2) Thủ Vĩ Ngâm: Là thể thơ trong đó câu đầu (thủ) và câu cuối (vĩ) giống nhau...

Ví dụ:
Sông Hương da diết một chiều xưa
Mới đó mà nay đã mấy mùa
Nỗi nhớ xôn xao vờn gió thoảng
Niềm thương rạo rực quyện mây thưa
Chiều tà bóng ngả phai phai nắng
Đêm vắng trăng mờ lất phất mưa
Núi Ngự trông xa lầu vọng nguyệt
Sông Hương da diết một chiều xưa
(Bến Tương Tư—Gia Phong)

3) Vĩ Tam Thanh: Là thể thơ trong đó ba từ cuối trong mỗi câu có cùng cách phát âm.

Ví dụ:
Ta nghe gà gáy tẻ tè te
Bóng ác vừa lên hé hẻ hè
Cây một chồi cao von vót vót
Hoa năm sắc nở lỏe lòe loe
Chim tình bè lứa kia kìa kỉa
Ong nghĩa vua tôi nhé nhẻ nhè
Danh lợi mặc người ti tí tỉ
Ngủ trưa chửa dậy khỏe khòe khoe
(Ngẫu Hứng—Vô Danh)

4) Tiệt Hạ: Là thể thơ câu nào cũng bỏ lửng như bị ngắt bớt ở cuối câu nhưng ý nghĩa rõ rệt, người đọc có thể hiểu được..

Ví dụ:
Thác bức rèm châu chợt thấy mà…!
Chẳng hay người ngọc có hay đà …!
Nét thu dợn sóng hình như thể …
Cung nguyệt quang mây nhác ngỡ là …
Khuôn khổ ra chiều người ở chốn …
Nết na xem phải thói con nhà …
Dở dang nhắn gửi xin thời hãy …
Tình ngắn tình dài chút nữa ta …

5) Song Điệp: Là thể thơ mỗi câu đều có cặp điệp từ ở đầu hoặc cuối câu..

Ví dụ:
Vất vất vơ vơ, cũng nực cười
Căm căm cúi cúi có hơn ai
Nay còn chị chị anh anh đó
Mai đã ông ông mụ mụ rồi
Có có không không, lo hết kiếp
Khôn khôn dại dại, chết xong đời
Chi bằng láo láo lơ lơ vậy
Ngủ ngủ ăn ăn nói chuyện chơi
(Chuyện Đời –Nguyễn Công Trứ)

6) Thuận nghịch: Là thể thơ khi đọc xuôi hay đọc ngược đều có ý nghĩa và hợp vận.
Ví dụ:

Đọc xuôi:
Xa cách quê làng lại ghé thăm
Xát xơ vàng úa cỏ nghiêng nằm
Nhà hiên mái dột Bìm giăng kín
Ngỏ trước thềm loang Dậu phủ dăm
Tha thướt bóng Dừa hàng nối thẳng
Ngã nghiêng cành Trúc dãy liền tâm
Tà chiều quyện khói mờ thôn xóm
Xa vọng khoan hò ai hát ngâm …

Đọc ngược từ dưới trở lên:
Ngâm hát ai hò khoan vọng xa
Xóm thôn mờ khói quyện chiều tà
Tâm liền dãy Trúc cành nghiêng ngã
Thẳng nối hàng Dừa bóng thươ’t tha
Dăm phủ Dậu loang thềm trước ngỏ
Ki’n giăng Bìm dột mái hiên nhà
Nằm nghiêng cỏ úa vàng xơ xác
Thăm ghé lại làng quê cách xa …

***Sau đó bỏ hai chữ đầu mỗi câu đọc xuôi và bỏ hai chữ cuối mỗi câu đọc ngược sẽ trở thành thơ Ngũ Ngôn. Nếu tiếp tục bỏ bớt 1 hoặc 2 chữ đầu or cuối nữa, sẽ có những bài Tứ Ngôn hay Tam Ngôn Bát Cú. Nói tóm lại, một bài thơ làm theo thể Thuận Nghịch, nếu được chọn từ một cách khéo léo, sẽ đọc thành 8 bài Bát Cú! Đó là điểm độc đáo của Thể Thuận Nghịch!***

7) Liên Hoàn: Là thể thơ gồm nhiều bài Bát Cú liên kết với nhau, trong đó phần kết thúc của bài trên được lấy làm phần mở đầu cho bài kế tiếp.
Ví dụ:

Bao năm cách biệt Huế yêu ơi
Viễn xứ chiều buông nhạt tiếng cười
Vọng cảnh thương tình ngày lẻ bạn
Nhìn người luyến nghĩa buổi chung đôi
Sông Hương liễu rũ ôm tình nước
Núi Ngự thông reo trãi mộng đời
Cố quận sương mờ giăng chắn lối
Bùi ngùi lữ khách đếm sầu rơi

Sầu rơi cảnh vật nhuộm cô liêu
Rặng núi xa xa phủ ráng chiều
Ẩn hiện trời cao mây ảm đạm
Hoà lòng biển vắng sóng đìu hiu
Âm ba cuốc vọng lời kinh khổ
Réo rắt quyên ca điệu sáo diều
Đất lạ phong trần đời lữ thứ
Phiêu bồng vẫn giữ trọn lời yêu

Lời yêu thuở ấy tự tình trao
Ước hẹn tơ duyên thắm chỉ đào
Cứ tưởng men nồng hoà nhật nguyệt
Nào ngờ rượu đắng tách trăng sao
Cung đàn lổi nhịp dòng châu ứa
Tiếng hát buông lơi suối lệ trào
Mấy độ thu tàn mơ ảo giác
Tâm đầu ý hợp mộng hư hao

Hư hao một cõi vẫn hoài trông
Cách biệt sơn khê luống nghẹn lòng
Khắc khoãi người chờ nơi chốn ấy
Bàng hoàng kẻ đợi giữa tầng không
Cô phòng héo hắt thân nhi nữ
Gối chiếc tàn phai phận má hồng
Một thuở xa người sang xứ lạ
Hồn hoang chất chứa những ngày đông.

(Vọng Cảnh Thương Tình Liên Hoàn Khúc—Vân Hạc)

8) Lưỡng Đầu Xà Nghịch Thiệt: Là thể thơ trong đó hai chữ cuối câu là cách nói lái của hai chữ đầu câu hay ngược lại.

Ví dụ:


Cai mô chả thấy hỡ cô Mai
Hồi bút hôm qua, nay hút bồi
Niếu đổ tường che vang nổ điếu
Thôi liên, cù cứa, hẹn Thiên Lôi
Vái sơ ông Địa cho vơ sái
Ngồi ráp bàn tiên lại ngáp rồi
Tánh thích đi tìm bao tích thánh
Đồi thanh, cảnh phật cũng đành thôi.

thieugia
31-03-2013, 09:51 AM
KIẾN THỨC XÃ HỘI
http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Thanh_Ngu/fu%20t.jpg
Khổng Tử, triết gia vĩ đại của Trung Quốc người được hậu thế tôn xưng "Vạn thế sư biểu".

I. PHẠM TRÙ, KHÁI NIỆM & ĐỊNH NGHĨA

PHẠM TRÙ


Để suy nghĩ và trao đổi tư tưởng cho nhau con người thường phải sử dụng những khái niệm, chẳng hạn khái niệm "cái cây", "cái nhà", "thực vật", "động vật", "con người", v.v..
Khái niệm là hình thức của tư duy phản ánh những mặt, những thuộc tính cơ bản của một lớp những sự vật, hiện tượng nhất định của hiện thực khách quan. Khái niệm rộng nhất thì được gọi là phạm trù.
Vậy, phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định của hiện thực khách quan.
Do đối tượng nghiên cứu chi phối, mỗi bộ môn khoa học có một hệ thống phạm trù riêng của mình. Thí dụ, trong toán học có phạm trù "số", "hình", "điểm", "mặt phẳng", "hàm số",v.v.. Trong vật lý học có các phạm trù "khối lượng", "vận tốc", "gia tốc", "lực",v.v.. Trong kinh tế học có các phạm trù "hàng hoá", "giá trị", "giá cả", "tiền tệ", "lợi nhuận", v.v..
Các phạm trù trên đây chỉ phản ánh những mối liên hệ chung trên một lĩnh vực nhất định của hiện thực thuộc phạm vi nghiên cứu của môn khoa học chuyên ngành. Khác với điều đó, các phạm trù của phép biện chứng duy vật như "vật chất", "ý thức", "vận động", "đứng im", "mâu thuẫn", "số lượng", "chất lượng", "nguyên nhân", "kết quả", v.v.. là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của toàn bộ thế giới hiện thực, bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
Giữa phạm trù của triết học và phạm trù của các khoa học cụ thể có mối quan hệ biện chứng với nhau. Đó là quan hệ giữa cái chung và cái riêng.

KHÁI NIỆM
1. Khái niệm triết học
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí của con người trong thế giới ấy.
2. Thế giới quan & Nhân sinh quan
a. Thế giới quan:
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về vị trí của con người trong thế giới ây.
b. Nhân sinh quan
Là toàn bộ những quan niệm về cuộc sống của con người và loài người.
c. Nhận thức là gì?
Nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc của con người trên cơ sở thực tiễn*.


Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Theo quan điểm triết học Mác-Lênin: nhận thức được định nghĩa là quá trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.

Theo "Từ điển Bách khoa Việt Nam": nhận thức là quá trình biện chứng của sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể.
Theo quan điểm của phép tư duy biện chứng, hoạt động nhận thức của con người đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Con đường nhận thức đó được thực hiện qua các giai đoạn từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ hình thức bên ngoài đến bản chất bên trong, như sau:
Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động): là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy. Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau:
Cảm giác: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hoá những năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố ý thức. Lenin viết: "Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Nếu dừng lại ở cảm giác thì con người mới hiểu được thuộc tính cụ thể, riêng lẻ của sự vật. Điều đó chưa đủ; bởi vì, muốn hiểu biết bản chất của sự vật phải nắm được một cách tương đối trọn vẹn sự vật. Vì vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn".
Tri giác: hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật khi sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác là sự tổng hợp các cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn, phong phú hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng và không đặc trưng có tính trực quan của sự vật. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải phân biệt được đâu là thuộc tính đặc trưng, đâu là thuộc tính không đặc trưng và phải nhận thức sự vật ngay cả khi nó không còn trực tiếp tác động lên cơ quan cảm giác con người. Do vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn.
Biểu tượng: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh sự vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp vào các giác quan. Trong biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ có sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau của các giác quan và đã có sự tham gia của yếu tố phân tích, tổng hợp. Cho nên biểu tượng phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi trội của các sự vật.
Giai đoạn này có các đặc điểm:
Phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức.
Phản ánh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất và không bản chất. Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật.
Hạn chế của nó là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.
Nhận thức lý tính (hay còn gọi là tư duy trừu tượng): là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận.
Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật. Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển. Khái niệm có vai trò rất quan trọng trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở để hình thành các phán đoán và tư duy khoa học.
Phán đoán: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng. Thí dụ: "Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng" là một phán đoán vì có sự liên kết khái niệm "dân tộc Việt Nam" với khái niệm "anh hùng". Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia làm ba loại là phán đoán đơn nhất (ví dụ: đồng dẫn điện), phán đoán đặc thù (ví dụ: đồng là kim loại) và phán đoán phổ biến (ví dụ: mọi kim loại đều dẫn điện). Ở đây phán đoán phổ biến là hình thức thể hiện sự phản ánh bao quát rộng lớn nhất về đối tượng.
Nếu chỉ dừng lại ở phán đoán thì nhận thức chỉ mới biết được mối liên hệ giữa cái đơn nhất với cái phổ biến, chưa biết được giữa cái đơn nhất trong phán đoán này với cái đơn nhất trong phán đoán kia và chưa biết được mối quan hệ giữa cái đặc thù với cái đơn nhất và cái phổ biến. Chẳng hạn qua các phán đoán thí dụ nêu trên ta chưa thể biết ngoài đặc tính dẫn điện giống nhau thì giữa đồng với các kim loại khác còn có các thuộc tính giống nhau nào khác nữa. Để khắc phục hạn chế đó, nhận thức lý tính phải vươn lên hình thức nhận thức suy luận.
Suy luận: là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới. Thí dụ, nếu liên kết phán đoán "đồng dẫn điện" với phán đoán "đồng là kim loại" ta rút ra được tri thức mới "mọi kim loại đều dẫn điện". Tùy theo sự kết hợp phán đoán theo trật tự nào giữa phán đoán đơn nhất, đặc thù với phổ biến mà người ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch.
Ngoài suy luận, trực giác lý tính cũng có chức năng phát hiện ra tri thức mới một cách nhanh chóng và đúng đắn.
Giai đoạn này cũng có hai đặc điểm:
Là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng.
Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.
Nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Không có nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất thật sự của sự vật.
Nhận thức trở về thực tiễn, ở đây tri thức được kiểm nghiệm là đúng hay sai. Nói cách khác, thực tiễn có vai trò kiểm nghiệm tri thức đã nhận thức được. Do đó, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, là cơ sở động lực, mục đích của nhận thức. Mục đích cuối cùng của nhận thức không chỉ để giải thích thế giới mà để cải tạo thế giới. Do đó, sự nhận thức ở giai đoạn này có chức năng định hướng thực tiễn.

------------------------------------------------------------
* Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản không chỉ của lý luận nhận thức Macxít mà còn của toàn bộ triết học Mác - Lenin nói chung.

thieugia
31-03-2013, 05:29 PM
Theo phép biện chứng của Chủ nghĩa Mác:


Phạm trù: là một khái niệm rộng nhất phản ảnh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung cơ bản nhất của các sự kiện, hiện tượng thuộc một lĩnh vực hiện thực nhất định.
Phạm trù triết học: là những khái niệm chung nhất phản ảnh những mặt, thuộc tính, mối liên hệ cơ bản vầ phổ biến nhất, không phải một lĩnh vực hiện thực nào mà là toàn bộ của thế giới hiện thực (bao gồm tự nhiên, xã hội, tư duy).
Bản chất của phạm trù: Phạm trù được hình thành từ trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Nội dung của phạm trù: Nội dung của phạm trù là khách quan nhưng hình thức biểu hiện của phạm trù là chủ quan.
Khái niệm: Khái niệm là một hình thức của tư duy trừu tượng phản ánh những mối liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của một tập hợp các sự vật, các hiện tượng nào đó, chẳng hạn các khái niệm "cái nhà", "con người", "giai cấp"...
- Khái niệm là những vật liệu tạo thành ý thức, tư tưởng, khái niệm và những phương tiện để con người tích lũy thông tin, suy nghĩ và trao đổi tri thức với nhau.
- Khái niệm có tính chất khách quan bới chúng phản ánh những mối liên hệ, những thuộc tính khách quan của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.

D. Thực tiễn là gì:
Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản không chỉ của lý luận nhận thức Macxít mà còn của toàn bộ triết học Mác - Lenin nói chung. Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động của vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
- Thực tiễn là cái xác định một cách thực tế sự liên hệ giữa sự vật với những điều cần thiết đối với con người.
- Thực tiễn bao gồm nhiều yếu tố và nhiều dạng hoạt động, bất kỳ hoạt động thực tiễn nào cũng bao gồm những yếu tố nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện và kết quả. Các yếu tố đó có liên hệ với nhau, qui định lẫn nhau mà nếu thiếu chúng thì hoạt động thực tiễn không thể xảy ra được.
- Thực tiễn gồm những dạng cơ bản sau đây:
+ Hoạt động sản xuất vật chất.
+ Hoạt động chính trị - xã hội nhằm biến đổi các quan hệ xã hội, chế độ xã hội.
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học.

3. Vật chất và ý thức

a. Khái niệm Vật chất:
Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ảnh và tồn tại không không lệ thuộc vào cảm giác.

b. Khái niệm về Ý thức:
Ý thức là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần diễn ra trong óc người, phản ảnh thế giới vật chất ở bên ngoài được hình thành trong quá trình lao động và được diễn đạt nhờ phương tiện ngôn ngữ.

c. Nhận thức kinh nghiệm:
Nhận thức kinh nghiệm chủ yếu thu được từ quan sát và thí nghiệm, nó tạo thành tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm nảy sinh một cách trực tiếp từ thực tiễn, từ lao động sản xuất, đấu tranh xã hội hoặc thí nghiệm khoa học.
- Tri thức kinh nghiệm giới hạn ở lĩnh vực các sự kiện, mô tả, phân loại các dữ kiện thu nhận được từ quan sát và thí nghiệm.
- Tri thức kinh nghiệm đã mang tính trừu tượng và khái quát, xong mới là bước đầu và còn hạn chế.

d. Nhận thức lý luận:
Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận là tri thức khkái quát từ tri thức kinh nghiệm. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích tụ lại trong quá trình lịch sử".
- Lý luận được hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm nhưng lý lận không hình thành một cách tự phát từ kinh nghiệm và không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm.
- Lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nên nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính qui luật của các sự vật, hiện tượng khâchs quan.
- Lý luận thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, hệ thống hơn do đó, phạm vi ứng dụng của nó cũng phổ biến rộng hơn nhiều so với tri thức kinh nghiệm.

e. Phán đoán:
Phán đoán là hình thức của tư duy trừu tượng vận dụng các khái niệm để khẳng định hoặc phủ định một thuộc tính, một mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan.
Phán đoán là hình thức liên hệ giữa các khái niệm, phản ảnh mối liện hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong ý thức của con người. Tuy nhiên, phán đoán không phải là tổng số đơn giản của những khái niệm tạo thành mà là quá trình biện chứng trong đó các khái niệm có sự liên hệ và phu thuộc lẫn nhau.
Phán đoán được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ là các mệnh đề theo những qui tắc văn phạm nhất định.

f. Suy lý:
Là một hình thức của tư duy trừu tượng trong đó xuất phát từ một hoặc nhiều phán đoán làm tiền đề để rút ra phán đoán mới làm kết luận. Nói cách khác, suy lý là quá trình đi đến một phán đoán mới từ những phán đoán tiền đề.
VD:
- Mọi kim loại đều dẫn điện => sắt là kim loại => KL: sắt dẫn điện.

thieugia
05-04-2013, 03:29 PM
g. Chân lý:


Thiều gia giản giới: Chân lý ! Chân lý là gì ? Thế nào là chân lý ????. Trong cuộc sống thường ngày ta vẫn thường nghe mọi người nhắc đến "chân lý", bàn về "chân lý"... Thế nhưng, theo Thieugia được biết: với nhiều người nói thì nói thế thôi, hoặc giả thấy người ta nói "chân lý" thì mình cũng nói "chân ný" thế chứ... cũng đếch hiểu, đếch biết "chân ný" nó mô tê như thế nào !?.

Mà quả thật, để hiểu cho thật tường tận về chân lý đâu phải là chuyện... giản đơn. Vả lại, còn khối việc phải làm, khối cái phải nhớ và đáng nhớ chứ đâu có mỗi cái "chân ný" này đâu !? Nhớ "chân lý" đâu bằng nhớ đóng "lệ phí cầu đường", nhớ làm thủ tục sang "xe chính chủ", rồi thì nhớ đóng tiền nhà, nhớ lo tiền học, nhớ chuyện "nộp lương", nhớ tối về "ăn cơm" với vợ !...Thời buổi bây giờ, mấy người cần đến cái thứ "chân lý" ý ?! Mấy ông nhà giáo, vì cứ mãi rao giảng chân lý để đến nỗi con cái phải nghèo hèn; mấy nhà khoa học, vì mải mê với thứ "chân lý" thành thử bị cái lũ "lắm tiền" nó khinh...

Thuộc lòng "chân lý" đến trăm lần, cũng chẳng hữu ích. Và có đem "chân lý" ra giải bày... cũng không làm cho mấy tay tham quan sửa đổi, mấy đứa cướp laptop hay iPhone 5 động lòng thương.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhvui/anh_haihuoc/chn%20l%20.jpg
Chân lý (!?)

Đã chẳng ích gì vậy nhớ để làm gì ?! Thiển nghĩ, thôi thì nhớ để mỗi khi "Trà dư tửu hậu" cũng có cái để nhàn đàm chứ chẳng nhẽ lại cứ ngồi "giương mắt ếch" ... và đấy cũng chính là lý do để Thiều gia soạn cuốn từ điển này vì xét thấy ở "trong đó" chắc cũng có vô vàn điều được coi là CHÂN LÝ.

(Lời bàn của Võ sư Thiều Ngọc Sơn)
...


Định nghĩa về chân lý:
Chân lý là tri thức phù hợp vớp khách thể mà nó phản ánh và được thực tiễn kiểm nghiệm.
Chân lý là sản phẩm của quá trình con người nhận thức thế giới. Vì vậy, chân lý cũng được hình thành và phát triển từng bước phụ thuộc vào sự phát triển của sự vật khách quan, vào điều kiện lịch sử cụ thể của nhận thức, hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người.

Các tính chất của chân lý:
- Tính khách quan: Chân lý là nhận thức của con người nhưng nội dung của nó không phụ nthuộc vào con người và loài người
VD: "Quả đất có trước con người và loài người" - là chân lý khách quan.

Nội dung mà chân lý phản ánh thuộc về thế giới khách quan. Chân lý chỉ có ở con người nhưng nội dung của chân lý lại không lệ thuộc vào con người mà chỉ lệ thuộc vào sự vật khách quan được chân lý đó phản ánh.



http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhvui/anh_haihuoc/chn%20l%201.jpg
Chân lý phản ảnh một cách khách quan...

- Tính cụ thể của chân lý: Chân lý là cụ thể. Điều đó có nghĩa là, chân lý không có trừu tượng.
+ Chân lý đạt được trong quá trình nhận thức bao giờ cũng gắn với một lĩnh vực cụ thể của hiện thực và được phát triển trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể đó.
+ Chân lý là cụ thể vì đối tượng mà chân lý phản ánh bao giờ cũng tồn tại một cách cụ thể, trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể với những quan hệ cụ thể. Vì vậy, bất kỳ chân lý nào cũng phải gắn liền với điều kiện lịch sử cụ thể. Nếu thoát ly khỏi điều kiện lịch sử cụ thể thì cái vốn là chân lý sẽ không còn là chân lý nữa.

http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhvui/anh_haihuoc/ngoan.jpg
... tính cụ thể !?

- Tính tuyệt đối và tương đối của chân lý:
+ Tính tương đối: Là tri thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan nhưng chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện, cần phải được bổ xung, điều chỉnh trong quá trình phát triển tiếp theo của nhận thức. Chân lý tương đối phản ánh hiện thực khách quan bị giới hạn ở những mặt, những bộ phận nhất định và bị ức chế bởi điều kiện lịch sử.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhvui/anh_haihuoc/nht%20%20v%20nh.jpg
Tính Tuyệt đối đúng của ... chân ný !

+ Chân lý tuyệt đối:Là tri thức hoàn toàn đầy đủ, hoàn chỉnh về thế giới khách quan.

thieugia
08-04-2013, 11:20 AM
Chân lý nằm ở đâu khi mà...



http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/Tu_dien/tha%20ma%202.jpg
Những kẻ tu hành...

http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/Tu_dien/su-gia-sanh-dieu-2.jpg
... tưởng như sinh ra

http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/Tu_dien/nha%20su.jpg
... để hưởng thụ !?

http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/Tu_dien/b%20lo.jpg
Và bá tánh thời: lầm lũi cả một kiếp... nhân sinh.

thieugia
08-04-2013, 12:27 PM
h. Lý Tưởng là gì ?


http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/Tu_dien/l%20tng%20.png
Lý tưởng...



Lý (理): là danh từ dùng để chỉ những điều ngay lẽ phải (lý lẽ) những phẩm hạnh đạo đức truyền thống cao quí (đạo lý).

Tưởng (想) : là những ý niệm sự suy nghĩ, những âu lo toan tính diễn ra trong đầu óc con người.

Lý tưởng (理 想) : là cụm danh từ dùng để chỉ những ước mơ, nguyện vọng, những điều tốt đẹp trong cuộc sống mà mỗi người chúng ta cần hướng tới và nỗ lực phấn đấu hoặc cố gắng đạt được những ước mơ đó.

Cuộc sống trong mỗi con người vốn là một hành trình dài liên miên bất tận, hành trình phấn đấu, chinh phục những ước mơ hoặc những mục tiêu đã đặt ra. Từ khi sinh ra, lớn lên và ngay cả khi xuôi tay về với cõi vĩnh hằng, con người vẫn không nguôi “mong ước” (với ý nghĩa mang tính tích cực), dù biết rằng điều đó là điều viễn vông, không thể nào đạt được.

Hành trình đi đến lí tưởng, phấn đấu theo lí tưởng, cũng giống như một vận động viên điền kinh đang ra sức chinh phục chặng đường đua của mình. Và với ý chí sắt đá, với niềm tin chiến thắng mãnh liệt, anh ta quyết tâm lao về đích nhằm nhanh chóng kết thúc đường đua. Cuộc sống cũng là một chặng đua và nếu chặng đua ấy không có đích đến (dải băng rôn), không có hướng đi thì (địa điểm sẽ phải đến) chúng ta sẽ không biết đi đâu và về đâu. Nói như nhà văn Nga Lép Tôn-xtôi nói: “Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lý tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống”.

"Lý tưởng" dùng để diễn đạt cho tính chất, hay thuộc tính của những điều được cho là tốt đẹp. Là mục tiêu cao cả, sự hoàn thiện mà con người người luôn cố gắng phấn đấu để đạt tới. Do “lý tưởng” được hình thành bởi tư duy trừu tượng của con người, bởi óc tưởng tượng phong phú của con người nên có lúc “lý tưởng” lại trở thành chuyện hão huyền, thậm chí là “lệch chuẩn” (lòng tham, sự ham muốn, dục vọng thấp hèn… ) khiến cho “lý tưởng” trở thành những điều không có thực hoặc khó thể đạt được trong thực tế...


http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/Tu_dien/chuonngo.jpg
Đôi lúc "lý tưởng" lại trở nên hão huyền... lệch chuẩn !?.
Với ý nghĩa tích cực ta có thể hình dung “lý tưởng” chính là “kim chỉ Nam” có nhiệm vụ soi chiếu, dẫn đường cho mỗi người không lạc bước trên hành trình sống của mình; là những mục đích cao đẹp trong cuộc đời mà mỗi người cần xác định để phấn đấu để thực hiện; là nền móng để chúng ta xây dựng lên trên đó cuộc sống của chính mình...

thieugia
08-04-2013, 01:48 PM
lý tưởng...



http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/Tu_dien/biet%20thu.jpg
Lý tưởng
http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/Tu_dien/di%20-%20nhan%206.jpg
và những điều tưởng là có lý !!!!!!! ???????????

Khái niệm: Lí tưởng sống (lẽ sống) là cái đích của cuộc sống mà mỗi con người khát khao muốn đạt được.

Biểu hiện của lí tưởng sống
- luôn suy nghĩ và hành động không mệt mỏi
- luôn vươn tới sự hoàn thiện bản thân
- mong muốn cống hiến cho sự nghiệp chung

ý nghĩa của lí tưởng sống
- với bản thân: Tự hoàn thiện bản thân về mọi mặt.
- với xã hội: Góp phần thực hiện tốt những nhiệm vụ chung của xã hội. Và luôn được mọi người tôn trọng.[/COLOR]




Lý tưởng sống...

Sinh ra ở đời, ai trong chúng ta cũng khao khát được sống hạnh phúc, với lòng khao khát đó thúc giục chúng ta đi kiếm tìm hạnh phúc. Hơn thế nữa, tự đáy lòng của con người luôn ước ao có được một cuộc sống bình an, vui tươi, không lo âu buồn phiền, không đau khổ oán than, muốn an hưởng sự may lành hơn là bất hạnh, giàu sang hơn là nghèo nàn.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/Tu_dien/n%20kh.jpg
Ước mơ và...
http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tao_lao/do-an.jpg
và ????????????????????? !!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!
Mong ước
Để đạt được niềm khát vọng đó, người ta luôn tìm cho mình một lẽ sống cho cuộc đời, hay nói đúng hơn là một lý tưởng. Lý tưởng này sẽ hướng dẫn đời họ vượt qua mọi chông gai và can đảm chấp nhận mọi nghịch cảnh. Vì có một lý tưởng để theo đuổi, có một lẽ sống cho cuộc đời, là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của con người trên trần gian. Và phải chăng những người bất hạnh chính là những người không lý tưởng, sống không mục đích, và càng không biết mình sẽ đi về đâu?

Lý tưởng sống là gì?

Tôi cũng đã từng suy nghĩ điều gì là quan trọng nhất trong cuộc đời và tôi đã đi đến kết luận điều quan trọng nhất chính là triết lý sống của mỗi con người và tôi cũng đã nghe đâu đấy câu nói như thế này:
“ Bạn sẽ không làm được gì nếu bạn không có mục đích, bạn cũng không làm được gì vĩ đại nếu mục đích của bạn tầm thường". triết lý sống hay mục đích sống cũng chính là lý tưởng sống của mỗi con người.

Bạn có bao giờ tự hỏi bạn tồn tài trên cuộc đời vì lý do gì không? Một câu hỏi lẽ ra rất dễ nhưng nó làm cho bạn phải bắt đầu ngồi lại suy nghĩ về bản thân mình. Vậy sứ mạng của cuộc đời bạn là gì...? Đây là băn khoăn của không ít những bạn trẻ thời nay. Nhiều người cho rằng đời sống quá bận rộn, làm gì có thì giờ để đặt vấn đề niềm tin hay lý tưởng sống. Cũng có bạn cho rằng cứ sống tự nhiên, đến đâu hay đó, làm gì phải bận tâm đến niềm tin hay lý tưởng sống. Những người nói như vậy thật ra là cũng đã có niềm tin hay lý tưởng sống cho chính mình. Niềm tin hay lý tưởng đó là sống đến đâu hay đó, không cần suy nghĩ hay đặt vấn đề.

Lý tưởng sống từ những điều bình dị
Nhiều người từng nghe câu nói trong bài hát khá nổi tiếng của trịnh công sơn:


"sống ở đời sống cần có một tấm lòng,
để làm gì em biết không?
để gió cuốn đi, để gió cuốn đi...."

Một thời gian dài tôi mới nhận ra rằng ý nghĩa của câu này là "hãy mở rộng tấm lòng của bạn với cuộc sống này, với mọi người xung quanh bạn và đừng mong đợi bạn sẽ nhận lại được gì... Hãy san sẻ tấm lòng để cuộc sống này đẹp hơn và đừng nghĩ rằng những cái gì mình đã cho đi là lớn lao mà nó chỉ là những cái gì nhỏ nhoi nhất nhẹ nhàng... Chỉ để gió cuốn đi...".

Phải sống có lý tưởng! Bạn có thể ra đi từ nhiều phía, theo những con đường khác nhau, nhưng cuối cùng mỗi người phải lựa chọn cho mình mục đích của cuộc sống. Ta sống cho ta, cho những người thân, bạn bè và cho mọi người. Vì vậy, chỉ có hạnh phúc khi "mình vì mọi người và mọi người phấn đấu vì hạnh phúc của từng người". Rõ ràng lý tưởng là mục đích sống, là ý nghĩa của mỗi cuộc đời. Lý tưởng quyết định sự thành công trong cuộc sống. Lý tưởng dẫn dắt sự nghiệp, tăng thêm sức mạnh cho mọi người để đạt đến thành công trong sự nghiệp. Lý tưởng cho ta sức mạnh vượt qua khó khăn và thử thách trong cuộc sống.

Lý tưởng của ta không cần lớn lao dù chỉ là một chiếc lá, nhưng chúng ta cũng cần có cho mình một lý tưởng bình dị để vươn lên. Cuối cùng xin kết thúc bằng lời của chiến sĩ cách mạng, một người cộng sản trẻ tuổi, một nhà văn, một anh hùng thời vệ quốc xô viết vĩ đại, paven copsagine trong tác phẩm thép đã tôi thế đấy (tác giả nikolai ostrovsky): "cái quí nhất của con người là cuộc sống. đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng sống hoài sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và đớn hèn của mình, để đến khi nhắm mắt xuôi tay, mà có thể nói rằng: Tất cả đời mình ta đã cống hiến cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người…

Thieugia : Sưu tầm
Nguồn: Internet.

thieugia
11-04-2013, 03:55 PM
Lại nói về ước mơ, lại bàn về Lý tưởng...


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tao_lao/buacomdambac.jpg
Lại nói về ước mơ...

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tao_lao/ngho%202.jpg
Lại bàn về lý tưởng...

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tao_lao/bng%20gi%20nhu.jpg
Giá của ước mơ...

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tao_lao/hunh%20thanh%20thng.gif
Vì say "lý tưởng" !?... nên "quan quậy, quan say"...*
------------------------------------
* Hình trên là "quan" bên tư pháp Huỳnh Thanh Thắng (tỉnh Hậu Giang) say quậy, chống người thi hành công vụ.

thieugia
11-04-2013, 04:30 PM
Tiếp tục nói về ước mơ, lại bàn về Lý tưởng...

a. Nói về ước mơ


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tao_lao/ngho%20.jpg
Đố ai biết bà lão này "Ước mơ gì...?...".

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tao_lao/ngheo%20nan.jpg
Và mơ ước của cụ bà này là chi ?... ??... !?!?!?.

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tao_lao/tr%20ngho%202jpg.jpg
Đang mò kiếm tương lai...

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tao_lao/treemngheo.jpg
Và mơ ước của "tương lai đất nước" này là gì ?

thieugia
11-04-2013, 04:44 PM
b. Lại bàn về lý tưởng...


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tao_lao/b%20lo%202.gif
Nghĩ suy về Lý Tưởng chăng !?

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tao_lao/tr%20em%20ngho%203.jpg
Cùng: đi tắt đón đầu, chụp bắt lý tưởng.. ?

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tao_lao/maii-me-ben-mo-luoi.jpg
Quăng kiếm tương lai ?

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tao_lao/thnh%20son5.jpg
Cuối cùng... cũng chỉ là "Dân dĩ thực vi tiên" !?.

------------------------------------------------------------------------------------------
*** Lý tưởng: Theo quan điểm riêng cá nhân Shaolaojia thì Lý tưởng là một cái gì đó, "cái gì đó" tuyệt đẹp. Và để đạt được "cái gì tuyệt đẹp" đó, người ta cần phải nỗ lực, phải gắng sức và thậm chí có những lúc để đạt được "cái gì đó" đó, người ta còn phải biết và kiên trì thực hành nhẫn nhục. Bởi thế, cho nên, và như vậy...

thieugia
11-04-2013, 08:56 PM
Lại nói về "ước mơ", lại bàn về "lý tưởng" !?.

*** Lý tưởng: Theo quan điểm riêng cá nhân Shaolaojia thì Lý tưởng là một cái gì đó, "cái gì đó" tuyệt đẹp. Và để đạt được "cái gì tuyệt đẹp" đó, người ta cần phải nỗ lực, phải gắng sức và thậm chí có những lúc để đạt được "cái gì đó" đó, người ta còn phải biết và kiên trì thực hành nhẫn nhục. Bởi thế, cho nên, và như vậy...


Lý tưởng là một khái niệm trừu tượng !:


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhvui/lolo1.jpg
Mà ở đó (hoặc trong đó)...

http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhvui/anh_haihuoc/bo%20ph.jpg
Kẻ trông xuống ký...

http://img.tintuc.vietgiaitri.com/2012/12/26/hai-hung-voi-bo-xuong-di-dong-cua-sieu-mau-gay-nhat-the-gioi-9412bb.jpg
Thằng...

http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhvui/anh_haihuoc/xuong.jpg
... cầu lên cân !?

thieugia
11-04-2013, 09:22 PM
*** Lý tưởng: Theo quan điểm riêng cá nhân Shaolaojia thì Lý tưởng là một cái gì đó, "cái gì đó" tuyệt đẹp. Và để đạt được "cái gì tuyệt đẹp" đó, người ta cần phải nỗ lực, phải gắng sức và thậm chí có những lúc để đạt được "cái gì đó" đó, người ta còn phải biết và kiên trì thực hành nhẫn nhục. Bởi thế, cho nên, và như vậy...
Là ước ao, là khát vọng...

http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhvui/anh_haihuoc/t%20nhn.jpg
Là sự khao khát

http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhvui/anh_haihuoc/chim%206.jpg
Là tự do không gò bó...

http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhvui/anh_haihuoc/coi%20g.jpg
Là sự tò mò muốn biết và...

http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhvui/anh_haihuoc/b%20o.jpg

... đôi khi: đấy chẳng cần nhưng đây... lại rất thích !?

thieugia
10-05-2013, 10:57 AM
Kiến Thức Xã Hội

** Tiếp theo

Con Người & Những vấn đề về con người...


http://thaicucthieugia.com/images/stories/lo_go_baochi/p%20trai.jpg

1. Định nghĩa về con người: Con người là một thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội.
- Mặt sinh vật: con người vốn là một sinh vật và có đầy đủ những đặc trưng của sinh vật nhưng lại có nhiểu điểm phân biệt với các sinh vật khác.
- Mặt xã hội: được biểu hiện qua lao động, sáng tạo ra công cụ lao động nhằm phục vụ đời sống con người, sản xuất ra những TLSX, TL sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình.



Một ý kiến về "con người":

Theo như những gì mình đã học và đọc thì "con người" có 2 phần là phần "con" và phần "người". Có rất nhìu ng xoáy vấn đề này. Theo mình hiểu thì "con" có nghĩa là con vật, con ng là động vật cấp cao nên cũng mang những đặc điểm cơ bản của động vật. Còn "người" là cái thể hiện cấp cao đó, đó là nhân cách, là cách sống, cách tư duy...Vậy có thể hiểu nôm na "con người" là một động vật cấp cao, có tư duy và hiểu biết.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhvui/hai-mat.jpg
Phần con và phần... người !?.

Trong chương trình thời sự mấy hôm trc có nhắc đến chuyện 2 ng con đánh mẹ, đánh em gái, đuổi là khỏi nhà. K những thế còn phá nhà và còn nói bà mẹ bằng những câu thô tục, k thể chấp nhận đc. Vậy, họ có đc coi là "con người" k? Mình thấy k thể chấp nhận đc. Họ cư xử như những loài động vật chứ k phải người. Mình k có quyền đánh giá nhận xét về ai đó, vì mình cũng đâu có hoàn hảo, nhưng thực sự hành động của 2 ng kon kia làm tất cả mọi ng trên thế giới này chứ k phải riêng mình kinh tởm. Thử hỏi k có mẹ thì mấy ông ấy có trên đời này k? K biết trong não của ông ấy có cái j nữa.

Một ý kiến khác:


"Con người là sinh vật không có lông, đi bằng hai chân và có suy nghĩ".


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhvui/trng%20thnh%20nam.jpg
Không có lông, đi bằng hai chân... ảnh minh họa.

bach_djen
12-05-2013, 08:49 PM
Con người là một thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội.

Hình như có sự nhầm lẫn đấy thầy Thiều. Phần em em thích cách giải thích này:


Theo như những gì mình đã học và đọc thì "con người" có 2 phần là phần "con" và phần "người". Có rất nhìu ng xoáy vấn đề này. Theo mình hiểu thì "con" có nghĩa là con vật, con ng là động vật cấp cao nên cũng mang những đặc điểm cơ bản của động vật. Còn "người" là cái thể hiện cấp cao đó, đó là nhân cách, là cách sống, cách tư duy...Vậy có thể hiểu nôm na "con người" là một động vật cấp cao, có tư duy và hiểu biết.

nha_que
11-09-2013, 01:56 PM
Tìm hiểu về chế độ :

Khoa bảng Việt Nam


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/a/a4/Nh%E1%BA%ADn_%C3%A1o_m%C5%A9.jpg/300px-Nh%E1%BA%ADn_%C3%A1o_m%C5%A9.jpg
Các tân khoa nhận áo mũ vua ban

Khái quát về Lịch sử khoa bảng Việt Nam:

Các kỳ thi Nho học ở Việt Nam bắt đầu có từ năm 1075 dưới triều Lý Nhân Tông và chấm dứt vào năm 1919 đời vua Khải Định. Trong 845 năm đó, đã có nhiều loại khoa thi khác nhau, ở mỗi triều đại lại có những đặc điểm khác nhau, song trong các đời Lý, Trần, Hồ có một đặc điểm chung là các khoa thi đều do triều đình đứng ra tổ chức, chỉ đạo thi. Hệ thống thi cử tuyển người làm quan này gọi là khoa cử (chữ Nho: 科舉).

Khoa bảng (科榜) là cụm danh từ có nguồn gốc từ tiếng Hán. Khoa bảng là cái bảng danh dự, liệt kê tên họ các thí sinh đỗ đạt học vị trong các kỳ thi cử này, phần lớn được tuyển chọn làm quan chức cho triều đại phong kiến Việt Nam. Khoa bảng là tính từ để chỉ những người đỗ đạt này. Thí dụ: "Gia đình khoa bảng" là gia đình có học, có người trong họ đỗ đạt cao trong những kỳ thi cử do triều đình tổ chức và chấm khảo.

Các sách xưa dùng chữ Nho dạy Nho giáo cho thí sinh dự các kỳ thi Hương, thi Hội gồm có: Nhân thiên tự, sử học vấn tân, ấu học ngũ ngôn thi, Minh tâm bảo giám, Minh đạo gia huấn, Tam tự kinh và bộ sách giáo khoa là Tứ Thư (Luận ngữ, Mạnh tử, Đại học và Trung dung), Ngũ Kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu). Nhiều nho sĩ còn đọc thêm cả bách gia Chu Tử, các sách Phật giáo, Đạo giáo nữa. Khối lượng sách học thật là đồ sộ, lại phải học thuộc lòng và hiểu đúng nghĩa nên nho sinh mất rất nhiều công phu học và vất vả gian nan. Cực khổ nhất là phải chờ hai ba năm mới có kỳ thi. Khi đi thi thí sinh lại phải mang theo lều, chõng, thức ăn, lặn lội xa xôi lên kinh thành. Tác giả Ngô Tất Tố có viết truyện Lều chõng để nói lên những oái ăm của các kỳ thi này.

Ngày nay nghe đến hai từ "lều chõng", có lẽ nhiều người sẽ lấy làm lạ vì những từ ấy từ biệt chúng ta mà đi tới chỗ mất tích đã gần ba chục năm nay. Nhưng mà trước hơn hai chục năm đi ngược trở lên, cho đến hơn một nghìn năm, "lều", "chõng" đã làm chủ vận mệnh của giang sơn cũ kỹ mà người ta tán khoe là "bốn nghìn năm văn hiến". Những ông ngồi trong miếu đường làm rường cột cho nhà nước, những ông ở nơi tuyền thạch, làm khuôn mẫu cho đạo đức phong hóa, đều ở trong đám "lều chõng" mà ra. Lều chõng với nước Việt Nam chẳng khác một đôi tạo vật đã chế tạo đủ các hạng người hữu dụng hay vô dụng. Chính nó đã làm cho nước Việt Nam trở nên một nước có văn hóa. Rồi lại chúng nó đã đưa nước Việt Nam đến chỗ diệt vong. Với chúng, nước Việt Nam trong một thời kỳ rất dài kinh qua nhiều cảnh tượng kỳ quái, khiến cho người ta phải cười, phải khóc, phải rụng rời hồn vía. (Ngô Tất Tố, Thời vụ số 109 ra ngày 10-3-1939)

Thời Lý - Trần tổ chức thi Tam giáo để tuyển những người thông hiểu cả ba tôn giáo Nho, Phật và Lão. Khoa thi Tam giáo đầu tiên diễn ra năm 1195 đời Lý Cao Tông. Người đỗ Tam giáo gọi là Tam giáo xuất thân. Khoa thi Tam giáo cuối cùng tổ chức năm 1247 đời Trần Thái Tông. Hình thức này sau đó không áp dụng nữa[3].

Cuối thời nhà Trần, Hồ Quý Ly nắm quyền điều hành triều đình đã đặt ra lệ thi Hương đầu tiên ở các địa phương năm 1396 đời Trần Thuận Tông, lấy người đỗ được học vị cử nhân. Năm sau (1397) tổ chức thi Hội ở kinh đô. Đây là khoa thi Hội đầu tiên.

Từ thời Hậu Lê, việc thi cử được tiến hành đều đặn và quy củ. Các kỳ thi theo thứ tự là Thi Hương, Thi Hội, Thi Đình. Người đỗ đầu cả ba thì gọi là Tam Nguyên (như Tam Nguyên Nguyễn Khuyến).

Thi Hương được tổ chức mỗi 3 năm, vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Thi Hội sau thi Hương 1 năm, vào năm Sửu, Mùi, Thìn, Tuất.

Thi Hương

Cuộc thi được tổ chức tại các trường nhiều nơi (từ Hương do nghĩa khu vực quê hương của người thi). Nhưng không phải tỉnh nào cũng được tổ chức thi Hương. Trường thi chia ra làm nhiều vùng. Ba bốn trấn hoặc tỉnh cùng thi ở một nơi, thí dụ trường Nam là tập trung thí sinh ở các tỉnh chung quanh Nam Định, trường Hà các tỉnh chung quanh Hà Nội v.v. Số thí sinh mỗi khoa có đến hàng nghìn người.

Theo quy định từ năm 1434, thi Hương có 4 kỳ.

Kỳ I: kinh nghĩa, thư nghĩa;
Kỳ II: chiếu, chế, biểu;
Kỳ III: thơ phú;
Kỳ IV: văn sách.

Thi qua 3 kỳ thì đỗ Tú Tài (trước 1828 gọi là Sinh đồ) - tên dân gian là ông Đồ, ông Tú. Thường mỗi khoa đỗ 72 người. Tuy có tiếng thi đỗ nhưng thường không được bổ dụng. Nhiều người thi đi thi lại nhiều lần để cố đạt cho được học vị Cử nhân. Lần thứ nhất đỗ gọi là "ông Tú", lần thứ hai vẫn đỗ Tú tài thì gọi là "ông Kép", lần thứ 3 vẫn thế thì gọi là "ông Mền".

Thi qua cả 4 kỳ thì đỗ Cử Nhân (trước 1828 gọi là Hương cống) - ông Cống, ông Cử. Mỗi khoa đỗ 32 người, được bổ dụng làm quan ở các cơ quan cấp tỉnh, cấp trung ương, hoặc được đi làm quan các huyện, sau dần dần mới lên các chức vụ cao hơn. Người đỗ đầu gọi là Giải Nguyên.

Một người muốn dự thi Hương phải qua hai điều kiện (gọi là Khảo hạch):

- Có đạo đức tốt và lý lịch trong sạch. Bản khai lý lịch này phải được xã trưởng và quan địa phương xác nhận.
- Có trình độ học lực: trình độ học lực lúc đầu được kiểm tra bằng một kỳ thi liền với kỳ thi Hương nhưng không tính vào nội dung thi Hương 4 kỳ trên. Đây là kỳ thi ám tả cổ văn ai đỗ kỳ này mới được vào thi Hương. Đây là thi sát hạch, không phải là kỳ thi chính thức. Đỗ kỳ này chẳng có học vị gì, cả tỉnh cùng dự thi, ai đỗ kỳ này cũng đã vinh dự lắm, nhất là đỗ đầu. Người đỗ đầu cả xứ được tặng danh hiệu đầu xứ (về sau đỗ đầu tỉnh cũng được gọi là đầu xứ) gọi tắt là ông xứ, như: xứ Nhu (Nguyễn Khắc Nhu), xứ Tố (Ngô Tất Tố). Ông xứ Tố chỉ đỗ đầu xứ thôi, chẳng có học vị gì, nhưng thật là một nhà Nho uyên thâm.

Khoa thi Hương đầu tiên năm 1396 đời Trần Thuận Tông, khoa thi Hương cuối cùng tổ chức năm 1918 đời vua Khải Định.

Thi Hội

Thi Hội còn gọi là Hội Thí ( 会试), là khoa thi 3 năm một lần ở cấp trung ương do bộ Lễ tổ chức. Từ đời Lê Thánh Tông thi Hương được tổ chức vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu và thi Hội vào năm sau Sửu, Mùi, Thìn, Tuất (dựa theo quy định thi cử của Trung Quốc). Khoa thi này được gọi là "Hội thi cử nhân" hoặc "Hội thi cống sĩ" (các cử nhân, cống sĩ, tức là người đã đỗ thi Hương ở các địa phương, tụ hội lại ở kinh đô để thi) do đó gọi là thi Hội.

Trước năm 1442 thí sinh đỗ cả 4 kỳ được công nhận là trúng cách thi Hội, nhưng không có học vị gì. Nếu không tiếp tục thi Đình thì vẫn chỉ có học vị hương cống hoặc cử nhân. Chỉ sau khi thi Đình, người trúng cách thi Hội mới được xếp loại đỗ và mới được công nhận là có học vị các loại tiến sĩ. Từ năm 1442 thí sinh đỗ thi Hội mới có học vị Tiến sĩ (tức Thái học sinh - tên dân gian là ông Nghè). Người đỗ đầu gọi là Hội Nguyên.

Vào thời nhà Nguyễn những thí sinh thiếu điểm để đỗ tiến sĩ có thể được cứu xét và cho học vị Phó Bảng (ông Phó Bảng hay Ất tiến sĩ).

Khoa thi Hội đầu tiên năm 1397 đời Trần Thuận Tông, khoa thi Hội cuối cùng tổ chức năm 1919 thời vua Khải Định, đánh dấu sự chấm dứt của khoa bảng phong kiến Việt Nam[5].

Thi Đình

Thi Đình còn được gọi là Thi Điện, hoặc là Điện Thí (殿试 ). Đây là kỳ thi cao nhất được tổ chức tại sân của triều đình nơi có cung điện (hoàng cung) của nhà vua. Nơi thi là một cái nghè lớn, nên sau này người ta thường gọi các vị vào thi là các ông nghè . Nhà vua trực tiếp ra đầu đề, và sau khi hội đồng giám khảo hoàn thành việc chấm bài, cân nhắc điểm sổ, chính nhà vua tự tay phê lấy đỗ.

Người đỗ đầu gọi là Đình Nguyên. Theo số điểm, người đỗ được xếp vào 3 hạng gọi là Tam Giáp:

Bậc 3: Đỗ Tiến Sĩ Đệ Tam Giáp (Đồng tiến sĩ xuất thân - tên dân gian là ông Tiến Sĩ)
Bậc 2: Đỗ Tiến Sĩ Đệ Nhị Giáp (Tiến sĩ xuất thân, Hoàng Giáp - ông Hoàng)
Bậc 1: Đỗ Tiến Sĩ Đệ Nhất Giáp (Tiến sĩ cập đệ - gồm 3 thí sinh đỗ cao nhất gọi là Tam khôi: Đỗ hạng ba là Thám Hoa (ông Thám), hạng nhì là Bảng Nhãn (ông Bảng), đỗ đầu là Trạng Nguyên (ông Trạng)

Đôi khi lúc chấm bài, chủ khảo (trong đó có cả vua) thấy người thủ khoa không đạt được điểm số tối thiểu để gọi là Trạng. Những khoa này sẽ không có trạng nguyên - thủ khoa giữ cấp Đình nguyên (thí dụ: Lê Quí Đôn đỗ cao nhất nhưng chỉ được cấp vị Đình nguyên Bảng nhãn).

Vào năm 1828 vua Minh Mạng chỉnh đốn lại khoa cử và bỏ Đệ nhất giáp. Học vị trạng nguyên, bảng nhãn không còn trên khoa bảng từ đó.

Thi Hương
Giải nguyên
Hương cống
Sinh đồ
Thi Hội
Hội nguyên
Thái học sinh
Phó bảng
Thi Đình
Đình nguyên
Trạng nguyên
Bảng nhãn
Thám hoa
Hoàng giáp
Đồng tiến sĩ xuất thân
---------------------------------------
Nha_que theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

nha_que
11-09-2013, 03:22 PM
Thể lệ Thi Hương
http://thaicucthieugia.com/images/stories/Datviet_Namxua/Thay_Do/lu%20chng.jpg
Lều chõng

Một người muốn dự thi Hương phải qua hai điều kiện (gọi là Khảo hạch):

- Phải có đạo đức tốt và lý lịch trong sạch. Bản khai lý lịch này phải được xã trưởng và quan địa phương xác nhận.
- Phải có trình độ học lực: trình độ học lực lúc đầu được kiểm tra bằng một kỳ thi liền với kỳ thi Hương nhưng không tính vào nội dung thi Hương 4 kỳ của thi Hương. Đây là kỳ thi ám tả cổ văn; ai đỗ kỳ này mới được vào thi Hương. Vì đây là kỳ thi sát hạch, không phải là kỳ thi chính, nên đỗ kỳ này chẳng có học vị gì, cả tỉnh cùng dự thi, ai đỗ kỳ này cũng đã vinh dự lắm, nhất là đỗ đầu. Người đỗ đầu cả xứ được tặng danh hiệu "đầu xứ" (về sau đỗ đầu tỉnh cũng được gọi là đầu xứ) gọi tắt là "ông xứ" như: xứ Nhu (Nguyễn Khắc Nhu), xứ Tố (Ngô Tất Tố). Ông xứ Tố chỉ đỗ đầu xứ thôi, chẳng có học vị gì, nhưng thật là một nhà Nho uyên thâm.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Datviet_Namxua/Thay_Do/s%20t%20xa.jpg
Các sĩ tử xưa

Theo quy định từ năm 1434, thi Hương tương tự như thi Hội cũng có 4 kỳ hay còn gọi là 4 trường

Kỳ I thi kinh nghĩa, thư nghĩa:
Giải thích ý nghĩa trong câu lấy từ Tứ thư, Ngũ kinh. Bài thi phải viết theo lối biền văn - tức là có đối mà không cần vần, phần thi này nhằm kiểm tra khả năng hiểu biết kinh truyện của sĩ tử;

Kỳ II thi chiếu, chế, biểu:
Chiếu - lời vua nói, chế - vua phong thưởng cho công thần, biểu - bài văn thần dân tạ ơn vua hoặc chúc mừng vua nhân dịp ngày lễ. Sĩ tử phải biết lựa từng hoàn cảnh, từng đối tượng mà dùng giọng văn cho thích hợp. Đây là bài thi kiểm tra khả năng soạn văn bản làm quan sau này;
Kỳ III thi thơ phú:
Các bài thi được làm theo thể thất ngôn, phần thi này kiểm tra khả năng làm thơ của sĩ tử bởi đây là một trong những sinh hoạt quan trọng của tầng lớp trí thức;

Kỳ IV thi văn sách:
Là bài văn trả lời câu hỏi về một vấn đề của đề bài. Phần thi nằm kiểm tra khả năng biện bác, bàn luận vấn đề lịch sử và hiện tại của sĩ tử.

Tùy từng triều đại mà nội dung thi có thể quy định và sắp xếp thứ tự khác nhau. Dưới triều Hồ, thí sinh phải thi thêm kỳ 5 gồm môn ám tả (chính tả) và môn toán. Năm 1855, nhà Nguyễn quy định thi Hương có 3 kỳ và một kỳ phúc hạch bằng thơ phú. Những ai đỗ ở trường nhất mới được thi trường hai, rồi trường ba, trường bốn.
Trường thi

Hội đồng thi và chấm thi của kỳ thi Hương:

Đề Điệu: Chánh chủ khảo;
Giám Thí: Phó chủ khảo;
Đồng khảo thí: Chấm sơ khảo;
Khảo thí: Chấm phúc khảo;
Đằng Lục: Làm nhiệm vụ rọc phách, niêm phong;
Di Phong: Thu nhận quyển thi của thí sinh;
Đối độc: Đọc lại bài của Đằng Lục chép và đối chiếu với bài của thí sinh cho chính xác.

Trường thi Hương là một khu đất rộng được chia làm 4 khu vực (hay còn gọi là 4 vi): Giáp, Ất, Bính, Đinh cắt theo hình chữ thập 十. Ở giữa là nhà Thập đạo có chòi canh để quan trường giám sát thí sinh ngồi thi. Ở hai bên trái, phải có hai chòi để quan giám sát cả thí sinh lẫn quan trường. Mỗi cửa đốt hai cây đuốc lớn (gọi là đình liệu) chiếu sáng rực cả trường thi. Xung quanh trường thi được rào hai lần: một phên kín, một phên thưa đắp tường hào, cài chông, có cả đội lính gác canh giữ.
Trình tự thi


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Datviet_Namxua/Thay_Do/thi%20huong-01.jpg
Trường thi

Khoảng 20 ngày trước khi thi, thí sinh phải nộp 3 tập giấy bản mới: trang đầu ghi lý lịch, địa chỉ, nghề nghiệp của bản thân và thế hệ trước cho Hội đồng thi (còn gọi là nộp tuyển). Hai ngày trước khi thi thí sinh đến trường xem số báo danh để biết vị trí ngồi và cửa vào. Từ nửa đêm hôm trước ngày thi, mỗi thí sinh vác một bộ lều chõng, cổ đeo ống quyển, dầu (để thắp đèn), nước, vai mang tráp đựng thức ăn, thức uống, đồ dùng trực sẵn ở cửa trường thi. Sau 3 hồi trống, các quan vào vị trí đã định, lại phòng (giám thị) xướng danh nhận quyển cho thí sinh vào trường. Thí sinh tìm chỗ chọn phần đất rồi tự đóng lều, dựng chõng, mài mực đợi đề thi. Khi trời sáng rõ thì đầu bài được phát, đến trưa họ nộp quyển vào nhà Thập đạo lấy dấu nhật trung và đến tối nộp lại quyển cho lại phòng đóng dấu của Hội đồng thi. Làm bài xong thí sinh ra ngoài trường thi bằng cửa trước.

Xếp hạng

Thi Hương gồm hai hạng:

- Qua được 3 kỳ đầu (hay còn gọi là ba trường) thì đỗ cấp tú tài (tức sinh đồ - tên dân gian là ông Đồ, ông Tú).
- Qua được cả 4 kỳ thì đỗ cấp cử nhân (tức hương cống - ông Cống, ông Cử)

Đỗ tú tài thì không được triều đình bổ dụng nhưng đối với trong làng, trong tổng thì địa vị đương sự thăng từ hạng thường dân lên hạng chức sắc, có chân trong hội đồng kỳ mục, được miễn sưu dịch, và khi có cỗ bàn trong đình thì được ngồi chiếu trên. Đỗ cử nhân thì ngoài việc được phép dự thi Hội, còn được bổ nhiệm làm quan trong những ngạch thuộc cửu phẩm, được vua ban áo mũ và làng xã phải phục dịch đón tiếp vinh quy.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Datviet_Namxua/Thay_Do/thi%20hng%20.jpg
Trường thi Nam Định năm Mậu Tý 1888

Lệ vinh quy

Lễ xướng danh trường thi Nam Định năm Mậu Tý 1888 cho các thí sinh trúng tuyển làm cử nhân.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Datviet_Namxua/Thay_Do/vinh-quy-bai-to.jpg
Xướng danh và vinh qui bái tổ

Từ triều Lê Thánh Tông năm 1481 đã đặt ra lệ xướng danh và vinh quy cho các tân khoa hương cống. Tân khoa ra nhận áo, mũ, và giày vân hài của nhà vua ban rồi tên thì đem yết ở bảng bằng gỗ vẽ hình hổ. Sau đó họ lần lượt ra lễ tạ vua cùng các quan hàng tỉnh và quan trường. Các vị sinh đồ (tú tài) thì không có áo mũ, cũng không có xướng danh. Tên thì yết ở tấm bảng tre nhưng vẫn là một vinh dự lớn.

Phần lễ nghi xong thì các vị tân khoa sửa soạn về quê quán nhưng có sức về phủ, huyện, xã để sửa soạn đón rước gọi là đám rước "vinh quy bái tổ". Sinh đồ thì hàng xã đón. Hương cống thì hàng tổng trở lên phải cung phụng linh đình, xem như một vinh dự chung của cả làng.
-------------------
Nha_que Theo Wikipedia

thieugia
05-02-2014, 08:06 AM
Khái niệm nhân văn - Nhân đạo - Nhân bản


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/net_dep_doi_thuong/7.jpg

Nhân bản: là lấy con người làm gốc. Chủ nghĩa nhân bản là chủ nghĩa coi trọng con người với thực thể hiện hữu của nó - sự sống còn và bản chất người (bao gồm cả bản năng vốn có và những giá trị khác). Do đó nói tới giá trị nhân bản là nhấn mạnh đến khía cạnh bản thể của con người.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/net_dep_doi_thuong/1.jpg

Nhân đạo: hiểu theo nghĩa đen là đường đi của con người. Con đường đó còn gọi là đạo lí. Đó là đạo lí phải tôn trọng quyền lợi chính đáng của con người, không được xâm phạm đến sinh mệnh, thân thể, sự tự do về tư tưởng cũng như tình cảm của con người.Chủ nghĩa nhân đạo đòi hỏi sự yêu thương, quý trọng con người, thuật ngữ nảy nhấn mạnh đến khía cạnh đạo đức.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/net_dep_doi_thuong/17.jpg

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/net_dep_doi_thuong/2.jpg

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/net_dep_doi_thuong/5.jpg

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/net_dep_doi_thuong/4.jpg

Nhân văn: cần hiểu theo ý nghĩa từng từ. Nhân là người, văn là vẻ đẹp. Nhân văn có thể hiểu là những giá trị đẹp đẽ của con người. Một tác phẩm có tính nhân văn là tp văn học thể hiện con người với những nét đẹp của nó, đặc biệt là những giá trị tinh thần như trí tuệ, lý chí, tâm hồn, tình cảm, phẩm cách... Đề cao vẻ đẹp của con người. Nhân văn là thước đo giá trị văn học của mọi thời đại.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/net_dep_doi_thuong/8.jpg

thieugia
13-05-2014, 01:42 PM
VÕ THUẬT THIỀU GIA
http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/logo_minhhoa/logo%20thay%20i.jpg
古大的官赖
QUAN CHẾ THỜI CỔ ĐẠI

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Datviet_Namxua/quan_ch%20nh_nguyn.jpg



Chủ biên: Võ sư Thiều Ngọc Sơn


Đại Lược Về Quan Chế

Trước nhà Lý, sử sách chỉ chép rất sơ lược về quan chế Việt Nam : Thời Hùng Vương nước ta có các Quan Lang, Lạc hầu, Lạc tướng... ; thời Ngô Quyền đặt đủ trăm quan, dựng nghi lễ triều đình và định sắc áo mặc...

Kể từ nhà Tiền Lê, quan chế nước ta bắt đầu rập theo khuôn mẫu Trung quốc : "Năm 1006 Lê Long Ðĩnh sửa quan chế theo nhà Tống". Tuy nhiên, An-Nam Chí Lược ghi rõ :"Nước ta từ nhà Ðinh mới chịu tước phong vương của nhà Tống nhưng ở trong nước tự đặt danh hiệu, đặt quan có chức Chánh và Tiếp, tựa như phẩm, tùng".

I - QUAN CHẾ Ở TRUNG QUỐC

Ban đầu xã hội Trung quốc không phân biệt giai cấp. Từ vua Phục Hy (4486-4365) về trước nước gồm các bộ lạc gọi là chư hầu, người cầm đầu gọi là Hậu, đứng đầu các Hậu là Nguyên hậu hay Ðế.

Hoàng đế (2698-2597) đem đất đai phong cho những chư hầu nào tùng phục mình, được chư hầu tôn làm Cộng chủ, tức Thiên tử. Từ đó bắt đầu chế độ phong kiến, mới chia thành hai giai cấp : quý tộc và thứ dân, quý tộc nắm chính quyền.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/vua_chua_xua/Vua_chua_Tau/cn%20long%204.jpg

Sang đến thời Chiến quốc (479-221) chế độ phong kiến sa sút, thứ dân thay quý tộc cầm quyền chính, có bốn giai cấp : sĩ, nông, công, thương (sĩ đứng đầu).

1 - Thời Ðường, Ngu

Tuy Thiên tử là chúa tể mà tuyển dụng quan chức phải hỏi ý kiến mọi người và đặt chức quan chỉ có 100 người.
Trung ương có Bách quỹ (Tể tướng), Tứ nhạc (bốn Chúa chư hầu đứng đầu bốn phương). Dưới quyền Bách quỹ có 9 chức quan :

Hậu tắc coi việc nông ;
Trẫm ngu coi sản vật tự nhiên ;
Cung công coi việc công ;
Sĩ coi về hình pháp ;
Tư đồ coi về giáo dục ;
Trật tông coi về lễ ;
Ðiển nhạc coi về nhạc ;
Tư không phụ trách địa lợi, thiên thời ;
Nạp ngôn coi việc tấu đối.

Vua Thuấn chia nước làm 12 châu, mỗi châu cắt một Chúa chư hầu làm kẻ chăn dân có quyền coi các chúa chư hầu nhỏ khác. Thập nhị Mục thuộc quyền Tứ nhạc, Hầu Bá nhỏ hơn một bậc.

Vua Nghiêu, vua Thuấn truyền ngôi cho người hiền năng, không truyền cho con.

2- Thời Hạ, Thương

- Số quan nhiều gấp đôi.

Nhà Hạ đặt Tam Công (Thái sư, Thái bảo, Thái phó (= thầy, nuôi dưỡng, dậy dỗ) là ba chức lớn nhất ; Cửu khanh ; 27 Ðại phu ; 81 Nguyên sĩ .
Nhà Ân (trước gọi là nhà Thương) đặt 6 quan Thái (Thái tể, Thái tông, Thái sử, Thái chúc, Thái sĩ, Thái bốc) ; 5 quan Tư (Tư đồ, Tư mã, Tư không, Tư sĩ, Tư khấu)...

Vua Hạ Vũ truyền ngôi cho con, bắt đầu chế độ thế tập, cha truyền con nối.

3- Nhà Chu (1134-247/221) :

Ðánh xong nhà Ân, Chu Công Ðán cải sửa cơ cấu quan liêu đời Thương/Ân khiến chế độ phong kiến thành hệ thống minh bạch, đặt lục quan, lục điển chia nhau làm việc, đứng đầu xã hội là Thiên tử. Vũ vương phong cho trên 70 người làm vua chư hâu, chia ra 5 bậc (Công, Hầu, Bá, Tử, Nam). Ðất phong 100 dậm gọi là Ðại quốc, 70 dậm là Trung quốc, 50 dậm trở lên là Tiểu quốc, dưới 50 dậm gọi là Phụ dung.

* Chu Lễ là bộ sách sưu tập quan chế đời Chu. Toàn bộ có 6 thiên :
- Lục điển (Trị điển, Giáo điển, Lễ điển, Chính điển, Hình điển, Sự điển) để dựng nước, do quan Thái tể giữ.
- Lục quan là : Thiên quan Trủng tể đứng đầu, thống suất trăm quan, coi việc chính trị ; Ðịa quan Ðại Tư đồ giữ việc nông thương, cảnh sát, giáo dục, rèn đúc dân ; Xuân quan Ðại Tông bá giữ lễ của nước (tế tự, triều sinh...) ; Hạ quan Ðại Tư mã thống sáu quân, dẹp yên trong nước ; Thu quan Ðại Tư khấu coi về hình phạt, kiện tụng... ; Ðông quan Ðại Tư không khuyến công, nông, việc thổ mộc, xét địa lợi, thiên thời. Mỗi quan có 60 thuộc hạ.

* Ở trung ương, người thống trị cao nhất là Thiên tử, phù trợ có :

Tam Công = Thái sư, Thái phó, Thái bảo.
Bất tất phải đủ ba người, chỉ cần người xứng đáng, bàn đạo trị nước (thời Thành Vương thì Chu công làm Thái sư).

Tam Cô / Thiếu = Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo, giúp các Công.

Lục khanh : 6 quan Thái nhà Ân giúp vua xử lý chính vụ, đứng hai bên tả hữu vua.

Lại có Ngũ quan Tư là :
Tư đồ dạy học,
Tư mã coi binh bị,
Tư khấu coi hình phạt,
Tư không quản lý nghề nghiệp,
Tư thổ quản lý bản tịch, tước lộc.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/vua_chua_xua/Vua_chua_Tau/ng%20tr%20hong%20.jpg
Hoàng đế Đồng Trị nhà Mãn Thanh

Dưới Ngũ quan Tư có rất nhiều liêu thuộc.

Cứ 6 năm một lần Thiên tử đi tuần các nơi, xét chế độ ở Tứ nhạc ; 6 năm các Chúa chư hầu một lần về chầu Thiên tử.

- Ở ngoài thì chia ra các Châu, dưới Châu là Quận, dưới nữa là Lý (làng), giao cho các Ðại phu hoặc kẻ Sĩ cai trị .

Còn nữa...

thieugia
14-05-2014, 05:38 PM
QUAN CHẾ THỜI CỔ ĐẠI
古大的官赖

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Dong_chu/tn%20thy%20hong.jpg

Tiếp theo...

4- Nhà Tần (246-209)

- Cuối Chu, chư hầu tranh nhau xưng hùng, xưng bá. Tần Thủy Hoàng thống nhất đất nước, bỏ chế độ phong kiến, chia nước làm 36 quận, mỗi quận có :
1 Thái thú coi việc dân chính
1 Thái úy coi việc quân sự
1 Giám giám đốc, giám sát.
- Ở trung ương chính quyền trong tayThiên tử, với ba chức độc lập là :
Thừa tướng coi tất cả chính sự
Thái úy coi binh quyền
Ngự sử đại phu can gián, kiểm soát các quan.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Co_su/tn%20quyn.jpg

5- Nhà Hán (206 tr.TL - 220)
Nhà Tần tàn bạo, thất nhân tâm, bị mất về tay Hán Cao Tổ. Lúc đầu Hán theo chế độ quận quốc, sau thấy các vương hầu làm loạn bèn chia nước ra thành 13 châu mỗi châu gồm nhiều quận và đặt một Thứ sử coi việc hành chính các quận quốc.
Mỗi quận đặt một Thái thú và chia ra nhiều huyện. Cứ một vạn nhà trở lên thì đặt quan lệnh, dưới một vạn nhà thì đặt quan trưởng.
Trung ương có :
- Thừa tướng
- Thái úy
- Ngự sử đại phu
- 9 quan khanh, chia ra tòng, phẩm.

6- Nam Bắc triều - Nhà Tùy

Nhà Ðông Tấn (265-420)
- Nhà Hán suy, gây ra loạn Tam quốc, Hán mất về tay nhà Ngụy. Nhà Tấn lên thay Ngụy, thấy nhà Ngụy vì thế cô mà mất, bèn phong họ hàng ra trấn các nơi làm vây cánh, các Thân vương tranh giành nhau gây nội loạn, ngôi vua suy.

Nam, Bắc triều (420-588)
- Phương Nam có các nhà : Tống, Tề, Lương, Trần ; phương Bắc có : Ngụy, Tề, Chu.

Nhà Tùy (581-618)
Thu gồm cả Nam, Bắc triều.

7- Nhà Ðường (618-907)
- Nhà Tùy chỉ được hai đời vua đã sụp đổ, chưa kịp tổ chức xã hội, nhà Ðường mới thực sự thống nhất Trung quốc.
- Ở Trung ương :
Các chức Tam Công, Tam Cô là Cố vấn tối cao nhưng chỉ là hư hàm, không có thực quyền,

Ðứng đầu có 3 cơ quan là :
Môn hạ tỉnh chuyển mệnh lệnh vua hay báo cáo của các quan lên vua
Trung thư tỉnh giúp việc triều chính, đứnh đầu là Trung thư lệnh
Thượng thư tỉnh / Nội các, đứng đầu là Ðồng bình chương sự (Tể tướng) và Tả Hữu Bộc xạ.
Phụ giúp có :
Khu mật sứ
Nhất đài tức Ngự sử đài

Lục bộ
Cửu tự (Thái thường tự, Quan lộc, Hồng lô, Ðại lý tự...).
- Ở ngoài : Chia nước ra 10 đạo, mỗi đạo có Tuần sát sứ hỏi việc thiện ác, không rực tiếp hành chính.
Phủ có Mục doãn
Châu có Thứ sử
Huyện có Huyện lệnh.
Ðô hộ phủ thì coi phiên quốc, sau cải là Tiết độ sứ.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Co_su/quan%20trng.jpg
Hoàng đế Lưu Thiền (con Lưu Bị) nhà Đông Hán

8- Nhà Tống(916-1234/79)
- Nhà Ðường suy, tới thời Ngũ đại, Thập quốc... Tống Thái Tổ thu về một mối, chia nước ra các lộ, phủ, châu, huyện, không đặt chính quan mà phái các quan trong triều ra cai trị bên ngoài.
Ở trung ương, chính quyền chia ba :
Ðồng bình chương sự
Tam Ty
Khu mật sứ và Binh chính.

Nhà Tống không ban Nhất phẩm, Tô Ðông Pha giữ chức Hàn lâm là Tam phẩm nhưng coi như Nhị phẩm.
- Ðịnh liệt hàm :
Hành là cấp bậc cao mà chức quan thấp
Thự cấp thấp mà chức quan cao.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/vua_chua_xua/Vua_chua_Tau/a%20phng%20cung.jpg
A Phòng cung của Tần Thủy Hoàng đế


9- Nhà Nguyên (1234-1368)
- Nhà Tống bị Mông cổ đô hộ, lập ra nhà Nguyên, phép cai trị tựa như nhà Tống.
Ở ngoài chia ra các lộ, phủ, huyện. Vì là dị tộc, trên còn đặt Hành tỉnh (khu vực hành chánh) cho tiện sự trấn áp. Các chức Trưởng quan đều người Mông cổ, người Hán chỉ làm Phó.
Trung ương có :
Trung thư tỉnh giữ chính quyền
Khu mật viện giữ binh quyền
Ngự sử đài giữ việc đàn hặc
Lục bộ.

10- Nhà Minh (1368-1660)
- Minh Thái Tổ đánh đuổi quân Mông cổ, giành lại chủ quyền, chia nước ra các đạo, phủ, châu, huyện.
- Ở ngoài có :
Ty Bố chính coi dân chính, bỏ Hành tỉnh
Ty Án sát coi hình chính.
- Ở trung ương, ban đầu theo nhà Nguyên, đặt Trung thư tỉnh và Tả, Hữu Thừa tướng, sau sợ chuyên quyền, bỏ Trung thư tỉnh, chia việc cho 6 Bộ. Lại có :
Ðiện các Học sĩ làm cố vấn
Ðô sát viện đàn hặc, tựa như thời phong kiến.
Không có đại thần. Bắt đầu dùng hoạn quan, cho dự triều chính vi vua Thành Tổ nhờ hoạn quan mà cướp được ngôi.

11- Nhà Thanh (1616-1911)
- Trung hoa lại bị đô hộ lần nữa, dưới chế độ nhà Mãn Thanh.
- Ở ngoài, trừ phủ Phụng-thiên, đặt Phủ doãn, mỗi tỉnh đặt Tuần vũ coi việc cai trị, quân chính, trên có Tổng đốc, dưới có Bố chánh, Án sát.
- Ở trung ương, tựa như nhà Minh, không có Tể tướng, chỉ đặt Nội các Ðại Học sĩ cầm quyền chính trị, quân sự, do các tước vương đại thần người Mãn nghị tâu.
Lục Bộ trưởng quan gồm một nửa người Mãn, một nửa người Hán.
- 1911 Nhà Thanh bị lật đổ, sang thời dân chủ, quan chế đổi.


NGHI THỨC TRIỀU YẾT
Ðời cổ, khi các quan vào triều yết không phân biệt quan văn, quan võ, chỉ hạ lệnh cho tước Công, tước Hầu chia ban thứ mà đứng.

Lễ Ký chép :
Tước Công hướng mặt về Ðông (hướng Ðông dành cho những người được quý trọng), tước Hầu hướng về Tây.
Lúc vua đứng yên vị ở cửa điện, chư hầu theo thứ tự tiến vào thì :
Tước Công đứng phía Tây vì địa đạo lấy phía hữu tôn hơn.
Tước Hầu đứng phía Ðông .
Thời Hán Cao Ðế thì Công hầu, Liệt hầu, Tướng quân... theo thứ tự đứng ở phía Tây, ngoảnh về Ðông, các quan văn đứng phía Ðông, ngoảnh về Tây.

Còn nữa...

thieugia
19-05-2014, 04:20 PM
QUAN CHẾ THỜI CỔ ĐẠI
古大的官赖
http://thaicucthieugia.com/images/stories/vua_chua_xua/Vua_chua/t9.jpg

Tiếp theo...

II - QUAN CHẾ Ở VIỆT NAM

Nhà Lý

Những ghi chép trong sử sách không hoàn thiện và đầy đủ về quan chế thời Lý, không cụ thể từng cấp bậc, phẩm hàm theo trật tự từ trên xuống. Về cơ bản, quan chế nhà Lý được phỏng theo kiểu nhà Tống của Trung Hoa. Các sử gia căn cứ theo các tài liệu khác nhau để mô phỏng chế độ quan lại từ trung ương tới địa phương.

Hệ thống quan lại thời Lý gồm có: quý tộc, công thần, tăng quan và nho sĩ. Quan chế thời kỳ này đã được chia thành 9 phẩm (từ nhất phẩm tới cửu phẩm, nhưng sử không chép rõ từng phẩm có những chức gì), phía trên là các vương hầu quý tộc, bên dưới chia làm 2 ban văn võ, các quan trong (trung ương) và quan ngoài (địa phương)[1]. Các sử gia theo nhận định của Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí thống nhất rằng nhiều chức quan trong bộ máy chính quyền phong kiến Việt Nam được đặt ra từ thời nhà Lý[1].


Trung ương

Tể tướng – quan đầu triều

Đứng trên trăm quan, trong nhiều trường hợp thay mặt vua giải quyết mọi việc trong triều là Tể tướng. Vị quan đầu triều đầu tiên của nhà Lý là Trần Cảo, được phong chức danh Tướng công dưới thời Lý Thái Tổ. Tuy nhiên, sang thời Lý Thái Tông đặt ra chức Phụ quốc Thái úy nắm chính sự, vai trò của vị quan đầu triều mới thực sự lớn[2]. Sang thời Lý Nhân Tông, vị quan đầu triều được gia tăng thêm mấy chữ “Kiểm hiệu bình chương quân quốc trọng sự”. Các vị quan Tể tướng thường được gia phong thêm các chức vụ Tam thái (Thái sư, Thái phó, Thái bảo) hoặc Tam thiếu (Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo).

Các vị quan Tể tướng có danh vọng dưới triều Lý là Lý Thường Kiệt làm Thái phó phụ quốc thượng tướng quân. Lý Nhân Tông bổ nhiệm Lý Đạo Thành làm Thái phó bình chương quân quốc trọng sự. Lý Anh Tông bổ nhiệm Tô Hiến Thành làm Nhập nội kiểm hiệu thái phó bình chương quân quốc trọng sự.

Các chức vị giúp việc cho Tể tướng gồm có:

• Á tướng: gồm có 2 vị Tả tham tri chính sự, Hữu tham tri chính sự
• Hai vị Nội ngoại hành điện đô tri sự
• Các vị Nhập nội Hành khiển Đông trung thư môn hạ bình chương sự (chức này thường lựa chọn trong các hoạn quan). Trước những việc trọng đại, sẽ giao cho các vị Hành khiển (hoạn quan) đứng ra làm người truyền lệnh.

Ban văn

Các quan văn gồm có:
• Trung thư lệnh: đứng đầu các sảnh (cơ quan trung ương giúp việc cho hoàng đế)
• Thượng thư đứng đầu các Bộ (ít ra là vào thời Lý Nhân Tông, Đại Việt có đủ 6 bộ: Hộ, Lễ, Lại, Binh, Hình và Công).
• Bộ Thị lang: giúp việc cho Thượng thư trong Bộ
• Trung thư thị lang (giúp việc cho Trung thư lệnh trong các sảnh)
• Hàn lâm học sĩ (đứng đầu Hàn lâm viện)
• Học sĩ các điện (chức xếp sau Hàn lâm học sĩ)


http://thaicucthieugia.com/images/stories/vua_chua_xua/Vua_chua/i%20thn.jpg

• Ngự sử đại phu
• Ngự sử trung thừa
• Gián nghị đại phu (chức quan chuyên can gián, thường chọn người ngay thẳng và liêm khiết)
• Tả ty lang trung
• Hữu ty lang trung
• Tả phúc tâm
• Hữu phúc tâm
• Nội trường thị
• Phủ sĩ sư
• Vệ đại phu
• Tả Gián nghị đại phu
• Hữu Gián nghị đại phu
• Thượng thư tỉnh viên ngoại lang
• Đông các môn sứ
• Tây các môn sứ
• Trung thư thừa
• Trung thư xá nhân (giúp việc cho Trung thư lệnh trong các sảnh)
• Thừa trực lang
• Thừa tín lang
• Hỏa thư gia

Ban võ

Ngoài quan đầu triều có chức danh Phụ quốc thái úy nắm quân đội là một vị quan võ, các chức võ quan bên dưới gồm có[4]:
• Đô thống
• Nguyên soái
• Tổng quản khu mật sứ
• Khu mật tả sứ
• Khu mật hữu sứ
• Tả kim ngô thượng tướng
• Hữu kim ngô thượng tướng
• Phụ quốc thượng tướng quân
• Uy nghi đại tướng quân


http://thaicucthieugia.com/images/stories/vua_chua_xua/Vua_chua/v%20quan%20triu%20nguyn.jpg

• Địch thắng đại tướng quân
• Đô tướng
• Đô chỉ huy sứ
• Vệ tướng quân (với những hiệu Uy Vệ, Kiêu Vệ, Định Thắng)
• Chỉ huy sứ
• Vũ vệ hỏa đầu
• Binh tào Vũ Tiệp, Vũ Lâm


Các cấp hành chính địa phương

Các quan chức tại địa phương gồm có:
• Đứng đầu bộ máy hành chính của các phủ, lộ là tri phủ, phán phủ
• Đứng đầu các châu là tri châu
• Đứng đầu các trại, đạo là quan mục.
• Phủ Đô hộ đứng đầu là sĩ sư
• Đứng đầu bộ máy hành của các huyện là huyện lệnh.

Trang phục

Từ tháng 8 năm 1059, vua Lý Thánh Tông bắt đầu áp dụng kiểu mẫu triều phục cho các quan. Vua cấp cho trăm quan mũ cánh chuồn (đương thời gọi là mũ phốc đầu) và hia, quy định triều phục vào chầu là đội mũ cánh chuồn và đi hia. Các bộ chính sử đều xác nhận việc đội mũ cánh chuồn và đi hia của các quan khi vào chầu vua bắt đầu từ đó. Các triều đại sau tiếp tục dùng áp dụng những đồ dùng đó làm triều phục.

Chế độ tuyển dụng và bổ nhiệm

Để có đội ngũ quan lại phục vụ trong bộ máy chính quyền, nhà Lý đã áp dụng nhiều phương thức. Trong thời gian đầu, triều đình chỉ áp dụng chế độ tuyển cử, nhiệm tử và nộp tiền:

• Tuyển cử là phương thức bổ dụng quan lại khá phổ biến trong các đời vua đầu tiên. Những người được tuyển cử đều thuộc tầng lớp trên, trong hoàng tộc hoặc thân thích của người có công. Con cháu của thợ thuyền, con hát, nô tỳ đều không nằm trong những đối tượng được cử tuyển

• Nhiệm tử là bổ nhiệm con cháu của những người có công theo hình thức tập ấm, tuy nhiên ít được áp dụng như thời Đinh và Tiền Lê; càng về sau hình thức này càng ít áp dụng

• Nộp tiền để làm quan là hình thức có từ thời nhà Lý, tuy chưa thật thịnh hành và chưa có điển chế rõ ràng

Từ thời Lý Nhân Tông bắt đầu áp dụng chế độ khoa cử, cho thi tuyển chọn lấy người tài làm quan.

Từ thời Lý Anh Tông, vua áp dụng chế độ sát hạch lại (khảo khóa) đối với những người đương chức, thành lệ 9 năm 1 lần.

Năm 1179 thời Lý Cao Tông, triều đình thực hiện khảo xét công trạng các quan, người giữ chức siêng năng tài cán nhưng không thông chữ nghĩa làm một loại, người có chữ nghĩa tài cán làm một loại, người tuổi cao hạnh thuần, biết rõ việc xưa nay làm một loại, cứ theo thứ tự mà trao cho chức vụ trị dân coi quân, khiến cho quan chức không lạm quyền tham nhũng.

Nhìn chung, đội ngũ quan lại triều Lý được tuyển chọn tương đối kỹ càng, nên cơ bản xứng với thực tài và chức vụ.

Chế độ lương bổng

Sử sách chép không nhiều và không đầy đủ về chế độ lương bổng của quan lại nhà Lý. Năm 1067, vua Lý Thánh Tông đặt ra chế độ cấp lương bổng. Ông cho Đô hộ phủ sĩ sư và người làm án ngục lại hàng năm như sau:

• Đô hộ phủ sĩ sư hưởng là 50 quan tiền, 100 bó lúa và các thứ cá muối v..v..
• Ngục lại mỗi người 20 quan tiền, 100 bó lúa
Việc ban bổng lộc nhằm để nuôi đức liêm khiết của họ. Theo tính toán và so sánh của Lê Văn Siêu, mức bổng lộc này là cao. Lê Văn Siêu dẫn căn cứ từ sách Lĩnh Ngoại đại đáp cho thấy, những viên quan lãnh trọng trách đi sứ nhà Tống năm 1156 mỗi ngày được hưởng 10 đồng để tiêu ở nước ngoài (ngoài ra được gạo); trong khi quan đô hộ phủ sĩ sư được hưởng 50 quan 1 năm tức là 1 ngày được trên 80 đồng, còn quan ngục lại tính ra mỗi ngày cũng được trên 30 đồng.

Theo ghi chép của sử sách, các quan làm việc trong kinh thành không có lương bổng, chỉ thỉnh thoảng được vua ban thưởng. Nhưng như vậy không có nghĩa là họ phải sống nghèo túng. Mỗi người trong số các quan có chức vụ đều có vài chục người hầu, nếu dùng không hết thì vẫn lĩnh lương theo danh nghĩa để nuôi những người hầu đó; ngoài ra, họ còn được hưởng thổ sản ở các địa phương trong nước tiến cống về và các tặng phẩm của vua[12]. Tuy không hưởng chế độ lương bổng thường xuyên, nhưng họ được hưởng chức tước và bổng lộc (ruộng đất và quyền thu thuế ruộng) và nhiều hình thức khác nên các quan lại thời Lý có cống hiến tốt, góp phần tạo nên sự hưng thịnh và duy trì triều đại nhà Lý trong hơn 200 năm.

Còn nữa...

admin
02-06-2014, 05:26 PM
Nhà Trần 1226 – 1400







Vương triều Trần tồn tại được 174 năm, gồm 12 đời vua (không kể Dương Nhật Lễ ở ngôi năm 1369). Họ Trần quê gốc ở hương Tức Mặc (ngoại thành Nam Định), từ nhiều đời sang làm nghề chài lưới ở huyện Long Hưng (Thái Bình), trở thành những hào trưởng có thế lực về kinh tế, quân sự và chính trị. Xuất thân từ tàng lớp bình dân quen nghề sông nước, họ Trần có truyền thống ưa thực dụng phóng khoáng, ít bị những lễ nghĩa Nho giáo khắt khe ràng buộc.Dưới thời Trần, văn hóa Đại Việt đã tạo được thế cân bằng Nam Á – Đông Á, trong đó vẫn nghiêng về gam màu Nam Á bản địa, đậm tố chất dân tộc.

http://thaicucthieugia.com/images/stories/vua_chua_xua/Vua_chua/quan%20li%20xa%2011.jpg


* Nền quân chủ quý tộc dòng họ
Trong việc gây dựng vương triều Trần, người kiến trúc sự nổi bật của dòng họ này là Trần Thủ Độ. Ông là con người của hành động, thực dụng, có tính quyết đoán, ưa chuộng võ nghệ, ít bị ảnh hưởng của Nho giáo. Một mặt, Trần Thủ Độ là người có nhiều khả năng, thủ đoạn, thậm chí không ngần ngại thực hiện những âm mưu tàn bạo (trong việc bức tử Lý Huệ Tông ở chùa Chân Giáo, dùng mưu tiêu diệt dòng họ Lý, buộc những người họ Lý phải đổi thành họ Nguyễn...). Mặt khác, ông là người công minh tận tuỵ, phò vua giúp nước, không vì tình riêng (đối với những người thân như vợ, anh ruột) mà quên mất phép công. Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên, Trần Thủ Độ cũng là vị tướng có tinh thần quyết chiến cao với câu nói khảng khái và dũng cảm : "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin Bệ hạ đừng lo". Để củng cố vương quyền, nhất là trong những thời kỳ đầu, nhà Trần đã thực hiện một nền chuyên chính - dân chủ dòng họ. Tầng lớp quý tộc tông thất nắm độc quyền lãnh đạo quốc gia. Các chức vụ chủ chốt trong triều đình (nhất là về võ quan, như các tướng lĩnh trong cuộc kháng chiến chống Nguyên) đều do các người họ hàng thân cận với nhà vua nắm giữ. Để đề phòng nạn ngoại thích, nhà Trần đã thực hiện chế độ hôn nhân đồng tộc. Nhiều nhà vua và vương hầu tôn thất nhà Trần đã lấy người trong họ hàng, đôi khi khá gần gũi (như Trần Thái Tông lấy chị dâu, Trần Thủ Độ lấy chị họ, Trần Quốc Tuấn lấy em họ). Mặt khác, các vua Trần cũng hết lòng thương yêu đùm bọc các vương hầu tôn thất, "xong buổi chầu cùng nhau ăn uống, có khi trời tối không về thì đặt gối dài chăn rộng cùng ngủ liền giường với nhau”. Trần Thánh Tông thường căn dặn : “Thiên hạ này là thiên hạ của tổ tông, người nối giữ cơ nghiệp tổ tông nên cùng anh em trong tông thất chung hưởng phú quý. . . Anh em là xương thịt rất thân, gặp lúc lo thì cùng lo, gặp lúc vui thì cũng vui...". Để bảo đảm tính thận trọng và sự an toàn trong việc kế thừa ngôi vua, cũng như để cho các nhà vua trẻ có thời gian tập dượt điều hành việc nước, nhà Trần đã thực hiện chế độ Thái Thượng hoàng. Thường là khi trên dưới 40 tuổi, các vua Trần đã nhường ngôi cho con, lên làm Thái Thượng hoàng,tiếp tục nắm quyền chính trị cùng với vua con trong một thời gian nữa,trước khì lui về nghỉ ngơi.

* Tổ chức chính quyền và quan chế :
Về các đơn vị hành chính, năm 1242, nhà Trần đã đổi 24 lộ thời Lý thành 12 lộ. Đó là các lộ Thiên Trường (Nam Định), Long Hưng (Thái Bình), Quốc Oai (Hà Tây), Bắc Giang (Bắc Ninh, Bắc Giang), Hải Đông (Quảng Ninh),Trường Yên (Ninh Bình), Kiến Xương (Thái Bình), Hồng (Hải Dương), Khoái (Hưng Yên), Thanh Hóa (Thanh Hoá), Hoàng Giang (Hà Nam), Lạng Giang (Lạng Sơn). Sau đó, còn có các phủ như phủ Thiên Trường (do hương Tức Mặc chuyển thành năm 1262), Tân Bình, Nghệ An. Dưới lộ, phủ có châu, huyện, xã, miền núi còn có sách, động. Năm 1307, nhà Trần đổi 2 châu Ô, Lý thu nạp của Champa thành châu Thuận và châu Hoá. Về quan chế, ở triều đình trung ương có các chức Tam thái, Tam thiếu (sư, phó, bảo), Tam tư (đồ, mã, không), Tướng quốc phần nhiều là hư hàm, mô phỏng nhà Tống. Các chức quan có trách nhiệm cụ thể trong triều là hành khiển, giúp việc sau có các thượng thư, thị lang. Về ngạch võ, có các chức Phiêu kỵ thượng tướng quân (dành riêng cho hoàng tử), Tiết chế tướng quân. Các chức vụ quan trọng trong triều lúc đầu phần lớn là do các quý tộc tông thất nắm giữ, sau do nhu cầu chuyển dần sang giới quan liêu. Bên cạnh các chức quan quản lý, đời Trần ngày càng phát triển các chức quan chuyên môn như Bí thư sảnh (phụ trách văn thư, thực lực), Quốc Tử Giám (giáo dục), các chức quan kinh tế như Chuyển vận sứ, Hà đê sứ, Đồn điền sứ, các chức quan văn hóa như Hàn lâm viện, Quốc sử viện, Thái y viện, Thái chúc ty (phụ trách việc cầu đảo, lễ nhạc). Ở cấp địa phương, có các chức an phủ chánh phó sứ, tri huyện, chuyển vận sứ, tuần sát, lệnh úy, chủ bạ, trông coi các việc hộ và hình ở địa phương. Chức quan cai trị kinh thành Thăng Long được tuyển chọn kỹ lưỡng với tiêu chuẩn cao, chức danh lấn lượt được gọi là Bình bạc ty, Đại an phủ sứ rồi Kinh sư đại doãn. Nguyễn Trung Ngạn là Kinh sư đại doãn nổi tiếng thời Trần Anh Tông. Ở Cấp cơ sở, nhà Trần đặt các chức đại, tiểu tư xã... hoặc có người kiêm 2, 3, 4 xã cùng xã chính. xã sử, xã giám, tất cả gọi là xã quan. Có khả năng đây là một hệ thống chính quyền cơ sở do nhân dân tự đề cử lên, được chính quyền nhà nước duyệt. Tầng lớp bô lão trong các làng xã giữ một vai trò quan trọng, thể hiện trong tinh thần hội nghị Diên Hồng. Quan lại đời Trần được tuyển dụng qua các phương thức : nhiệm tử (tập ấm), tuyển cử (giới thiệu và bảo lãnh), khoa cử (qua các kỳ thi). Nhà Trần cũng đã định ra lệ khảo duyệt (khảo khóa) các quan theo định kỳ. Vai trò của tầng lớp nho sĩ quan liêu trong bộ máy chính trị thời Trần lúc đầu là khiêm tốn, càng ngày càng gia tăng trong những thời kỳ sau. Tuy nhiên, nhà Trần chưa câu nệ về tiêu chuẩn khoa bảng, mà căn cứ chủ yếu vào thực tài, tinh thần đó đã được người đời sau khen ngợi.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/vua_chua_xua/Vua_chua/phan%20thanh%20gin.jpg
An Nam sứ bộ Phan Thanh Giản


* Tổ chức quân đội
Quân đội nhà Trần là một quân đội mạnh, thiện chiến, được huấn luyện tốt và được thử thách qua các cuộc kháng chiến. Có các loại quân: cấm quân bảo vệ kinh thành, quân địa phương các lộ và quân của các quý tộc gọi là vương hầu gia đồng, gia binh. Quân Tứ sương coi giữ 4 cửa thành, quân Thiên tử bảo vệ nhà vua được coi là tin cậy nhất, tuyển từ các lộ Thiên Trường và Long Hưng là nơi quê hương của nhà Trần. Trong kháng chiến chống Nguyên, Trần Quốc Toản đã đứng ra chỉ huy một đạo gia binh đông hàng nghìn người. Quân nhà Trần được phiên chế thành quân và đô (mỗi quân 2400 người), đông tới hàng chục vạn. Trong cuộc hội quân của Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp (1284), số quân lên tới 20 vạn người. Nhưng trong thời bình, số quân thường trực giảm nhiều qua chính sách "ngụ binh ư nông", cho quân sĩ luân phiên về cày ruộng. Nhà Trần tuyển quân từ các làng xã, kén chọn các người có sức khỏe. Quân lính được trang bị các loại chiến bào, áo da, sử dụng các loại pháo (tức máy bắn đá) và súng phun lửa gọi là "hỏa khí". Có nhiều loại thuyền chiến các cỡ, loại thuyền phổ biến có 30 mái chèo, có thuyền tới 100 tay chèo (gọi là các trao nhi). Quân nhà Trần rất thiện chiến trên sông nước, nhiều người giỏi tài bơi lặn (điển hình là Yết Kiêu). Nhà Trần đã cho lập Giảng Võ đường ở phía tây thành Thăng Long để huấn luyện quân sĩ. Bến Đông Bộ Đầu bên sông Hồng là nơi hội quân trong những buổi diễn tập lớn. Các binh thư dùng làm tài liệu huấn luyện tướng sĩ có các cuốn Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Trần Quốc Tuấn. Ông đã từng chủ trương : “Quân lính cần tinh nhuệ, không cần nhiều”.Tinh thần quyết tâm diệt giặc đã được thể hiện trong dòng chữ “Sát Thát” xăm lên cánh tay của các tướng sĩ trong cuộc kháng chiến chống Nguyên.

Còn nữa...

han_chungly
16-01-2015, 09:01 PM
lý tưởng...



http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/Tu_dien/biet%20thu.jpg
Lý tưởng
http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/Tu_dien/di%20-%20nhan%206.jpg
và những điều tưởng là có lý !!!!!!! ???????????

Khái niệm: Lí tưởng sống (lẽ sống) là cái đích của cuộc sống mà mỗi con người khát khao muốn đạt được.

Biểu hiện của lí tưởng sống
- luôn suy nghĩ và hành động không mệt mỏi
- luôn vươn tới sự hoàn thiện bản thân
- mong muốn cống hiến cho sự nghiệp chung

ý nghĩa của lí tưởng sống
- với bản thân: Tự hoàn thiện bản thân về mọi mặt.
- với xã hội: Góp phần thực hiện tốt những nhiệm vụ chung của xã hội. Và luôn được mọi người tôn trọng.[/COLOR]

Chân lý hay lý tưởng đều do con người qui định. Bảo đúng thì đúng mà mà nói sai tất là sai.

thieugia
05-05-2016, 11:09 PM
Bàn về DẤU CHẤM, DẤU PHẨY TRONG THƠ

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Hoang_So_Dan_Da/Mua_Hoa/hoa%20sa%204a.jpg


Năm 1985, khi chuẩn bị làm tuyển tập thơ Việt Nam 40 năm ( 1945 – 1985 ) nhà thơ Quang Huy gọi cho tôi, em mang ra cho anh mấy bài thơ viết về chiến trường được giải ấy để anh chọn một bài. Tôi mừng quýnh, vội phóng xe đạp từ cơ quan ra.

Tôi đưa ra 4 bài. Anh bảo, em thích bài nào? Tôi chưa biết trả lời thế nào vì câu ấy khó như ai hỏi người mẹ, trong đàn con của bà, bà thích đứa nào nhất. Cuối cùng anh em cũng thống nhất, chọn bài, anh mang về cho em. Khi tôi đưa bản chép tay cho anh, lướt qua một lượt, bỗng anh kêu lên như thất thanh: bỏ dấu phẩy đi em ơi. Không phẩy đã là ghê người rồi còn phẩy nữa, em bày ra rõ ràng quá từng món thế này, kinh ghê lắm. Câu anh Quang Huy nói như sau: Phút đói khuỵu chân ngủ ngồi, ngủ đứng / Phút bới tìm xương, thịt bạn đem chôn. Câu đầu thì không sao, nhưng đến món xương phẩy (,) thịt đồng đội tôi thì anh không chịu được. Tôi bảo, em quên, quen tay phẩy sai rồi anh ạ. Thế là tôi bỏ dấu phẩy ấy. Câu thơ đúng bản gốc là: Phút bới tìm xương thịt bạn đem chôn.

Năm 1969, khi Bác Hồ mất, trong bài thơ chảy cùng nước mắt của nhà thơ Thạch Quỳ có hai câu: Tiễn đưa trong tiếng súng gầm / Nước chưa hết giặc, Bác nằm có yên. Theo anh Thạch Quỳ kể trên báo văn nghệ thì anh mang hai câu ấy, hỏi các nhà thơ, nhà văn mà anh cho là nhạy cảm nhất : cuối câu thơ đó nên để dấu chấm hỏi (?) hay dấu chấm than (!). Kết quả, nhà thơ Xuân Quỳnh trả lời đúng theo anh Thạch Quỳ, khẳng định được cái duy nhất của cái dấu chấm ấy mà thôi. Nhà văn Trần Thuỳ Mai viết thư cho anh Thạch Quỳ: … “Nguy quá, em quá run. Ban đầu em định đặt dấu chấm hỏi (?) Nước chưa hết giặc, Bác nằm có yên? Nhưng em nghĩ, nếu đơn giản vậy thì tại sao lại nhiều người nói sai và cãi nhau. Hay là nó thế này: Nước chưa hết giặc, Bác nằm có yên…?! Thôi anh Quỳ ơi, em xin tình nguyện thi rớt chứ cuộc thi này kinh khủng quá!”

Kinh khủng thật! Trong văn học hay cả trong giao tiếp dấu chấm, dấu phẩy có giá trị rất lơn, nó làm cho ý nghĩ, thông tin chính xác, đúng ý người muốn truyền tải. Ngoài lời ra hay đúng hơn dấu chấm, dấu phẩy còn mang nguyên cảm xúc truyền cảm xúc đó cho người đọc để họ cảm xúc gần giống với người viết. Khi Nguyễn Du viết: Đau đớn thay phận đàn bà! Nếu không có dấu chấm than sau câu thì sao nhỉ. Tôi cảm thấy câu thơ bị mất đi một nửa!


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Hoang_So_Dan_Da/Mua_Hoa/phng%203.jpg

Nhưng rồi, cái quan trọng của dấu chấm, dấu phẩy cứ theo tôi đi suốt đến giờ. Nếu không có thiên nhiên và các mối quan hệ giữa thiên nhiên với con người và con người với con người trong việc tìm cái ăn, cái mặc… liệu có thơ không? Thơ tất nhiên phải phản ánh các mối quan hệ đó, hay đúng hơn các quan hệ đó đã làm xuất hiện buồn, vui, hờn giận…trong thế giới Người mà thơ hướng tới. Nhưng tình cảm thoát ra đó đã qua cảm nhận của nhà thơ, nó không còn nguyên xi nữa. Nếu không có bờ, liệu có ao, suối, sông, biển không ? Trong thực tế, ai cũng biết là không. Tôi liên tưởng các dấu chấm, dấu phẩy như những cái bờ ấy. Nó phân định được các khái niệm chính xác. Nhưng nói sông, suối thì ta nghĩ ngoài bờ ra nó phải dài, biển phải rộng, khác với ao, hồ. Nhưng mặt khác, những ao, hồ, sông,suối…khi đã thành tâm thức trong trí óc và trái tim nhà thơ thì một mặt nó vẫn ao, hồ, sông, suối…mặt khác nó được tái tạo lại không còn như nó vốn có. Nó đã được nhận thức qua cảm nhận của nhà thơ đang hướng về phản ánh các trạng thái tình cảm trong mối quan hệ Người rồi. Đôi ta lên thác, xuống ghềnh / Em ra đứng mũi cho anh chịu sào; Trăm năm dù lỗi hẹn hò / Cây đa, bến cũ con đò khác đưa (ca dao VN); Anh không xứng là biển xanh ( Xuân Diệu ); Chỉ có biển mới biết / Thuyền đi đâu, về đâu ( Xuân Quỳnh ) Sóng vỗ tràng giang buồn điệp điệp ( Huy Cận)…vv…vv. Thác, ghềnh, con đò, biển, thuyền, sóng…đâu còn nguyên nghĩa nữa. Những danh từ này đều định nghĩa được trong thực tế. Ấy mà khi nó vào thơ thì không nhà từ điển nào định nghĩa được!


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Hoang_So_Dan_Da/Mua_Hoa/nh%20ma%20ng.gif

Trong nhiều trường hợp, với thơ, tôi lại thấy, các dấu chấm, dấu phẩy lại làm cho câu thơ bị đóng khung lại, mà bản chất thơ là tràn. Các dấu chấm, dấu phẩy đó giống như bờ ao, hồ, sông, suối cụ thể trong thực tế. Nhưng thơ giống như khi mưa lũ băng đồng, không còn bờ để mà phân biệt rõ ràng được nữa. Ngôn ngữ thơ vừa rõ ràng vừa như không thể rõ ràng được. Có lẽ đó là lý do mà một bài thơ mỗi người đọc một cách vì bản chất thơ là đa nghĩa, đa tình. Khi tôi được mời viết lời giới thiệu cho tập thơ đầu tay Kiều Mây của tác giả trẻ Huỳnh Thuý Kiều, tôi phải đọc kỹ, cố gắng hiểu ý tác giả. Đến giờ tôi vẫn bị ám ảnh mấy câu thơ: Quầy cau trắng nghiêng sương miền tóc mẹ / Sóng dập dềnh chao điệu lý xàng xê / Hò cống liêu ai cười, ai nói ? Hoa mù u lọt thỏm bóng chiều. Với tôi, đây là những câu thơ rất đẹp và chảy tràn bờ. Tôi băn khoăn về dấu hỏi ở câu: Hò cống liêu ai cười, ai nói ? Cái dấu hỏi này làm cho câu thơ bị be bờ, cụ thể hoá ngăn cản sự tràn mà tôi đang nói đó. Tôi định gọi cho tác giả nói ý mình, nếu tác giả nghe được thì câu thơ còn vọng xa hơn. Nhưng rất tiếc, tôi không liên lạc được mà sáng sớm mai tôi đã đi hội thảo khoa học ở Soeul rồi. Khi về sách đã ra, đến giờ tôi vẫn băn khoăn, nếu không có dấu hỏi kia liệu câu thơ có hay hơn không?

VƯƠNG CƯỜNG

thieugia
04-04-2017, 10:21 AM
Cách Xưng - Hô của người xưa
Bài này shaolaojia sưu tầm trên Internet nói về cách thức xưng hô, sự phân chia vai vế trong xã hội xưa để mọi người cùng tham khảo. Việc này trông vậy nhưng rất hữu ích cho các bạn trong việc làm thơ, nhất là thơ mang tính hoài cổ.
I. Cách xưng hô trong hoàng tộc
- Cha vua (người cha chưa từng làm vua): Quốc lão
- Cha vua (người cha đã từng làm vua rồi truyền ngôi cho con): Thái thượng hoàng
- Mẹ vua (chồng chưa từng làm vua): Quốc mẫu
- Mẹ vua (chồng đã từng làm vua): Thái hậu
- Anh trai vua: Hoàng huynh
- Chị gái vua: Hoàng tỉ
- Vua: Hoàng thượng
- Vua của đế quốc (thống trị các nước chư hầu): Hoàng đế
- Em trai vua: Hoàng đệ
- Em gái vua: Hoàng muội
- Bác vua : Hoàng bá
- Chú vua : Hoàng thúc
- Vợ vua : Hoàng hậu/Hoàng hậu nương nương
- Cậu vua : Quốc cữu
- Cha vợ vua : Quốc trượng
- Con trai vua : Hoàng tử
- Con trai vua (người được chỉ định sẽ lên ngôi): Đông cung thái tử/Thái tử
- Vợ hoàng tử : Hoàng túc
- Vợ Đông cung thái tử : Hoàng phi
- Con gái vua : Công chúa
- Con rể vua : Phò mã
- Con trai trưởng vua chư hầu : Thế tử
- Con gái vua chư hầu : Quận chúa
- Chồng quận chúa : Quận mã
- Vua tự xưng :
+ quả nhân: dùng cho tước nào cũng được.
+ trẫm: chỉ cho Hoàng đế/Vương.
+ cô gia: chỉ dùng cho Vương trở xuống.
- Vua gọi các quần thần : chư khanh, chúng khanh
- Vua gọi cận thần (được sủng ái) : ái khanh
- Vua gọi vợ (được sủng ái) : ái phi
- Vua gọi vua chư hầu : hiền hầu
- Vua, hoàng hậu gọi con (khi còn nhỏ) : hoàng nhi
- Các con tự xưng với vua cha: nhi thần
- Các con gọi vua cha: phụ hoàng
- Các con vua gọi mẹ: mẫu hậu
- Các quan tâu vua : bệ hạ, thánh thượng
- Các thê thiếp (bao gồm cả vợ) khi nói chuyện với vua xưng là : thần thiếp
- Hoàng thái hậu nói chuyện với các quan xưng là : ai gia
- Các quan tự xưng khi nói chuyện với vua: hạ thần
II. Cách xưng hô giữa quan với quan, quan với Dân.
- Các quan tự xưng khi nói chuyện với quan to hơn (hơn phẩm hàm) : hạ quan
- Các quan tự xưng với dân thường: bản quan
- Dân thường gọi quan: đại nhân
- Dân thường khi nói chuyện với quan xưng là: thảo dân
- Người làm các việc vặt ở cửa quan như chạy giấy, dọn dẹp, đưa thư, v.v… : nha dịch/nha lại/sai nha
- Con trai nhà quyền quý thì gọi là : công tử
- Con gái nhà quyền quý thì gọi là : tiểu thư
- Đầy tớ trong các gia đình quyền quý gọi ông chủ là : lão gia
- Đầy tớ trong các gia đình quyền quý gọi bà chủ là : phu nhân
- Đầy tớ trong các gia đình quyền quý gọi con trai chủ là : thiếu gia
- Đầy tớ trong các gia đình quyền quý tự xưng là (khi nói chuyện với bề trên): tiểu nhân
- Đứa con trai nhỏ theo hầu những người quyền quý thời phong kiến : tiểu đồng
- Các quan thái giám khi nói chuyện với vua, hoàng hậu xưng là : nô tài
- Cung nữ chuyên phục dịch xưng là : nô tì
- Ngoài ra, đối với các quan còn có kiểu thêm họ vào trước chức tước, thành tên gọi. Ví dụ : Quách công công, Lý tổng quản, Lưu hoàng thúc…
III. Xưng hô khi nói chuyện với người khác:
- Tôi (cho phái nam)= Tại hạ/Tiểu sinh/Mỗ/Lão phu (nếu là người già)/Bần tăng (nếu là nhà sư)/Bần đạo (nếu là đạo sĩ)/Lão nạp (nếu là nhà sư già)
- Tôi (cho phái nữ) = Tại hạ/Tiểu nữ//Lão nương (nếu là người già)/Bổn cô nương/Bổn phu nhân (người đã có chồng)/Bần ni (nếu là ni cô)/Bần đạo (nếu là nữ đạo sĩ)
- Anh/Bạn (ý chỉ người khác) = Các hạ/Huynh đài/Công tử/Cô nương/Tiểu tử/Đại sư (nếu nói chuyện với nhà sư)/Chân nhân (nếu nói chuyện với đạo sĩ)
- Anh = Huynh/Ca ca/Sư huynh (nếu gọi người cùng học một sư phụ)
- Anh (gọi thân mật)= Hiền huynh
- Em trai = Đệ/Đệ đệ/Sư đệ (nếu gọi người cùng học một sư phụ)
- Em trai (gọi thân mật) = Hiền đệ
- Chị = Tỷ/Tỷ tỷ/Sư tỷ (nếu gọi người cùng học một sư phụ)
- Chị (gọi thân mật) = Hiền tỷ
- Em gái = Muội/Sư muội (nếu gọi người cùng học một sư phụ)
- Em gái (gọi thân mật) = Hiền muội
- Chú = Thúc thúc/Sư thúc (nếu người đó là em trai hoặc sư đệ của sư phụ)
- Bác = Bá bá/Sư bá (Nếu người đó là anh hoặc sư huynh của sư phụ)
- Cô/dì = A di (Nếu gọi cô ba thì là tam di, cô tư thì gọi là tứ di….)
- Dượng (chồng của chị/em gái cha/mẹ) = Cô trượng
- Thím/mợ (vợ của chú/cậu) = Thẩm thẩm (Nếu gọi thím ba thì là tam thẩm, thím tư thì gọi là tứ thẩm…)
- Ông nội/ngoại = Gia gia
- Ông nội = Nội tổ
- Bà nội = Nội tổ mẫu
- Ông ngoại = Ngoại tổ
- Bà ngoại = Ngoại tổ mẫu
- Cha = Phụ thân
- Mẹ = Mẫu thân
- Anh trai kết nghĩa = Nghĩa huynh
- Em trai kết nghĩa = Nghĩa đệ
- Chị gái kết nghĩa = Nghĩa tỷ
- Em gái kết nghĩa = Nghĩa muội
- Cha nuôi = Nghĩa phụ
- Mẹ nuôi = Nghĩa mẫu
- Anh họ = Biểu ca
- Chị họ = Biểu tỷ
- Em trai họ = Biểu đệ
- Em gái họ = Biểu muội
- Gọi vợ = Hiền thê/Ái thê/Nương tử
- Gọi chồng = Tướng công/Lang quân
- Anh rể/Em rể = Tỷ phu/Muội phu
- Chị dâu = Tẩu tẩu
- Cha mẹ gọi con cái = Hài tử/Hài nhi hoặc tên
- Gọi vợ chồng người khác = hiền khang lệ (cách nói lịch sự)
IV. Khi nói chuyện với người khác mà nhắc tới người thân của mình:
# Cha mình thì gọi là gia phụ
# Mẹ mình thì gọi là gia mẫu
# Anh trai ruột của mình thì gọi là gia huynh/tệ huynh (cách nói khiêm nhường)
# Em trai ruột của mình thì gọi là gia đệ/xá đệ
# Chị gái ruột của mình thì gọi là gia tỷ
# Em gái ruột của mình thì gọi là gia muội
# Ông nội/ngoại của mình thì gọi là gia tổ
# Vợ của mình thì gọi là tệ nội/tiện nội
# Chồng của mình thì gọi là tệ phu/tiện phu
# Con của mình thì gọi là tệ nhi
V. Khi nói chuyện với người khác mà nhắc tới người thân của họ:
# Sư phụ người đó thì gọi là lệnh sư
# Cha người đó là lệnh tôn
# Mẹ người đó là lệnh đường
# Cha lẫn mẹ người đó một lúc là lệnh huyên đường
# Con trai người đó là lệnh lang/lệnh công tử
# Con gái người đó là lệnh ái/lệnh thiên kim
# Anh trai người đó thì gọi là lệnh huynh
# Em trai người đó thì gọi là lệnh đệ
# Chị gái người đó thì gọi là lệnh tỷ
# Em gái người đó thì gọi là lệnh muội
VI. Xưng hô trong gia đình:
Ông bà tổ chết rồi xưng Hiển cao tổ khảo/tỷ
Ông bà tổ chưa chết xưng Cao tổ phụ/mẫu cháu xưng Huyền tôn
Ông bà cố chết rồi xưng Hiển tằng tổ khảo/tỷ
Ông bà có chưa chết xưng Tằng tổ phụ/mẫu cháu xưng Tằng tôn
Ông bà nội chết rồi thời xưng Hiẻn tổ khảo/tỷ
Ông bà nội chưa chết thì xưng Tổ phụ/mẫu cháu xưng nội tôn
Cha mẹ chết rồi thì xưng: Hiển khảo, Hiền tỷ.chưa chết xưng thân Phụ/mẫu (xem thêm phần cha kế mẹ kế)
Cha chết rồi thì con tự xưng là: Cô tử, cô nữ (cô tử: con trai, cô nữ: con gái).
Mẹ chết rồi thì con tự xưng là: Ai tử, ai nữ.
Cha mẹ đều chết hết thì con tự xưng là: Cô ai tử, cô ai nữ.
Cha ruột: Thân phụ.
Cha ghẻ: Kế phụ.
Cha nuôi: Dưỡng phụ.
Cha đỡ đầu: Nghĩa phụ.
Con trai lớn (con cả thứ hai): Trưởng tử, trưởng nam.
Con gái lớn: Trưởng nữ.
Con kế. Thứ nam, thứ nữ.
Con út (trai): Quý nam, vãn nam. Gái: quý nữ, vãn nữ.
Mẹ ruột: Sanh mẫu, từ mẫu.
Mẹ ghẻ: Kế mẫu: Con của bà vợ nhỏ kêu vợ lớn của cha là má hai: Đích mẫu.
Mẹ nuôi: Dưỡng mẫu.
Mẹ có chồng khác: Giá mẫu.
Má nhỏ, tức vợ bé của cha: Thứ mẫu.
Mẹ bị cha từ bỏ: Xuất mẫu.
Bà vú: Nhũ mẫu.
Chú, bác vợ: Thúc nhạc, bá nhạc.
Cháu rể: Điệt nữ tế.
Chú, bác ruột: Thúc phụ, bá phụ.
Vợ của chú : Thiếm, Thẩm.
Cháu của chú và bác, tự xưng là nội điệt.
Cha chồng: Chương phụ.
Dâu lớn: Trưởng tức.
Dâu thứ: Thứ tức.
Dâu út: Quý tức.
Cha vợ (sống): Nhạc phụ, (chết): Ngoại khảo.
Mẹ vợ (sống): Nhạc mẫu, (chết): Ngoại tỷ.
Rể: Tế.
Chị, em gái của cha, ta kêu bằng cô: Thân cô.
Ta tự xưng là: Nội điệt.
Chồng của cô: Dượng: Cô trượng, tôn trượng.
Chồng của dì: Dượng: Di trượng, biểu trượng.
Cậu, mợ: Cựu phụ, cựu mẫu. Mợ còn gọi là: Câm.
Còn ta tự xưng là: Sanh tôn.
Cậu vợ: Cựu nhạc.
Cháu rể: Sanh tế.
Vợ: Chuyết kinh, vợ chết rồi: Tẩn.
Ta tự xưng: Lương phu, Kiểu châm.
Vợ bé: Thứ thê, trắc thất.
Vợ lớn: Chánh thất.
Vợ sau (vợ chết rồi cưới vợ khác): Kế thất.
Anh ruột: Bào huynh.
Em trai: Bào đệ, cũng gọi: Xá đệ.
Em gái: Bào muội, cũng gọi: Xá muội
Chị ruột: Bào tỷ.
Anh rể: Tỷ trượng.
Em rể: Muội trượng.
Anh rể: Tỷ phu.
Em rể: Muội trượng, còn gọi: Khâm đệ.
Chị dâu: Tợ phụ, Tẩu, hoặc tẩu tử.
Em dâu: Đệ phụ, Đệ tức.
Chị chồng: Đại cô.
Em chồng: Tiểu cô.
Anh chồng: Phu huynh: Đại bá.
Em chồng: Phu đệ, Tiểu thúc.
Chị vợ: Đại di.
Em vợ (gái): Tiểu di tử, Thê muội.
Anh vợ: Thê huynh: Đại cựu: Ngoại huynh.
Em vợ (trai): Thê đệ, Tiểu cựu tử.
Con gái đã có chồng: Giá nữ.
Con gái chưa có chồng: Sương nữ.
Cha ghẻ, con tự xưng: Chấp tử.
Tớ trai: Nghĩa bộc.
Tớ gái: Nghĩa nô.
Cha chết trước, sau ông nội chết, tôn con của trưởng tử đứng để tang, gọi là: Đích tôn thừa trọng.
Cha, mẹ chết chưa chôn: Cố phụ, cố mẫu.
Cha, mẹ chết đã chôn: Hiền khảo, hiển tỷ.
Mới chết: Tử.
Đã chôn: Vong.
Anh em chú bác ruột với cha mình: Đường bá, đường thúc, đường cô, mình tự xưng là: Đường tôn.
Anh em bạn với cha mình: Niên bá, quý thúc, lịnh cô. Mình là cháu, tự xưng là: Thiểm điệt, lịnh điệt.
Chú, bác của cha mình, mình kêu: Tổ bá, tổ thúc, tổ cô.
Mình là cháu thì tự xưng là: Vân tôn
VII. Một số từ khác:
* Gọi nhà của mình theo cách khiêm nhường lúc nói chuyện với người khác: tệ xá/hàn xá
Nói về chỗ ở của người thì dùng: quí sở/quí cư
(chỉ cần nói “tệ xá”, chớ không cần nói “tệ xá của tôi”; chỉ cần nói “quí sở”, chớ không cần nói “quí sở của ngài”)
* Đứa bé thì gọi là tiểu hài nhi… bé gái thì gọi là nữ hài nhi… bé trai thì gọi là nam hài nhi
* Khách sạn, nhà hàng, ngân hàng: quán trọ, tửu điếm, tiền trang
* Bổ đầu: người đứng đầu tổ chức truy lùng tội phạm ở huyện thời xưa
* Bộ khoái: người ở nha môn chuyên đi bắt người thời xưa, bây giờ là bộ phận cán bộ chuyên đi bắt các đối tượng phạm tội, ngườ lệnh truy nã của cơ quan Điều tra.