PDA

View Full Version : Tuyển tập những bài thơ, bài hát hay chấn động...



fangzi
19-06-2013, 01:14 PM
Lời nói đầu:

1. Hoan Hô Chiến Sĩ Điện Biên

I

Tin về nửa đêm
Hỏa tốc hỏa tốc
Ngựa bay lên dốc
Đuốc chạy sáng rừng
Chuông reo tin mừng
Loa kêu từng cửa
Làng bản đỏ đèn, đỏ lửa...

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp!
Sét đánh ngày đêm
xuống đầu giặc Pháp!
Vinh quang Tổ quốc chúng ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
Vinh quang Hồ Chí Minh,
Cha của chúng ta ngàn năm sống mãi
Quyết chiến quyết thắng, cờ đỏ sao vàng vĩ đại

Kháng chiến ba nghìn ngày
Không đêm nào vui bằng đêm nay
Đêm lịch sử Điện Biên sáng rực
Trên đất nước, như
Huân chương trên ngực
Dân tộc ta dân tộc anh hùng!

Điện Biên vời vợi nghìn trùng
Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta
Đêm nay bè bạn gần xa
Tin về chắc cũng chan hòa vui chung.

II

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi,
ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn!
Những đồng chí thân chôn làm
giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão,
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt, còn ôm...
Những bàn tay xẻ núi lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta
lên chiến trường tiếp viện

Và những chị, những anh ngày
đêm ra tiền tuyến
Mấy tầng mây gió lớn mưa to
Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn xương tan, thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh...
Hỡi các chị, các anh
Trên chiến trường ngã xuống
Máu của anh chị, của chúng ta
không uổng
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng...

III

Lũ chúng nó phải hàng, phải chết
Quyết trận này quét sạch Điện Biên!
Quân giặc điên
Chúng bay chui xuống đất
Chúng bay chạy đằng trời?
Trời không của chúng bay
Đạn ta rào lưới sắt!
Đất không của chúng bay
Đai thép ta thắt chặt!

Của ta trời đất đêm ngày
Núi kia, đồi nọ, sông này của ta
Chúng bay chỉ một đường ra
Một là tử địa, hai là tù binh
Hạ súng xuống rùng mình run rẩy
Nghe pháo ta lừng lẫy thét gầm!
Nghe trưa nay tháng năm, mùng bảy
Trên đầu bay thác lửa hờn căm
Trông: Bốn mặt lũy hầm sụp đổ
Tướng quân bay lố nhố cờ hàng
Trông: Chúng ta cờ đỏ sao vàng
Rực trời đất Điện Biên toàn thắng!
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!

Tiếng reo núi vọng sông rền
Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ
Bác đang cúi xuống bản đồ
Chắc là nghe tiếng quân hò quân reo...
Từ khi vượt núi qua đèo
Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày
Tin về mừng thọ đêm nay
Chắc vui lòng Bác giờ này đợi trông!

IV

Đồng chí Phạm Văn Đồng
Ở bên đó, chắc đêm nay không ngủ
Tin đây Anh, Điện Biên Phủ hoàn thành
Ngày mai, vào cuộc đấu tranh
Nhìn xuống mặt bọn Bi-đôn, Smít *
Anh sẽ nói: "Thực dân, phát xít"
Đã tàn rồi!
Tổ quốc chúng tôi
Muốn độc lập hòa bình trở lại
Không muốn lửa bom đổ
xuống đầu con cái
Nước chúng tôi và nước các anh
Nếu còn say máu chiến tranh
Ở Việt Nam, các anh nên nhớ
Tre đã thành chông, sông là sông lửa
Và trận thắng Điện Biên
Cũng mới là bài học đầu tiên!"

Tố Hữu
(5-1954)

fangzi
20-06-2013, 04:26 AM
Tây Tiến

Tác giả: Quang Dũng
Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi



https://www.youtube.com/watch?v=0Yej00PLqNY&feature=player_detailpage#t=29s

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm



https://www.youtube.com/watch?v=-RivierAyeY&feature=player_detailpage#t=23s

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

-- Phù Lưu Chanh, 1948

fangzi
20-06-2013, 04:32 AM
Bên kia sông Đuống
Tác giả: Hoàng Cầm


http://enviet.files.wordpress.com/2010/05/songduong.jpg?w=450&h=281
Tác giả Hoàng Cầm

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Tràm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn

Đêm buông xuống bên dòng sông Đuống
- Con là ai? – Con ở đâu về?
Hé một cánh liếp
- Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng

Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu buổi trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
“À ơi… cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù”
Tiếng em cắt cỏ hôm xưa
Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay
“Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu…”
Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau
Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười

Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.

(Việt Bắc, tháng 4-1948)

Shaolaojia
20-06-2013, 10:54 AM
Lúc tui còn nhỏ, đâu hồi tiểu học gì đó nhớ học bài thơ này, bài thơ "Thằng Tây" tuy ngắn nhưng rất hay không biết của tác giả nào. Nay chép ra để mọi người cùng thưởng lãm.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/Ve_Chien_tranh/lnh%20m.gif

Thằng Tây

Tác giả: Khuyết Danh


http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/Ve_Chien_tranh/dien%20bien%20phu%20.jpg
Thằng tây chớ cậy xác dài !

Thằng Tây chớ cậy xác dài,
Chúng tao người nhỏ nhưng dai hơn mày.
Thằng Tây chớ cậy béo quay,
Mày thức hai buổi là mày bở hơi.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/Ve_Chien_tranh/dien-bien-phu-tren-khong%201.jpg
Thằng Tây chớ cậy béo quay

Chúng tao thức bốn đêm rồi,
Ăn cháo ba bữa chạy mười chín cây.
Bây giờ mới gặp mày đây,
Sức tao vẫn đủ bắt mày hàng tao.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/Ve_Chien_tranh/chin%20thng.jpg
Chúng tao người nhỏ nhưng dai hơn mày. Thế mới tài !



Shaolaojia: Hi hi, chỉ mấy câu ngắn ngủn nhưng có thể cho chúng ta thấy khái quát được tình hình kinh tế (quân lương) của đất nước vào thời điểm chống Pháp là hết sức khó khăn. Tuy thiếu thốn vật chất nhưng tinh thần của toàn dân lại lạc quan, phấn chấn. Sĩ khí hăng say.
Đói như thế mà vẫn đủ sức "bắt Tây"... Thế mới tài !

thieugia
20-06-2013, 12:12 PM
5. Quê Hương

Năm 1960, trên chiến khu ở Khánh Hoà, Giang Nam nhận được tin dữ, đau xé lòng: Vợ anh (chị Phạm Thị Chiều) và con gái đầu lòng của anh chị mới hơn một tuổi (cháu Trang) đã bị Mỹ - nguỵ sát hại trong tù. Bài thơ Quê hương của Giang Nam ra đời trong hoàn cảnh ấy. Viết liền mạch. Đúng là tâm trạng: “Đau xé lòng anh, chết nửa con người!”. Viết xong, Giang Nam trình lên đồng chí Nguyễn Xuân Hữu (Bảy Hữu), Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hoà hồi đó, “xin ý kiến”. Anh Bảy trầm ngâm: “Hay lắm! Nhưng hơi buồn... Cậu ráng giữ tinh thần và ý chí tiến công. Hy sinh, mất mát là chuyện bình thường trong chiến tranh. Mình tin vào Giang Nam lắm đó!”. Bản thảo bài thơ theo đường giao liên Trường Sơn đi dần ra Bắc. Mãi 11 tháng sau, vào năm 1961, Giang Nam mới được đọc bài thơ Quê hương in trên báo Văn nghệ gửi từ Hà Nội vào. Tác giả nhận ngay được giải nhì về thơ. Bởi nó rất hay, hay đến thật lòng, hay da diết. Nhưng, số phận không chỉ mỉm cười riêng với thơ. Năm sau (1962), có ai ngờ, vợ con anh vẫn còn sống và thoát ra khỏi ngục tù của Mỹ - ngụy. Năm 1964, tổ chức bố trí cho chị Chiều và cháu Trang từ Sài Gòn - Chợ Lớn lên thăm anh ở căn cứ Trung ương Cục. Song, một lần nữa, thật nghiệt ngã, chị cùng con gái lại bị địch bắt bên dòng sông Vàm Cỏ Đông. Lần này, chị và cháu ở tù cùng với chị Châu (vợ anh Lê Hồng Tư, tức chị X. trong tác phẩm “Sống như anh” của Trần Đình Vân), chị Quyên (vợ liệt sĩ - Anh hùng Nguyễn Văn Trỗi) và một số đồng chí nữ trung kiên khác. Hơn 10 năm sau, khoảng giữa năm 1973, anh chị và cháu gái mới lại được gặp nhau. Ngỡ không thể nhận ra được nhau nữa, ngay trên Củ Chi - đất thép Thành Đồng.

Chiến tranh, cả những hy sinh, mất mát đã lùi xa. Nhưng, bài thơ Quê hương vẫn da diết đọng lại trong tâm khảm người đọc nhiều thế hệ. Mãi đến năm 1998, nhớ chuyện cũ, Giang Nam vẫn còn viết: “… Ôi con cò, con vạc. Nhớ thương bay mãi đến bây giờ…”. Tuổi mới yêu - dù ở thế hệ nào - rồi cũng bắt nhịp được trái tim mình vào tứ thơ “cười khúc khích” - “vẫn khúc khích cười, khi tôi hỏi nhỏ”. Quả thật, đời thường và sự nghiệp của anh đều hạnh phúc. Chỉ riêng một bài thơ như vậy, dường như cũng đã nói đủ về Giang Nam…
----------------------------------------------
Nhà thơ Giang Nam tên thật là Nguyễn Sung, sinh năm 1929, quê xã Ninh Bình (Ninh Hoà, Khánh Hoà), nay ở tại 46, Yersin, TP. Nha Trang. Ông tham gia cách mạng từ tháng 7-1945. Trước khi về hưu, nhà thơ từng giữ nhiều cương vị quan trọng như Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam, đại biểu Quốc hội, Tổng Biên tập Báo Văn nghệ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh. Nhưng, cả đến bây giờ, suy ngẫm lại cuộc dời mình, Giang Nam cũng không ngờ có điều quan trọng, khá bất ngờ, đã đẩy ông đi tới trên con đường thơ cách mạng, trở thành một trong hai người vinh dự được nhận Giải thưởng Nhà nước đợt 1 về Văn học - Nghệ thuật đầu tiên ở Khánh Hoà.

Bài thơ

Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
"Ai bảo chăn trâu là khổ''
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao.



https://www.youtube.com/watch?v=mGLbvE77XbY&feature=player_detailpage&t=82

Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được...
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích...

Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ, tôi đi
Cô bé nhà bên (có ai ngờ!)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)

Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi...
Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)

Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em để yên trong tay tôi nóng bỏng...
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi, quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!

Đau xé lòng anh, chết nửa con người!
Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn, roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.

Giang Nam

thieugia
20-06-2013, 01:43 PM
Đi đi em!

Tác giả: Tố Hữu

Rứa là hết! Chiều ni em đi mãi
Còn mong chi ngày trở lại Phước ơi!
Quên làm sao, em hỡi, lúc chia phôi
Bởi khác cảnh, hai đứa mình nghẹn nói.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhvui/chic%20nn%20qu%20hng%20.jpg

Em len lén, cúi đầu, tay xách gói
Áo quần dơ, cắp chiếc nón le te
Vẫn chưa thôi, lời day dứt nặng nề
Hàng dây tiếng rủa nguyền trên miệng chủ!

Biết không em, nỗi lòng anh khi đó?
Nó tơi bời, đau đớn lắm em ơi!
Bàn chân em còn luyến tiếc không rời
Nơi em đã cùng anh vui phút chốc.

Những đêm tối, anh viết bài em học
Cho em quên bớt nỗi nhọc ban ngày
Nơi bao nhiêu âu yếm tuổi thơ ngây
Anh đã trút cho lòng em tất cả!

Em ngoái cổ nhìn anh: ta chỉ trả
Thầm cho nhau đôi mắt ướt li sầu!
Biết làm sao, em hỡi, nói cùng nhau?
Tiếng chưởi mắng vẫn phun hoài, nhục nhã!

Thì em hỡi! Đi đi, đừng tiếc nữa!
Ngại ngùng chi? Nấn ná chỉ thêm phiền!
Đi đi em, can đảm bước chân lên
Ừ đói khổ phải đâu là tội lỗi!

Anh mới hiểu: càng ngậm ngùi khổ tủi
Càng dày thêm uất hận của lòng ta
Nuôi đi em, cho đến lớn, đến già
Mầm hận ấy, trong lồng xương ống máu
Để đêm nóng mai kia hồn chiến đấu
Mà hôm nay anh đã nhóm trong lòng!

Huế, tháng 2 - 1938

thieugia
20-06-2013, 02:00 PM
ĐÔI DÉP.

https://encrypted-tbn1.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcS0x2i_mJ2Lzaroi10sWrkLQnJOX-Mf9sy-xpdCr1jkKuSpRWT15w
Nguyễn Trung Kiên

Bài thơ đầu anh viết tặng em

Là bài thơ anh viết về đôi dép

Khi nỗi nhớ trong lòng da diết

Những vật tầm thường cũng viết thành thơ

Hai chiếc dép kia gặp gỡ bao giờ

Có yêu nhau đâu mà chẳng rời nửa bước

Cùng gánh vác những nẻo đường xuôi ngược

Lên thảm nhung, xuống cát bụi, cùng nhau


https://encrypted-tbn2.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcQhFmBu5YwM89Gdim1LUq5tXeLTU9G7y h-LrJGEIu7qAhjB6qAxvw
Có yêu nhau đâu mà chẳng rời nửa bước...

Cùng bước, cùng mòn, không kẻ thấp người cao

Cùng chia sẻ sức người chà đạp

Dẫu vinh nhục, không đi cùng người khác

Số phận chiếc nầy phụ thuộc ở chiếc kia.

Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi

Mọi thay thế sẽ trở thành khập khiễng

Giống nhau lắm nhưng người đi sẽ biết

Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu.

Cũng như mình trong những phút vắng nhau

Bước hụt hẫng cứ nghiêng về một phía

Dẫu bên cạnh đã có người thay thế

Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh.

Đôi dép vô tư khắng khít bước song hành

Chẳng thề nguyện mà không hề giả dối

Chẳng hứa hẹn mà không hề phản bội

Lối đi nào cũng có mặt cả đôi.

Không thể thiếu nhau trên mọi bước đời

Dẫu mỗi chiếc ở một bên phải, trái

Nhưng anh yêu em bởi những điều ngược lại

Gắn bó đời nhau một bước đi chung.

Hai mảnh đời thầm lặng bước song song

Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc

Chỉ còn một là không còn gì hết

Nếu không tìm được chiếc thứ hai kia.

Tác giả: Nguyễn Trung Kiên -

thieugia
20-06-2013, 02:18 PM
Phút trải lòng hiếm hoi của tác giả bài thơ “Đôi dép”


(Nguoiduatin.vn) - Sau những “tam sao thất bản” quanh bản quyền tác giả bài thơ Đôi dép, chúng tôi có dịp gặp mặt cha đẻ của món ăn tinh thần nổi tiếng ấy.

Trước mắt chúng tôi vẫn còn nguyên sự khắc khổ của một người thợ cơ khí. Hai từ nhà thơ đối với anh là thứ gì đó quá xa xỉ bởi anh tự nhận mình sinh ra chỉ để làm một người lao động bình thường. Một người thuộc lớp bình dân theo đúng nghĩa nhất của từ này. Anh là Nguyễn Trung Kiên, tác giả bài thơ Đôi dép.

Chuyện đời của “nhà thơ” bất đắc dĩ

Ngôi nhà nhỏ không mấy sáng sủa của gia đình Nguyễn Trung Kiên vẫn còn ngổn ngang sắt thép, những ô cửa lớn bé đang chờ anh thợ cơ khí hoàn thành để giao cho gia chủ. Chúng tôi thật sự ngạc nhiên bởi con người của một “nhà thơ” từng gây tiếng vang lớn trong diễn đàn tuổi mới lớn về bài thơ Đôi dép. Anh không nhận mình là nhà thơ mà cũng phải thôi vì thơ văn đối với anh chỉ là những giây phút ngẫu hứng sáng tác, suy ngẫm sự đời.


http://media.nguoiduatin.vn/public/data/images/Bandocviet/108/nguoiduatin-1120643324-H1.jpg
Tác giả bài thơ Đôi dép Nguyễn Trung Kiên

Anh sinh ra trong một gia đình tương đối éo le về gia cảnh. Cha mẹ anh có một thời yêu nhau và anh đã chào đời trong khoảng thời gian đó, thế nhưng hạnh phúc đã không trọn vẹn đối với anh. Cha mẹ anh chia tay nhau, người ở lại, kẻ ra đi đã làm cho tâm hồn cậu trai 17 tuổi mang một vết rạn khó lành.

Kiên theo mẹ vào Sài Gòn lập nghiệp khi anh vừa học xong lớp 11. Gia đình khiếm khuyết của anh như con tàu trước giông bão phải lặn ngúanginh tồn với cuộc sống chốn thị thành đầy mới mẻ. Rồi Kiên cũng tìm cho mình những công việc chân tay nặng nhọc như phụ hồ, quét sơn, sửa chữa... đủ nuôi sống bản thân.

Vốn tâm hồn đa sầu đa cảm, những khi rảnh rỗi, Kiên thường ngâm nga thơ mà thơ của anh đều xuất phát từ thực tế công việc và cuộc sống vất vả, bon chen, ganh đua của người đời. Mỗi tuần một buổi, Kiên tham gia sinh hoạt trong Câu lạc bộ thơ văn của Nhà văn hóa Thanh niên. Tại đây, anh có cơ hội được tiếp xúc với nhiều bạn trẻ đa số đều là sinh viên, họ sinh hoạt vui vẻ, trao đổi thơ văn, đúc rút kinh nghiệm... khiến anh quên đi những mệt mỏi, buồn phiền của công việc. Kiên hăng say tham gia sáng tác được các bạn trong Câu lạc bộ tín nhiệm bầu giữ chức Phó chủ nhiệm.

Một hôm, anh và một cô bạn có cuộc tranh luận nảy lửa về đôi dép. Cô bạn hỏi Kiên rằng một đôi dép thì cái nào mòn trước. Nhiều ý kiến trái ngược nhau, không bên nào chịu nghe bên nào. Sau buổi sinh hoạt đó, về nhà, Kiên ôm đầu suy nghĩ về đôi dép kể cả đi làm, anh cũng nghĩ mông lung và bắt đầu hình thành những vần thơ nói về đôi dép. Tuy nhiên, một ý tưởng mới được hình thành, Kiên muợn hình ảnh của tình yêu để nói về đôi dép. Buổi sinh hoạt lần sau, anh đã mang bài thơ lên tặng “bạn cãi” hôm nọ và đọc cho cả Câu lạc bộ nghe. Mọi người truyền tay nhau tâm đắc bài thơ thật dung dị mà trần đầy ý nghĩa của anh:

“Bài thơ đầu anh viết tặng em/ Là bài thơ anh kể về đôi dép/ Khi nỗi nhớ ở trong lòng da diết/ Những vật tầm thường cũng biến thành thơ...”.

Trung Kiên cho biết, anh sáng tác bài thơ này vào năm 1995 khi đó anh 22 tuổi nhưng vẫn chưa có mối tình nào cũng chỉ mới manh nha thích thích, mến mến nhau thôi. Nhiều người nói, anh sáng tác để tặng người yêu nhưng thực chất, cô gái kia chỉ là bạn cùng sinh hoạt trong Câu lạc bộ. Bản thân Trung Kiên là người rất nhạy cảm, anh bảo, tình duyên của anh đến rất muộn không phải vì anh không biết yêu mà vì anh không dám yêu. Anh mặc cảm vì bản thân chỉ là thằng con trai lang bạt xứ người, công danh sự nghiệp chưa có nhưng tâm hồn anh lại tràn đầy lý tưởng về một tình yêu thủy chung, son sắc.

Lại nói đến Câu lạc bộ, Kiên là phó chủ nhiệm duy nhất và cũng là thành viên duy nhất không phải là sinh viên. Trong môi trường sinh hoạt của giới tri thức thì kẻ yêu người ghét anh đều có. Anh trân trọng, cảm ơn những người bạn đã cảm thông, thấu hiểu cho hoàn cảnh của anh còn những người ghét anh, cũng chỉ vì học vấn của anh không bằng ai, anh chỉ là người công nhân ham mê thơ văn mà tham gia sinh hoạt. Có những lời nặng nề đến tai anh rằng, “một người không có học vấn mà cũng làm Phó chủ nhiệm hẳn nhiều người không phục”. Bị xúc phạm và ức chế, Kiên quyết định sẽ đăng kí thi vào đại học để chứng tỏ rằng: Sinh viên và không sinh viên chỉ hơn nhau ở kì thi mà thôi.

Cuộc thách đấu nghiệt ngã với số phận

Nung nấu ý định sẽ thi vào đại học để chứng tỏ bản lĩnh không thua kém bất cứ một sinh viên nào, Kiên đã làm một việc táo bạo. Do anh chưa có bằng tú tài nên đánh liều muợn bằng của một người bạn sau đó chỉnh sửa thông tin để đăng kí dự thi. Với trí nhớ tuyệt vời cùng vốn kiến thức nền vững chắc, Kiên không hề trải qua một ngày ôn luyện nào mà ngay trong kì thi đó, Kiên đã thi đậu Đại học Sư phạm với số điểm cao. Trước khi thi, Kiên không hề có ý định theo học nhưng rồi sự lôi cuốn của giảng đường đại học khiến anh không thể khước từ.

Theo học được gần một năm thì sự việc vỡ lở, anh đành ngậm ngùi chia tay thầy cô, chia tay giảng đường để quay về làm một người lao động. Thầy cô, bạn bè khuyên anh nên học bổ túc thêm một năm nữa rồi thi lại, với kiến thức và trình độ như anh thì cánh cổng đại học luôn mở rộng chào đón. Nhưng, Kiên đã quyết định từ bỏ sự học, anh tâm sự: “Tôi không có duyên với con đường học vấn, đó chỉ là trò chơi số phận của tôi thôi nhưng tôi đã chứng tỏ cho mọi người biết, tôi không phải là thằng thất học, tôi từng là một sinh viên văn khoa. Tôi sinh ra là để làm công nhân”.

Trở lại bài thơ Đôi dép, vừa đậu trường Đại học Sư phạm, ngay lập tức bài thơ của anh được đăng trên tạp chí Thế giới mới và một số trang mạng đã ăn theo dư âm của bài thơ. Trong khi “tiếng tăm” của Đôi dép không ngừng lan truyền khắp nơi thì tác giả lại lặng bóng. Suốt một thời gian dài, Đôi dép bị “tam sao thất bản” ở cả nội dung và tên tác giả. Báo chí và lực lượng hùng hậu “fan” của bài thơ đã tốn bao nhiêu giấy mực và công sức để đi tìm người cha đẻ của Đôi dép mà vẫn không hề có phản hồi. Sau hơn 10 năm sống ẩn dật với gia đình riêng, một ngày gần đây, Trung Kiên xuất hiện và đã lên tiếng về bài thơ do mình sáng tác.

Tuy nhiên, điều mà chúng tôi ngạc nhiên là anh không có phản ứng nhiều khi nhắc đến bài thơ Đôi dép kể cả bị người đời ngộ nhận. Anh tâm sự: “Cái gì đã qua rồi cứ để qua đi, tôi không muốn nhắc đến nữa, đó là thời kì khủng hoảng nhất về tinh thần của tôi, Đôi dép cho tôi chút ít danh tiếng nhưng gắn liền với vết thương về con đường học vấn. Tôi cũng biết là một số người đã tự nhận bài thơ đó là của họ nhưng tôi không buồn bởi bài thơ của tôi hay, độc mới có người nhận miễn sao họ đừng nói xấu tôi, đừng vẽ rắn, vẽ rồng thêm vào bài thơ sẽ làm mất đi ý nghĩa dung dị của nó”.

Nguyễn Trung Kiên bây giờ hầu như không quan tâm đến chuyện thơ văn nữa, công việc của người thợ cơ khí cùng những nhọc nhằn lo toan cho gia đình thời buổi kinh tế khó khăn đã chiếm hết hồn thơ trong tim anh.

nha_que
28-06-2013, 12:10 PM
Bài thơ:

Bà Em

Bài văn tả bà đã được tác giả viết bằng những câu thơ hết sức ngộ nghĩnh và chân thực, nhưng "hấp dẫn" không kém là phần sau của bài thơ khi nói về "nghịch cảnh" đầy đau khổ của học sinh khi bắt buộc phải làm theo văn mẫu...



http://thaicucthieugia.com/images/stories/anh_bai_dang/vn%20mu.jpg
Bài thơ về bà gây sốt trên facebook. (Ảnh chụp lại từ màn hình)

Đối lập với hình ảnh người bà vất vả sớm hôm, tóc trắng, miệng nhai trầu thường thấy trong những bài văn mẫu, người bà trong bài thơ khá gần cuộc sống hiện đại với: hát karaoke, phóng xe máy,…
Dưới đây là nguyên văn bài thơ “Cô bắt làm văn tả Bà” được thành viên Hiếu Orion chia sẻ trên mạng xã hội Facebook.

Bà Em
“Bà ngoại em vẫn chưa già
Chiều chiều bà cưỡi xe ga ra đường
Mắt bà vẫn rất tinh tường
Tóc nhuộm ánh tím soi gương mỗi ngày
Nhưng Bà em vẫn rất hay
Bà chăm con cháu luôn tay luôn mồm
Công việc bà vẫn ôm đồm
Chăm lo con cháu sớm hôm không nề.

http://donghuongkontum.files.wordpress.com/2013/05/bacc80-c491i-honda1.jpeg
Chiều chiều bà cưỡi xe ga ra đường...

Hôm nay cô giáo ra đề
Bắt em phải tả viết về Bà em
Em tả giống hệt bên trên
Cô bắt viết lại - mắng thêm em rằng:
Đã Bà là phải rụng răng
Tóc phải bạc trắng như trăng trên trời
Bà cũng không được ăn chơi
Vì mắt phải kém và môi nhai trầu


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anh_bai_dang/m%20ngoi%20em%201.jpg
Người bà của cô và người bà của... em !

Đã Bà là phải ngồi khâu
Không được ngồi hát Ka - Râu - Ô - Kề
Nhất là không được ghi đề
Tuyệt đối không được phóng xe ào ào
Em nghe chẳng hiểu thế nào
Em phải hỏi mẹ xem sao vụ này
Tả sai thì lại không hay
Tả đúng thì lại có ngày ăn roi
Kiểu này phải bảo mẹ thôi
Hay đổi Bà khác đúng lời của cô ???”


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anh_bai_dang/b%20ngoi%20em.jpg
Hay đổi bà khác đúng lời của cô... khó quá !



Nguồn : Facebook

nha_que
28-06-2013, 08:55 PM
Dưới đây là tờ đơn xin phép nghỉ học của học sinh tên là Phan Quốc Đạt, lớp 11 Toán 1, trường Lê Quí Đôn, Tp. Vũng Tàu đã gây tiếng vang rất lớn trên mang facebook nói chung và ngành giáo dục nói riêng. Lá đơn xin nghỉ phép được viết bằng thể thơ lục bát rất ngay ngắn, sạch đẹp trên giấy vở ô ly.

Mời cả nhà cùng đọc và thưởng thức cái hay, cái dí dỏm của lá đơn bằng thơ này:


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anh_bai_dang/n%20xin%20ngh%20hc.jpg
Đơn xin phép bằng thơ.

ĐƠN XIN PHÉP

Gửi ban giám hiệu trường ta.

Cùng cô chủ nhiệm chính là cô Nhung.

Hôm nay em viết đơn này

Kính xin được nghỉ một ngày dưỡng thương

Em tuy vẫn nhớ lớp, trường

Nhưng mà sức khỏe khó lường mối nguy

Suốt đêm em sốt li bì


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anh_bai_dang/phm%20quc%20t.jpg
Tác giả và bài thơ

Trán nay nóng hổi, yếu suy quá chừng

Việc học chắc phải tạm ngừng

Để còn điều trị kẻo chừng… thăng thiên!

Bài ghi em sẽ chép liền

Em xin lỗi đã làm phiền thầy cô!

Trên trang Facebook của Ths Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu cũng chia sẻ và có hàng nghìn người “like” và bình luận về đơn xin phép này. Thạc sĩ tâm lí học Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu cũng chia sẻ ý kiến của mình bằng thể thơ lục bát:



“Ai bảo đi học khô khan?

Nếu mà sáng tạo thì ngàn cái hay!

1 like nhóc viết cái này

1 like khác nữa cho thầy dạy Văn”.

Nhiều ý kiến cho rằng đây là một sự sáng tạo và phá vỡ cấu trúc khô khan của một tờ đơn xin phép nghỉ học thông thường.

Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu phân tích thêm: “Đơn này thì viết chơi thôi, chứ thầy nghĩ bạn ấy không có nộp đâu. Nhưng nếu là BGH, thầy sẽ chấp nhận đơn này, tuy không chỉn chu như kiểu mà thầy cô mong muốn, nhưng đáng được chấp nhận vì sự phá cách, sáng tạo mà không phải học sinh nào cũng có. Quá khắt khe làm gì, sao ta không để cho học sinh sáng tạo? Nếu mắng bạn ấy là vớ vẩn, vô phép thì lần sau bạn ấy mà muốn sáng tạo thì chẳng còn hứng thú gì nữa. Giết chết mầm mống của một con người sáng tạo đấy!”

Nguyễn Thị Sự

thieugia
29-07-2013, 05:43 AM
Bài thơ gây chấn động dư luận cách nay 27 năm

Cách đây tròn hai mươi bảy năm, mùa xuân năm 1986, trước thềm Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác” của tác giả Phạm Thị Xuân Khải đăng trên báo Tiền Phong đã gây xôn xao dư luận cả nước.
Bài thơ được nhiều bạn đọc đánh giá là “trái bom” là “ngòi nổ” đã được châm mồi, có sức công phá lớn, đột phá mạnh góp phần phá vỡ cái bảo thủ trì trệ, thêm một tiền đề tạo nên Cái Mới tiến bộ, thể hiện ở công cuộc Đổi Mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Phạm Thị Xuân Khải là ai? Vì sao lại viết bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác”? Sau khi đăng bài thơ, chuyện gì đã đến với Xuân Khải?...


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anh_bai_dang/phm%20th%20xun%20khi.jpg

Đó là những câu hỏi mà bạn đọc của hai mươi năm và cả bây giờ quan tâm muốn tìm câu trả lời. Phóng viên đã tìm gặp tác giả bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác”, để tìm hiểu câu chuyện về cuộc đời nhiều biến cố của bà Phạm Thị Xuân Khải và những câu chuyện xung quanh bài thơ được ví như “trái bom” này.

1. “Đêm trước” đổi mới

Thoắt cái đã 20 năm. Kể từ ngày bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác” đột ngột xuất hiện trên báo Tiền Phong và gây ra những làn sóng dư luận chưa từng có.
Tác giả bài thơ - nữ sinh viên khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Phạm Thị Xuân Khải - lúc ấy đang lặng lẽ đèn sách trong khu KTX nghèo, vốn vẫn thích ẩn mình bỗng dưng nổi tiếng cả nước, bỗng dưng trở thành tâm điểm của cơn “địa chấn” mà cô không ngờ lại do chính mình gây ra ...
Thời gian chẳng quên ai cả, nữ sinh văn khoa ngày nào giờ đây đã hằn những nếp nhăn trên gương mặt của tuổi ngũ tuần mà mới nhìn qua cũng biết là lắm nỗi truân chuyên.
Sau chuyến hành trình lắm trục trặc từ Bình Định ra Hà Nội, bà ngồi trước mặt tôi để kể câu chuyện dài về bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác” (MXNB).
Im lặng. Dường như chẳng dễ dàng nói ngay được về cái thời ấy. Cảm xúc căng nén lại. Nhưng rồi bà cũng cất lời, đôi mắt đỏ hoe: “Bài “Mùa xuân nhớ Bác” ra đời sau Tết Bính Dần năm 1986, thời điểm trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI - giai đoạn đầy gian khó của đất nước. Cái “thời xa vắng” ấy đã qua 20 năm rồi mà nhiều khi cứ ngỡ như vừa mới hôm qua...”.
Cứ ngỡ như mới vừa hôm qua, nên lời kể của bà về “bối cảnh ra đời bài thơ” tươi roi rói. Vào những năm 80 của thế kỷ trước, nền kinh tế quốc gia “tuột dốc theo chiều rơi thẳng đứng” (chữ dùng của nhà thơ Tố Hữu – Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lúc bấy giờ).
Cả nước đói ăn. Hoà bình rồi, bữa cơm vẫn “điệp khúc” độn sắn, độn khoai, bo bo, mì hột...Nhiều gia đình “chạy ăn từng bữa toát mồ hôi”.
Hồi đó có những câu chuyện cười ra nước mắt như một giáo sư có tên tuổi nhưng cũng trong cảnh “chạy gạo” đã phải nuôi lợn trên căn phòng ở tầng 5 của khu chung cư.
Khi người ta thắc mắc sao lại nuôi lợn ở trên cao như vậy? Vị giáo sư trả lời: Lợn nó nuôi tôi, chứ tôi đâu có nuôi lợn. Nhà thơ Nguyễn Duy cũng nuôi lợn trên lầu ba và ông cay đắng viết là “nâng con lợn lên ngang tầm thời đại”.
Nguyễn Duy đã “vẽ” bức tranh đất nước thời ấy bằng những câu thơ trong bài thơ “Đánh thức tiềm lực”: “Này, đất nước của 3 miền cày ruộng/ Chưa đủ no cho đều khắp 3 miền/ Ta ca hát quá nhiều về tiềm lực/ Tiềm lực còn ngủ yên”.
“Sau chiến tranh đã hơn 10 năm mà đời sống nhân dân mỗi ngày khó khăn chồng chất thêm: Những người thợ mỏ than phải ăn gạo mốc, gạo hẩm. Nông dân mùa màng thất bát, vất vả quanh năm mà không đủ nộp thuế. Công chức nhà nước vẫn tiếp tục sống trong cảnh bao cấp ngặt nghèo, xếp hàng đong từng cân gạo. Học sinh bỏ học, giáo viên bỏ nghề. Bộ đội giữa thời bình vẫn tiếp tục với những bữa ăn “canh toàn quốc, nước chấm đại dương”.
Cựu chiến binh qua hai cuộc kháng chiến nghỉ hưu rồi mà vẫn phải đối mặt với cảnh: “Lương hưu hết rồi/ Buổi chiều biết tính sao đây?”. Đời sống nhân dân đã khổ lại ngày càng khó khăn hơn với những giáo điều cứng nhắc, như sợi dây rất chắc, giằng buộc nhau, không thoát ra được.
Trong khi đó, một bộ phận cán bộ lại thoái hóa, bê tha, phá hoại nền kinh tế đất nước, khiến cho nhân tâm ly tán. Điều đó làm tôi nhớ đến một câu nói của nhà văn Pháp thế kỷ XIX rằng: “ Người thất bại trong mọi cuộc chiến tranh là nhân dân. Không. Không thể nào như thế được! Nhân dân ta đã thắng và sẽ thắng mọi nghèo nàn lạc hậu, mọi cản trở khó khăn…”. Bà nói như độc thoại. Mắt lại đỏ hoe.
Một đêm mùa xuân của năm 1986, cô sinh viên văn khoa với nỗi đau đáu thế sự ấy đã thức dậy lúc 2 giờ sáng làm bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác”. Đôi mắt cũng đỏ hoe như lúc đang ngồi với tôi đây.
Khi đó, Xuân Khải đã “cả gan” gửi bài thơ cho đồng chí Lê Đức Thọ - ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư TW, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng. Cô không có ý định đăng báo vì nghĩ “không có Tổng Biên tập nào vào thời điểm đó đơn phương dám duyệt đăng bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác”.
Đó là ngày 25/3/1986, Xuân Khải không bao giờ có thể quên được. Bài thơ in trang trọng trên số báo đặc biệt kỷ niệm ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh 26/3. Ngay lập tức số báo ấy được bạn đọc cả nước “săn lùng” mua cho bằng được.
Một hiện tượng hiếm có trong làng báo đã diễn ra. Báo vừa phát hành đã hết veo. Thời gian ấy máy photocopy còn hiếm, các cơ quan, công sở hầu hết còn dùng máy chữ và in rônêô, chưa có điều kiện nhân bản, in ấn với số lượng nhiều và nhanh như bây giờ.
Mặc dù vậy, nhưng mọi người đều cố tìm mua báo Tiền Phong, mua lại những tờ đánh máy, in rônêô với giá cao gấp nhiều lần so với bình thường. Nhiều người phải chép tay bài thơ và nhanh chóng thuộc lòng...
Bà Xuân Khải vẫn nhớ như in những ngày đó: “Tôi được biết lúc ấy đồng chí Nguyễn Văn Linh – Bí thư Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Văn Kiệt, Chủ tịch UBND thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội họp cũng tìm báo Tiền Phong để đọc bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp hỏi xin tờ báo, tôi đã tặng Đại tướng tờ báo duy nhất tôi còn lại. Một người bạn tôi thiết tha đề nghị tôi kiếm cho tờ báo Tiền Phong có bài thơ để anh ta biếu cho ông Viện sỹ khoa học người Nga sang công tác tại Việt Nam. Ông Viện sỹ này muốn tận mắt nhìn thấy bài thơ là có thật.
Khắp nơi trong cả nước từ cán bộ công chức đương nhiệm, đến các cụ đã nghỉ hưu, từ công nhân trong các xí nghiệp, nhà máy, hầm mỏ đến những người nông dân đang một nắng hai sương, các bạn sinh viên, các anh bộ đội...đều quan tâm đến bài thơ.
Điều đáng ngạc nhiên hơn cả là bài thơ đã rất thu hút nhiều em học sinh phổ thông. Tôi và có lẽ cả độc giả đều không ngờ bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác” lại “lách” qua được “khe cửa hẹp” của bức tường bảo thủ trì trệ cản trở sự đi lên của đất nước”.
Trong sự sôi nổi ấy, vẫn rờn rợn một khoảng lặng nào đó và dường như những người có quan điểm đổi mới lẫn bảo thủ nhất đều tự hỏi: Phạm Thị Xuân Khải là ai?
Và điều gì sẽ đến với nữ sinh viên khoa Văn Tổng hợp, tác giả của bài thơ chỉ mới đăng báo ít ngày đã làm “động trời dư luận”, như cách nói của bạn đọc lúc bấy giờ?

2. và “trái bom” thơ


Mùa xuân nhớ Bác
Mùa xuân về nhớ Bác khôn nguôi
Tiếng pháo giao thừa nhớ ngày xuân Bác còn chúc Tết
Vần thơ thân thiết ấm áp lòng người
Bác đã đi xa rồi
Để lại chúng con bao nỗi nhớ
Người cha đã đi xa.
Các anh ơi, Mùa xuân về đọc thơ xuân các anh trên báo Đảng
Lòng càng nhớ Bác nhiều hơn
Làm sao có thể quên mỗi lần gặp Bác
Bác bắt nhịp bài ca đoàn kết
Người thường nhắc nhở:
Yêu nước, thương dân
Dẫu thân mình có phải hy sinh
Cũng chỉ vì trường xuân cho đất Việt.
Mùa xuân về đọc thơ xuân các anh
Tuổi trẻ chúng tôi thấy lòng mình day dứt
Day dứt vì mình chưa làm được
Những điều hằng ước mơ
Những điều chúng tôi thề
Dưới cờ Đoàn trong giờ kết nạp,
Tuổi trẻ chúng tôi tha thiết
Được Đảng chăm lo
Được cống hiến cho quê hương nhiều nhất
Nhưng tuổi trẻ chúng tôi
Không ít người đang lỡ thì, mai một.
Theo năm tháng cuộc đời
Ngoảnh lại nhìn, mình chưa làm được bao nhiêu
Bởi một lẽ chịu hẹp hòi, ích kỷ
Thanh niên chúng tôi thường nghĩ:
Bỏ công gieo cấy, ai quên gặt mùa màng
Mỗi vụ gieo trồng có phải đâu là lép cả?
Tuổi trẻ chúng tôi vẫn tự hào
Những trang sử vẻ vang dân tộc
Chúng tôi được học
Được thử thách nhiều trong chiến tranh
Chúng tôi nghĩ: Nguyễn Huệ - Quang Trung
Lứa tuổi hai mươi lập nên nhiều chiến công hiển hách.
Lẽ nào tuổi trẻ hôm nay thua thiệt
Có học hành, lại phải sống cầu an
Phải thu mình, xin hai chữ “bình yên”
Bởi lẽ đấu tranh – tránh đâu cho được?
Đồng chí không bằng đồng tiền
Bằng lòng vẫn hơn bằng cấp
Có ai thấu chăng và ai phải sửa?
Mỗi xuân về con càng thêm nhớ Bác
Lòng vẫn thầm mơ ước
Bác Hồ được sống đến hôm nay
Làm nắng mặt trời xua tan hết mây
Trừ những thói đời làm dân oán trách
Có mắt giả mù, có tai giả điếc
Thích nghe nịnh hót, ghét bỏ lời trung
Trấn áp đấu tranh, dập vùi khốn khổ
Cùng chí hướng sao bầy mưu chia rẽ?
Tham quyền cố vị sợ trẻ hơn già
Quên mất lời người xưa:
“Con hơn cha là nhà có phúc”
Thời buổi này, không thiếu người xông pha thuở trước
Nay say sưa trong cảnh giàu sang
Thoái hóa, bê tha khi dân nước gian nan?
Mùa xuân đất nước
Nhớ mãi Bác Hồ
Ta vẫn hằng mong lý tưởng của Người
Cho đất nước khải hoàn, mùa xuân mãi mãi.
Xuân Bính Dần (1986)
Phạm Thị Xuân Khải

nosay
29-07-2013, 10:30 AM
Một bài thơ hay, một sự kiện lớn như thế mà đến giờ nosay mới đọc mới biết.
Cám ơn thieugia đã đăng tin lại.

thieugia
29-07-2013, 11:43 PM
http://www.haugiang.gov.vn/Portal/DATA/sites/10/chuyende/phunu/Images/bamahaugiang.jpg

Tác giả: Tố Hữu



http://thaicucthieugia.com/images/stories/anh_bai_dang/b%20m%20hu%20giang.jpg


Trời Hậu Giang, tù và dậy rúc
Phèng la kêu, trống giục vang đồng
Đường quê đỏ rực cờ hồng
Giáo lê sáng đất, tầm vông nhọn trời
Quyết một trận, quét đời nô lệ
Quăng máu xương, phá bẻ xiềng gông!

Hỡi ôi! Việc chửa thành công
Hôm nay máu chảy đỏ đồng Hậu Giang
Giặc lùng, giặc đốt xóm làng
Xác xơ cây cỏ, tan hoang cửa nhà
Một vùng trắng bãi tha ma
Lặng im, không một tiếng gà gáy trưa
Có ai biết, ai ngờ trong đó
Còn chơ vơ một ổ lều con
Đạn bom qua, hãy sống còn
Núp sau lưng rộng một hòn đá to.
Có ai biết trong tro còn lửa
Một má già lần lữa không đi
Ở đây sóng gió bất kỳ
Má ơi, má ở làm chi một mình ?
Rừng một dải U Minh tối sớm
Má lom khom đi lượm củi khô
Ngày đêm củi chất bên lò
Ai hay má cất củi khô làm gì?
Hay má lẫn quên vì tuổi tác
Hay má liều một thác cho yên ?

Bỗng đâu một buổi mai lên
Trên đường quê ấy qua miền nghĩa quân
Một tán quỷ rần rần rộ rộ
Mắt mèo hoang, mũi chó, râu dê
Súng trường nhọn hoắt lưỡi lê
Khét nồng khí chết, tanh dề máu oan!
Chúng rảo bước. Lính quan nện gót
Mắt nhìn quanh lục mót dạng người
Đồng không, lạnh vắng, im hơi
Chỉ đôi bóng quạ ngang trời loáng qua
Ách là! Thằng quan ba dừng bước
Rút ống dòm, và ngước mắt nheo
Xa xa, sau lớp nhà xiêu
Một tia khói nhỏ ngoằn ngoèo bay lên...

Hắn khoái trá cười điên sằng sặc
Nhe hàm răng sáng quắc như gươm
Vẫy tay lũ tớ gườm gườm
Như bầy chó đói chực chồm miếng ăn.
Rồi lặng lặng bước chân hùm sói
Tiến dần lên tia khói, vây quanh...

Má già trong túp lều tranh
Ngồi bên bếp lửa, đun cành củi khô
Một mình má, một nồi to
Cơm vừa chín tới, vùi tro, má cười...

Chết! Có tiếng gì rơi sột soạt ?
Má già run, trán toát mồ hôi
Chạy đâu ? Thôi chết, chết rồi!
Gót giày đâu đã đạp rơi liếp mành.
Một thằng cướp, mắt xanh mũi lõ
Đốc gươm dài tuốt vỏ cầm tay
Rung rinh bậc cửa tre gầy
Nghênh ngang một ống chân đầy lối đi!


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anh_bai_dang/linh%20my.jpg
Như bầy chó đói chực chồm miếng ăn

Hắn rướn cổ, giương mi, trơn mắt
Như hổ mang chợt bắt được mồi
Trừng trừng trông ngược trông xuôi
Trông vào bếp lửa: Một nồi cơm to.
Hắn rống hét: "Con bò cái chết!
Một mình mày ăn hết này sao ?
Đừng hòng che được mắt tao
Khai mau, du kích ra vào nơi đâu ?
Khai mau, tao chém mất đầu!"
Má già lẩy bẩy như tàu chuối khô
Má ngã xuống bên lò bếp đỏ
Thằng giặc kia đứng ngõ trừng trừng
Má già nhắm mắt, rưng rưng
"Các con ơi! ở trong rừng U Minh
Má có chết, một mình má chết
Cho các con trừ hết quân Tây!"
Thằng kia bỗng giậm gót giày
Đạp lên đầu má: "Mẹ mày, nói không?"
Lưỡi gươm lạnh toát kề hông
"Các con ơi! Má quyết không khai nào!"
Sức đâu như ngọn sóng trào
Má già đứng dậy, ngó vào thằng Tây
Má hét lớn: "Tụi bay đồ chó!
Cướp nước tao, cắt cổ dân tao!
Tao già không sức cầm dao
Giết bay, có các con tao trăm vùng!
Con tao, gan dạ anh hùng
Như rừng đước mạnh, như rừng chàm thơm!
Thân tao chết, dạ chẳng sờn!"
Thương ôi! Lời má lưỡi gươm cắt rồi!
Một dòng máu đỏ lên trời
Má ơi, con đã nghe lời má kêu!
Nước non muôn quý ngàn yêu
Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang.

thieugia
31-07-2013, 11:58 AM
Lời bài hát:

Giải Phóng Miền Nam

Tác giả: Huỳnh Minh Siêng
Giải phóng miền Nam chúng ta cùng quyết tiến bước.
Diệt đế quốc Mỹ phá tan bè lũ bán nước.
Ôi xương tan máu rơi.
Lòng hận thù ngất trời.
Sông núi bao nhiêu năm cắt rời.



http://www.youtube.com/watch?v=0K8okWdJ2xg&feature=player_detailpage&t=6

Đây Cửu Long hùng tráng.
Đây Trường Sơn vinh quang thúc giục đoàn ta xung phong đi giết thù.
Vai sát vai chung một bóng cờ.
Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng.
Vùng lên xông pha vượt qua bão bùng.
Thề cứu lấy nước nhà.
Thề hy sinh đến cùng.
Cầm gươm ôm súng xông tới.
Vận nước đã đến rồi bình minh chiếu khắp nơi.
Nguyện xây non nước sáng tươi muôn đời.

-----------------------------------------------------
thieugia sưu tầm và giới thiệu

thieugia
31-07-2013, 12:01 PM
Lời bài hát:

Nguyễn Bá Ngọc người thiếu niên dũng cảm

Sáng tác: Mộng Lân


Trên đất nước anh hùng ngày ngày ghi những chiến công
Gương anh Nguyễn Bá Ngọc sáng soi rực rỡ núi sông
Anh hiến dâng cả cuộc đời băng qua lửa đạn bom rơi
Cứu em nhỏ thoát cơn bom đạn giặc Mĩ
Bom đạn réo quanh mình mặc cho đạn réo bom rơi
Anh đã lấy thân mình che chở cho bé em
Yêu đứa em hơn đời anh băng qua lửa đạn bom rơi
Nguyễn Bá Ngọc đã vì bạn mà hy sinh

Anh qua đời guơng anh còn soi
Chí kiên cường và lòng dũng cảm
Ta thêm tự hào ghi tên của anh
Trong sổ vàng truyền thống Đội ta

Điệp khúc:
Đây Thanh Hoá anh hùng và dòng sông Mã mến yêu
Vang chiến thắng hôm nào có tên của anh
Đây tấm gương của tuổi xanh
Khi hy sinh thật vẻ vang
Chí anh hùng như Nguyễn Bá Ngọc thật vinh quạng



http://www.youtube.com/watch?v=ZBmCX-_ByH8&list=PL97FCBA0362EA7CA8&feature=player_detailpage&t=186

Anh qua đời gương anh còn soi
Lớp lớp người đang vùng đứng dậy
Ghi mối thù sâu
Giết hết giặc Mĩ
Cho đàn em vang tiếng cười vui

doancongtu
31-07-2013, 01:48 PM
Lời bài hát:

Giải Phóng Miền Nam

Tác giả: Huỳnh Minh Siêng
Giải phóng miền Nam chúng ta cùng quyết tiến bước.
Diệt đế quốc Mỹ phá tan bè lũ bán nước.
Ôi xương tan máu rơi.
Lòng hận thù ngất trời.
Sông núi bao nhiêu năm cắt rời.

Đây Cửu Long hùng tráng.
Đây Trường Sơn vinh quang thúc giục đoàn ta xung phong đi giết thù.
Vai sát vai chung một bóng cờ.
Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng.
Vùng lên xông pha vượt qua bão bùng.
Thề cứu lấy nước nhà.
Thề hy sinh đến cùng.
Cầm gươm ôm súng xông tới.
Vận nước đã đến rồi bình minh chiếu khắp nơi.
Nguyện xây non nước sáng tươi muôn đời.

-----------------------------------------------------
thieugia sưu tầm và giới thiệu

Ô hô!
Chưa có giải phóng Điện Biên thì làm sao đã Giải phóng miền Nam nhể ? Để em bổ xung thêm lời và nhạc bài Giải phóng Điện Biên cho thêm phong phú nhá.


Giải phóng Điện Biên

Tác giả: Đỗ Nhuận
Giải phóng Điện Biên bộ đội ta tiến quân trở về giữa mùa này hoa nở
Miền Tây Bắc tưng bừng vui bản mường xưa
Nương lúa mới trồng
Kìa đàn em bé giữa đồng nắm tay xoè hoa dọc đường chiến thắng
Ta tiến về đoàn dân công tiền tuyến vẫy chào pháo binh vượt qua..
Súng đại bác quấn lá ngụy trang từng đàn bươm bướm trắng rỡn lá ngụy trang..
Xiết bao sướng vui từ ngày lên Tây Bắc
Đồng bào nao nức mong đón ta trở về giờ chiến thắng ta đã về
Vui mừng đón chúng ta tiến về núi sông bừng lên đất nước ta
Sáng ngời cánh đồng Điện Biên cờ chiến thắng tưng bừng trên trời.
Giải phóng miền Tây bộ đội ta đã mau trưởng thành thắng trận.
Điện Biên Phủ càng tin quyết tâm ở trên.



http://www.youtube.com/watch?v=m7-KhDrCcmE&feature=player_detailpage&t=7

Đổ mồ hôi phá núi bắc cầu vượt rừng qua suối đắp đường thắng lợi
Về đây phương châm đánh chắc ta tiến lên lực lượng như bão táp
Quân thù mấy cũng phải tan vang lừng tiếng súng
Khi mừng công thoả lòng ta dâng Bác bấy lâu chờ mong..
Xiết bao sướng vui nhìn đồng quê phơi phới nông dân hăng hái
Khi chúng ta trở về ruộng đất chúng ta đã về
Vui mừng đón chúng ta tiến về chiến sĩ Điện Biên
Thế giới đang đón mừng chiến dịch đại thắng lợi góp sức xây dựng hoà bình..

Shaolaojia
02-08-2013, 09:42 AM
Màu tím hoa sim & lời trần thuật của tác giả
1. Màu Tím Hoa Sim


MÀU TÍM HOA SIM

Tác giả: Hữu Loan

Nàng có ba người anh
Đi bộ đội
Những em nàng còn chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.

Tôi là người chiến binh
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân,
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi!

Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê ...

Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con
Đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh ...

Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi!
Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông thấy nhau một lần.

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...



https://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=XaFbiJY0NDY&t=5

Một chiều rừng mưa
Ba người anh
Trên chiến trường Đông Bắc,
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng.

Gió sớm thu về
Rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió thu về
Cỏ vàng chân mộ chí.

Chiều hành quân
Qua những đồi sim ..
Những đồi hoa sim ...,
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa.
Áo tôi sứt chỉ đường tà,
Vợ tôi chết sớm mẹ già chưa khâu.

2. Lời Trần Thuật của tác giả


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anh_bai_dang/Van_sy_tri_thuc/hu%20loan.jpg

Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo,hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa,chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà . Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. lên trung học,theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học . đến năm 1938 - lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi- Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn .Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy , trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và ...Tôi - Nguyễn Hữu Loan.

Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất ,bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ , tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên . Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.

Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt,coi tôi chẳng khác như người nhà ..Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: " Em chào thầy ạ"Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy,tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một "bà cụ non".. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chổ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt .....

Có lần tôi kể chuyện " bà cụ non" ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền,em nằm lì trong buồn trong, không chịu học hành....Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ....Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồn. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: " mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu" Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi .....

Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. bất chợt em hỏi tôi:
-Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt qúa nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ....Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những qủa sim đen láy chín mọng.
-Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:
-Ngọt qúa.

Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, qủa sim đối với chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những qủa sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác.Tôi nhìn em, em cười. hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì....tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!

Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi ....lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi...Tôi quay đầu nhìn lại....em vẫn đứng yên đó ....Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa.....

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ .....

Chín năm sau, tôi trở lại nhà....Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp....


Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm " soạn kịch bản".
Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: " yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả". Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay...lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói , hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!

Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân , theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu qúy của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại.....Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.

Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi .

Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn....Dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:

Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh ....
...Tôi về không gặp nàng....

Còn nữa...

Shaolaojia
02-08-2013, 10:54 AM
Màu tím hoa sim


Tiếp theo trang trước

Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu :

Chiều hành quân, qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
Và chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.

Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa.. Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.

Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 người làng Nguyên Hoàn thuộc xã Mai Lĩnh. huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.

3. Ca khúc ăn theo "Màu tím hoa sim"



https://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=zItg6kExsxk&t=3
Những đồi hoa sim - Tuấn Vũ trình bày

Tp. HCM, ngày 02.8.2013
Shaolaojia sưu tầm, biên tập và giới thiệu

thieugia
13-08-2013, 10:57 AM
Bài thơ

Đôi dép Bác Hồ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia:


Đôi dép Bác Hồ nguyên là một đôi dép lốp cũ được Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng trong hơn 20 năm, từ năm 1947 đến khi Bác qua đời. Hiện nay, đôi dép này là một trong các hiện vật quan trọng của Bảo tàng Hồ Chí Minh tại Hà Nội, đang được đệ trình công nhận là bảo vật quốc gia của Việt Nam. Tại Việt Nam và ở một số quốc gia thân hữu, đôi dép này được xem như là một trong những biểu tượng về cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh, được đề cập trong nhiều bài báo cũng như một số bài hát, bài thơ.

Lịch sử ra đời

Đôi dép này được làm ra vào khoảng năm 1947, chế tạo từ một chiếc lốp ô tô quân sự của quân đội Pháp do quân đội Việt Nam thu được sau trận phục kích tại Việt Bắc, và được gửi tặng cho Chủ tịch Hồ Chí Minh như một vật lưu niệm về chiến thắng. Đôi dép lốp này Bác đã sử dụng hơn 20 năm, kể từ năm 1947, và cũng từng theo chân Bác đi thăm các quốc gia bạn, như tại Ấn Độ, và hiện nay được được đặt trong Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh như một di vật của

Biểu tượng cuộc đời cách mạng

Như nhiều người Việt Nam trải qua thời kỳ chiến tranh, Hồ Chí Minh sử dụng dép lốp đơn giản bởi sự tiết kiệm và tiện dụng của nó. Tuy nhiên, với cương vị là nguyên thủ chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh tụ của phong trào độc lập và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, trang phục giản dị và tiết kiệm của Bác, trong đó có đôi dép lốp, trở thành những biểu tượng tuyên truyền hiệu quả, tạo ra sự khác biệt về hình ảnh Hồ Chí Minh gần gũi với dân chúng so với các đối thủ chính trị của Bác.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/DanhNhan/Bac_Ho/dep_bac_ho.jpg
Đôi dép Bác Hồ - niềm tự hào của người dân Việt

Năm 1960, khi Bác đến thăm một đơn vị Hải quân Nhân dân Việt Nam, khi mọi người vây quanh đề nghị Bác thay đôi dép cũ, Bác nói:
“ Các cháu nói đúng nhưng chỉ đúng một nửa, dép của Bác cũ nhưng chỉ mới tụt quai, cháu đã chữa lại chắc chắn thì còn thọ lắm! Mua đôi khác chẳng đáng là bao nhưng khi chưa cần thiết cũng chưa nên. Ta phải biết tiết kiệm vì đất nước ta còn nghèo … ” - Hồ Chí Minh.

Trong tiếng Anh, người ta quen dùng cụm từ "Ho Chi Minh sandals" để chỉ những chiếc dép lốp. Hình tượng trong văn hóa đại chúng. Đây cũng là tên nhiều bài thơ và bài hát liên quan đến cuộc đời Hồ Chí Minh. Riêng bài thơ "Đôi dép Bác Hồ" được nhạc sĩ Văn An phổ nhạc, rất nổi tiếng và đã đi vào lòng người dân Việt Nam hơn nửa thế kỷ.



https://www.youtube.com/watch?v=P68DL4fa_5I&feature=player_detailpage&t=63

Đôi dép của Hồ Chí Minh thường được dùng như một ví dụ về "sự giản dị và đức tính tiết kiệm" của Bác. Như một bài báo đã viết: "Đôi dép ấy rất đỗi bình dị, mộc mạc đơn sơ, nhưng thật nhiều ý nghĩa như chính cuộc đời Bác kính yêu. Bởi đôi dép cao su đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng vì dân, vì nước của Bác. Ngày nay, đôi dép ấy đã trở thành kỉ vật thiêng liêng và vô giá của dân tộc ta."

Hình ảnh về đôi dép của Hồ Chí Minh đã đi vào thơ văn Việt Nam như bài thơ kể về đôi dép được Tạ Hữu Yên sáng tác vào năm 1969:


Đôi dép đơn sơ
Đôi dép Bác Hồ
Bác đi từ ở chiến khu Bác về
Phố phường, trận địa, nhà máy, đồng quê.
Đều in dấu dép Bác về Bác ơi.
Dép này Bác trải đường dài
Đã cùng Bác vượt chông gai
Xây non nưước nhà.
Đường đi chiến đấu gần xa
Dấu dép cha già dẫn lối con đi…

Từ lời thơ ấy, Nhạc sĩ Văn An cũng có viết một bài hát mang tên " Đôi dép Bác Hồ" vào những năm 1970, để nhớ về Hồ Chí Minh, lời bài hát như sau:


Đôi dép đơn sơ đôi dép Bác Hồ
Bác đi từ ở chiến khu Bác về, Bác đi từ ở chiến khu Bác về.
Phố phường trận địa nhà máy đồng quê đều in dấu dép Bác về Bác ơi, đều in dấu dép Bác về Bác ơi.
Dép này Bác trải đường dài, đã cùng Bác vượt chông gai xây non nước nhà.
Đường đi chiến đấu gần xa dấu dép cha già dẫn lối con đi, dấu dép cha già dẫn lối con đi.

Bài hát này đã được nhiều ca sĩ danh tiếng của dòng nhạc đỏ thể hiện, như Bích Liên, Tuyết Nhung, Thu Hiền, ...

Nhạc sĩ Thuận Yến cũng có một bài hát Đôi dép Bác Hồ cùng tên, cũng phổ từ lời thơ của Tạ Hữu Yên, nhưng không nổi tiếng bằng. Năm 2012, nhà thơ Nguyễn Hưng Hải cũng có một bài thơ mang tựa đề Đôi dép Bác Hồ nhưng không nổi tiếng bằng.

Tp. HCM, ngày 13.8.2013
Thiều Ngọc Sơn sưu tầm và giới thiệu

bach_djen
29-08-2013, 01:55 PM
Lúc tui còn nhỏ, đâu hồi tiểu học gì đó nhớ học bài thơ này, bài thơ "Thằng Tây" tuy ngắn nhưng rất hay không biết của tác giả nào. Nay chép ra để mọi người cùng thưởng lãm.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/Ve_Chien_tranh/lnh%20m.gif

Thằng Tây

Tác giả: Khuyết Danh


http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/Ve_Chien_tranh/dien%20bien%20phu%20.jpg
Thằng tây chớ cậy xác dài !

Thằng Tây chớ cậy xác dài,
Chúng tao người nhỏ nhưng dai hơn mày.
Thằng Tây chớ cậy béo quay,
Mày thức hai buổi là mày bở hơi.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/Ve_Chien_tranh/dien-bien-phu-tren-khong%201.jpg
Thằng Tây chớ cậy béo quay

Chúng tao thức bốn đêm rồi,
Ăn cháo ba bữa chạy mười chín cây.
Bây giờ mới gặp mày đây,
Sức tao vẫn đủ bắt mày hàng tao.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/Ve_Chien_tranh/chin%20thng.jpg
Chúng tao người nhỏ nhưng dai hơn mày. Thế mới tài !





Bài thơ hay nhưng rất ít người biết.

doancongtu
15-11-2013, 04:28 PM
Tên đầy đủ của bài thơ trên là bài "Thằng Tây Chớ Cậy". Xưa, cách nay vài chục năm bài thơ này được in trong sách tập đọc lớp 3.

Liên quan đến chủ đề "Thằng Tây", có một bài thơ thiếu nhi cũng rất hay xin được chép ra đây để mọi người cùng thưởng thức nhé.


ĐÈN KÉO QUÂN

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Muon_mau/n%20%20ko%20qun.jpg
Đêm nay rằm tháng Tám
Mẹ thắp đèn kéo quân
Khi đèn vừa cháy sáng
Bao bóng người chạy quanh

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/chien_tranh/o%20du%20kch.jpg

A! Các chú bộ đội
Đuổi theo một lũ Tây
Bọn Tây chạy hớt hải
Các chú đuổi như bay.

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/chien_tranh/tu%20binh%201.jpg

Cố lên các chú ơi !
Sắp bắt được Tây rồi
Cho cháu chạy theo với
Cháu cũng là bộ đội.

thieugia
17-11-2013, 05:13 PM
Bài thơ

Chú giải phóng quân

Tác giả: Cẩm Thơ

http://baocamau.com.vn/database/newsimg/nam%202011/thang%2009/ngay%2010/chiec.jpg

Chú là chú em,
Chú đi tiền tuyến nửa đêm chú về
Ba lô con cóc to bè
Mũ tai bèo bẻ, vành xòe trên vai
Chú về kể chuyện vui sao
Mỹ thua Mỹ khóc như là trẻ con
Chắp tay lạy Má xin cơm
Em mà có đói chẳng thèm thế đâu
...

http://i552.photobucket.com/albums/jj329/PacificStorm/19078e19598604f0af908d85b532bfa8_we.jpg

Chỉ xin chiếc mũ tai bèo
Làm cô (anh) giải phóng vượt đèo Trường Sơn.

thieugia
04-04-2014, 04:44 PM
Vợ là...

http://thaicucthieugia.com/images/stories/anh_bai_dang/Van_sy_tri_thuc/thiu%20n%2011.jpg

Vợ là mẹ các con ta

Thường kêu bà xã, hiệu là phu nhân

Vợ là tổng hợp: bạn thân,

Thủ trưởng, bảo mẫu, tình nhân, mẹ hiền...

Vợ là ngân khố, kho tiền

Gởi vô nhanh gọn, hơi phiền rút ra

Vợ là biển cả bao la

Đôi khi nổi sóng khiến ta đắm phà

Vợ là âm nhạc, thi ca

Vừa là cô giáo, vừa là luật sư

Cả gan đấu khẩu vợ ư?

Cá ươn không muối, chồng hư cãi "bà" (vợ)

Chồng ơi! đừng có dại khờ

Không vợ, đố biết cậy nhờ tay ai

Vợ là phước, lộc, thọ, tài...

Thuộc trăm định nghĩa, trả bài vợ khen.

Vợ là quả ớt chín cây

Đỏ tươi ngoài vỏ rất cay trong lòng.

Vợ là một đóa hoa hồng

Vợ là "sư tử Hà Đông" trong nhà.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhvui/choitoiben.jpg
Vợ là "sư tử Hà Đông" trong nhà.

Vợ là nắng gắt mưa sa

Vợ là giông tố phong ba bão bùng.

Nhiều người nhờ Vợ lên Ông

Nhiều người vì Vợ mất không cơ đồ

Vợ là cả những vần thơ

Vợ là cả những giấc mơ vơi đầy

Vợ là một chất men say

Là nước hoa ngoại làm ngây ngất lòng

Vợ là một áng mây hồng

Vợ là hoa hậu để chồng mê say.

Vợ là khối óc bàn tay

Vợ là bác sĩ tháng ngày chăm ta

Vợ là nụ, Vợ là hoa

Vợ là chồi biếc, Vợ là mùa xuân.

Vợ là tín dụng nhân dân

Vợ là kế toán giải ngân trong nhà

Vợ là biển rộng bao la

Vợ là hương lúa đậm đà tình quê

Vợ là gió mát trưa hè

Vợ là hơi ấm thổi về đêm đông.

Vợ là chỗ dựa cho chồng

Nhiều ông dám bảo vợ không là gì!?

Khoan khoan hãy nghĩ lại đi!

Vợ quan trọng lắm không gì hơn đâu.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Nhan_Van_Hieu_Le/Hieu_Le/thiu%20gia%201.jpg
Vợ quan trọng lắm không gì hơn đâu.

Việc nhà vợ có công đầu

Nấu cơm, nấu nước, rửa rau, pha trà.

Vợ là máy giặt trong nhà

Vợ là Cát-sét, Vợ là Tivi.

Nhiều đêm Vợ hát, Chồng nghe

Lời ru xưa lại vọng về trong ta.

Vợ là làn điệu dân ca.

Vợ là bà chủ, vợ là nhân viên

Vợ là cái máy đếm tiền

Vợ là "Nội lực" làm nên cơ đồ

Vợ là thủ quỹ, thủ kho

Vợ là hạnh phúc ấm no trong nhà.

Vợ là vũ trụ bao la

Nhiều điều bí ẩn mà ta chưa tường.

Khi nào giận, lúc nào thương.

Sớm mưa, chiều nắng ai lường được đâu.

Vợ là một khúc sông sâu

Vợ như là cả một bầu trời xanh

Vợ là khúc nhạc tâm tình

Vợ là cây trúc bên đình làm duyên

Vợ là cô Tấm thảo hiền.

Vợ là cô Cám thích tiền ham chơi.

Vợ là con Phật, cháu Trời,

Rẽ mây rơi xuống làm người trần gian

Vợ là thánh chỉ vua ban

Có sao dùng vậy, không bàn đúng sai

Quỷ thần chứng cả hai vai

Vợ là chân lý không sai bao giờ ?

minh_anh
05-06-2014, 08:59 AM
Đưa Tay Hứng Giọt Mưa Rơi !!!

http://thaicucthieugia.com/images/stories/minhhoa2/Luubut_hoctro/ma%203.jpg


Tác giả: Bất Tường

Đưa tay hứng giọt mưa rơi
Giọt sầu nhân thế giọt đời riêng tôi
Chông gai phủ gót chân mềm
Gian nan tôi bước qua thềm đắng cay


http://thaicucthieugia.com/images/stories/minhhoa2/Luubut_hoctro/hng%20ma.jpg

Tình tôi còn mãi ưu hoài
Hận thương , thương hận chất đầy trong tim
Ngày qua tôi mãi đi tìm
Một tia nắng ấm đã chìm bể sâu

Thời gian dù có qua mau
Bước chân tôi vẫn qua cầu đau thương
Lòng tôi còn mãi vấn vương
Bóng người xưa ấy trên đường phiêu linh


http://thaicucthieugia.com/images/stories/minhhoa2/Luubut_hoctro/nam%20sinh.jpg

Làm sao định nghĩa chữ tình
Làm sao quên được bóng hình trong tim
Cho dù tượng đá im lìm
Cũng còn biết khóc trong đêm mưa buồn.

thanh_long
31-07-2014, 04:14 PM
QUÊ HƯƠNG
http://thaicucthieugia.com/images/stories/Anh_giadinh/hon_von_phu.jpg


Tác giả: Bất Khả Tri

Quê là bãi mía, nương dâu
Quê là đàn vịt, con trâu trên đồng
Quê là cô bác gánh gồng
Quê là vàng rực lúa đồng bao la

Quê là giếng nước, cây đa
Quê là mái bếp la đà khói bay
Quê là muối mặn, gừng cay
Quê là cô bác hăng say cấy cầy

Quê là soan tím rụng đầy
Quê là bóng mẹ hao gầy phơi rơm
Quê là ngô nướng tỏa thơm
Quê là trẻ nhỏ úp nơm, mò đầm

Quê là tiếng hát bổng trầm
Quê là yêu vụng nhớ thầm gái trai
Quê là cái cuốc, lưỡi mai
Quê là những rặng tre gai rì rào

Quê là bắp cải, su hào
Quê là ngõ nhỏ ra vào sớm trưa
Quê là kẽo kẹt võng đưa
Quê là dầu dãi nắng mưa mệt nhừ


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Anh_giadinh/Me_Que/img_0241.jpg

Quê là khoai nướng ngọt lừ
Quê là say thuốc lừ đừ lắm ông
Quê là mây trắng bềnh bồng
Quê là bến nước, dòng sông, con đò

Quê là chấp chới cánh cò
Quê là gặp gỡ hẹn hò yêu đương
Quê là rau muống chấm tương
Quê là bè bạn thân thương sớm chiều

Quê là bay bổng cánh diều
Quê là lắng đọng bao điều tâm tư
Quê là một chốn an cư
Quê là ăn ở mãi như ruột rà

Quê là tình nghĩa đậm đà
Quê là mộc mạc thật thà đến hay
Quê là rượu đậm men cay
Quê là thiếu thốn mượn vay dễ dàng


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Anh_giadinh/Me_Que/img_0229.jpg

Quê là chào hỏi rộn ràng
Quê là gần gũi trong làng, ngoài thôn
Quê là đau ốm thăm luôn
Quê là chia sẻ vui, buồn thiết tha

Quê là mồ mả ông cha
Quê là nguồn cội cho ta đi về
Quê là tình cảm tràn trề
Quê là hình bóng chẳng hề nhạt phai

Quê là vương vấn lòng ai
Quê là ao cá hôm mai buông cần
Quê là vất vả, tảo tần
Quê là sớm tối quây quần bên nhau


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Anh_giadinh/Me_Que/img_0262.jpg

Quê là bát nước, quả cau
Quê là bàn chuyện lúa, rau, lợn, gà
Quê là bản nhạc, lời ca
Quê là sâu nặng cho ta tìm về!./.

thieugia
24-10-2014, 05:46 PM
HỊCH TIẾN SĨ

Ta cùng các ngươi
Sinh ra phải thời bao cấp
Lớn lên gặp buổi thị trường.

Trông thấy:

Mỹ phóng Con thoi lên vũ trụ chín tầng
Nga lặn tàu ngầm xuống đại dương nghìn thước
Nhật đưa rô bốt na nô vào thám hiểm lòng người
Pháp dùng công nghệ gen chế ra cừu nhân tạo…

Thật khác nào:
Đem cổ tích biến thành hiện thực
Dùng đầu óc con người mà thay đổi thiên nhiên!
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa
Chỉ giận chưa thể đuổi kịp nước Nga, vượt qua nước Mỹ, mà vẫn chỉ hơn Lào, hao hao Băng la đét.
Dẫu cho trăm thân này phơi trên sao Hỏa, nghìn xác này bọc trong tàu ngầm nguyên tử, ta cũng cam lòng.

Các ngươi ở cùng ta,
Học vị đã cao, học hàm không thấp
Ăn thì chọn cá nước, chim trời
Mặc thì lựa May Mười, Việt Tiến
Chức nhỏ thì ta… quy hoạch
Lương ít thì có lộc nhiều.
Đi bộ A tít, Cam ry
Hàng không Elai, Xi pic.

Vào hội thảo thì cùng nhau tranh luận
Lúc tiệc tùng thì cùng nhau “dô dô”.
Lại còn đãi sỹ chiêu hiền
Giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ, cử nhân, ai cũng có phần, không nhiều thì ít.
Lại còn chính sách khuyến khoa
Doanh nghiệp, giáo viên, trí thức, nông dân nhận cúp, nhận bằng còn thêm tiền thưởng.

Thật là so với:

Thời Tam quốc bên Tàu, Lưu Bị đãi Khổng Minh,
Buổi hiện đại bên Nga, Pu tin dùng Mét vê đép,
Ta nào có kém gì?

Thế mà, nay các ngươi:

Nhìn khoa học chậm tiến mà không biết lo
Thấy công nghệ thụt lùi mà không biết thẹn
Giáo sư ư? Biết “Thần đèn” chuyển nhà mà chẳng chạnh lòng
Tiến sỹ a? Nghe “Hai lúa” chế tạo máy bay sao không tự ái?
Có người lấy nhậu nhẹt làm vui
Có kẻ lấy bạc cờ làm thích
Ham mát xa giống nghiện “u ét đê”
Ghét ngoại ngữ như chán phòng thí nghiệm

Chỉ lo kiếm dự án để mánh mánh mung mung
Không thích chọn đề tài mà nghiên nghiên cứu cứu
Ra nước ngoài toàn muốn đi chơi
Vào hội thảo chỉ lo ngủ gật
Bệnh háo danh lây tựa vi rút com pu tơ
Dịch thành tích nhiễm như cúm gà H5N1
Mua bằng giả để tiến sỹ, tiến sy
Đạo văn người mà giáo sư, giáo sãi.

Thử hỏi học hành như rứa, bằng cấp như rứa, thì mần răng hiểu được chuyện na niếc na nô?
Lại còn nhân cách đến vậy, đạo đức đến vậy, thì có ham gì bút bút nghiên nghiên.

Cho nên:

“Tạp chí hay” mà bán chẳng ai mua
“Công nghệ tốt” mà không người áp dụng.
Đề tài đóng gáy cứng, chữ vàng, mọt kêu trong tủ sắt
Mô hình xây tường gạch, biển xanh, chó ị giữa đồng hoang.
Hội nhập chi, mà ngoại ngữ khi điếc, khi câm?
Toàn cầu chi, mà kiến thức khi mờ, khi tỏ?
Hiện đại hóa ư? vẫn bám đít con trâu
Công nghiệp hóa ư? toàn bán thô khoáng sản
Biển bạc ở đâu, để Vi na shin nổi nổi chìm chìm, lưỡi bò liếm liếm
Rừng vàng ở đâu, khi bô xít đen đen đỏ đỏ

Thật là:

“Dân gần trăm triệu ai người lớn
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con”!

Nay nước ta:

Đổi mới đã lâu, hội nhập đã sâu
Nội lực cũng nhiều, đầu tư cũng mạnh
Khu vực có hòa bình, nước ta càng ổn định
Nhân tâm giàu nhiệt huyết, pháp luật rộng hành lang
Thách thức không ít, nhưng cơ hội là vàng!

Chỉ e:

Bệnh háo danh không mua nổi trí khôn
Dịch thành tích chẳng làm nên thương hiệu.
Giỏi mánh mung không lừa nổi đối tác nước ngoài
Tài cờ bạc không địch nổi hắc cơ quốc tế.
Cặp chân dài mà nghiêng ngả giáo sư
Phong bì mỏng cũng đảo điên tiến sỹ.

Hỡi ôi,

Biển bạc rừng vàng, mà nghìn năm vẫn mang ách đói nghèo
Tài giỏi thông minh, mà vạn kiếp chưa thoát vòng lạc hậu.

Nay ta bảo thật các ngươi:

Nên lấy việc đặt mồi lửa dưới ngòi pháo làm nguy;
Nên lấy điều để nghìn cân treo sợi tóc làm sợ
Phải xem đói nghèo là nỗi nhục quốc gia
Phải lấy lạc hậu là nỗi đau thời đại
Mà lo học tập chuyên môn
Mà lo luyện rèn nhân cách
Xê mi na khách đến như mưa
Vào thư viện người đông như hội
Già mẫu mực phanh thây gan ruột, Tôn Thất Tùng chẳng phải là to
Trẻ xông pha mổ thịt Bổ đề, Ngô Bảo Châu chỉ là chuyện nhỏ

Được thế thì:

Kiếm giải thưởng “Phiu” cũng chẳng khó gì
Đoạt Nô ben không là chuyện lạ
Không chỉ các ngươi mở mặt mở mày, lên Lơ xút, xuống Rôn roi
Mà dân ta cũng hưng sản, hưng tâm, vào Vi la, ra Rì sọt.
Chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu
Mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng,
Chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí,
Mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm.
Chẳng những tên tuổi ta không hề mai một,
Mà thương hiệu các ngươi cũng sử sách lưu truyền.
Trí tuệ Việt Nam thành danh, thành tiếng
Đất nước Việt Nam hóa hổ, hóa rồng
Lúc bấy giờ các ngươi không muốn nhận huân chương, phỏng có được không?

Nay ta chọn lọc tinh hoa bốn biển năm châu hợp thành một tuyển, gọi là Chiến lược
Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này theo lời ta dạy bảo thì suốt đời là nhà khoa học chính danh.
Nhược bằng không tu thân tích trí, trái lời ta khuyên răn thì muôn kiếp là phường phàm phu tục tử.

Vì:

Lạc hậu, đói nghèo với ta là kẻ thù không đội trời chung
Mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn trừ hung, không lo rửa nhục
Giữ một ngọn cỏ, cành cây, giọt nước trong giang sơn ta cũng làm ta quên ăn mất ngủ
Mà các ngươi cứ điềm nhiên lo tranh quyền đoạt lợi
Chẳng khác nào quay mũi giáo mà đầu hàng, giơ tay không mà thua giặc.
Nếu vậy rồi đây không biết dân Việt ta đi về đâu nữa, ta cùng các ngươi há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất này nữa?

Trí thức là nguyên khí quốc gia
Cho nên ta mới thảo Hịch này
Xa gần nghiên cứu
Trên dưới đều theo!

thieugia
15-11-2014, 11:31 AM
Đông !
http://thaicucthieugia.com/images/stories/Hoang_So_Dan_Da/cc%20vng.jpg

Đông về tắt gió heo may
Em nôn nao đợi hương cay cải ngồng
Nghe dơi gọi bạn ngủ Đông
Sáng ra bừng nở một bông cúc vàng.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Hoang_So_Dan_Da/l_rng%202.png

Đông về tắt nắng chói chang
Tắt luôn cả lọn nắng vàng chiều Thu
Đông về trời đất thâm u
Phượng hồng e lệ, lời ru não nề.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Hoang_So_Dan_Da/%20chiu%2002.jpg
Con thuyền cô quạnh đi về ven sông

Đông về hoang lạnh triền đê
Con thuyền cô quạnh đi về ven sông
Đơn côi tiếng vạc trên không
Tiếng người cô phụ khóc chồng thê lương.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thieugia_thivan/chem_gio/c%20ph.jpg
Tiếng người cô phụ khóc chồng thê lương.

Đông sang cúc đón đầu đường
Lưu ly ngóng đợi chờ vương sắc hồng
Mai buồn tỵ, nạnh, ngóng trông
Đào mong tắt ngọn Đông Phong khoe màu.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Hoang_So_Dan_Da/hoa%20lu%20ly.jpg

Em mong băng giá qua mau
Đón Xuân em hỏi sao lâu mới về ?.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Hoang_So_Dan_Da/lu%20ly%20ab.jpg

Sài Gòn chớm gió Đông 14.11.2014
Nhan_voky

<><><>><>

Phụ lục

1. Vài lời với tác giả bài thơ:

Tuy tác giả bải thơ nói về Đông, cảm nhận về Đông nhưng hình ảnh mùa Đông dưới con mắt của tác giả thật lung linh, ý thơ lóng lánh và đặc biệt…, rất đúng với thực tại, đúng với quy luật, với những gì đang xảy ra khi mùa Đông bắt đầu kéo về.
Hàng loạt hình ảnh như Đông đến Thu tàn, không còn lọn nắng vàng mùa Thu. Hình ảnh con dơi đi tìm chốn "ngủ vùi", con vạc đơn độc trong đêm, con thuyền lẻ loi dưới bến, tiếng du con não nùng, tiếng người đàn bà góa khóc chồng; khí trời lạnh lẽo, hoang vắng triền đê; các loại hoa đặc trưng của Đông như cúc vàng, cải ngồng, lưu ly đều lần lượt xuất hiện và xuất hiện một cách thứ tự. Đầu tiên là hoa cúc vàng mừng đón Đông và lại đón ngay đầu Đường, như một em trẻ chờ mẹ chợ về... hình ảnh thật đẹp. Hoa lưu ly, cánh mỏng sắc hồng như một cô gái ẻo lả cũng mong Đông về để mà khoe sắc. Hoa mai thì tị nạnh, trách hờn, trong khi đó hoa đào lại chỉ trông hết các ngọn gió Đông, trông gió Xuân… về để mà khoe sắc thắm ?

Rất nhiều những thông tin, dấu hiệu báo Đông đã được tác giả vận dụng một cách linh hoạt, điêu luyện nhằm làm nổi bật sắc màu mùa Đông.

Nick facebook Nguyễn Đức Ngọc Phương

---------------------------

2. Đông về trời đất thâm u
Phượng hồng e lệ, lời ru não nề.

Đây quả là một chi tiết rất đặc biệt trong bài thơ, rất thú vị: Trong khi tất cả các loại hoa như cúc, mai, cải, đào và lưu ly... những loài hoa đặc trưng của xứ lạnh đang ngày đêm trông mong, đón đợi Đông về để khoe mẽ... thì cây Phượng hồng lại vô cùng e lệ, thẹn thùng, miễn cưỡng như một cô… gái phương Nam. Phượng là loại cây rực rỡ vào ngày hè nóng bỏng, bởi vậy khi nhìn thấy những lưu ly, đào, cúc mừng đón Đông… cô gái ở đất phương Nam bỗng trở nên ngập ngừng, dè dặt... và cô như chợt co ro trước cái lạnh lẽo mùa Đông.

Nickface Quêchoa Thanhhóa

admin
17-11-2014, 11:48 AM
Ca ca!
Phượng hồng e lệ thì vẫn là hồng hồng nhé! Mùa đông rồi lấy đâu ra hoa Phượng nữa?

<><><>

Ý kiến của thầy Shao Lao Jia:

Loi Tran, hoa phượng thì đúng là không thể nở ở mùa Đông con đừng có cố, con cố thế thì thật chẳng khác gì xui trẻ ăn cứt gà, bảo người già uống sữa Ensure... Cơ mà hình như hôm qua cái này có người giải thích rồi, Caca nhớ không biết là thằng Nguyễn Đức Ngọc Phương hay Quêchoa Thanhhóa nó có phân tích về chi tiết này rồi mà, để tí lục lại xem bài viết đó đăng ở đâu. Còn bây giờ Caca có ý như thế này:

(1) Đúng là Phượng thì không thể khoe mã vào mùa Đông. Phượng là đại diện cho cái nắng rực rỡ, chói chang của mùa Hè, của phương Nam. Phượng như cô gái Nam, mong manh, mỏng mảnh, thích ăn mặc mát mẻ, tươi mát... bởi vậy, khi Đông về phượng tỏ ra rất e ngại, lúng túng trước sự chào đón quá nồng hậu của cô Cúc, cô Đào, cô Lưu Ly... kể cả bà già già khú đế như mụ Cải Ngồng... cũng hân hoan, tưng tửng mừng đón mùa Đông.

(2) Phượng như cô gái Nam, rất lạ lẫm với cái khí trời lạnh lẽo của phương Bắc bởi vậy phượng mới thu mình trước cơn gió đầu mùa, run rẫy khi thấy thiên hạ đang ngạo ngễ... cười !.

(3) Phượng hồng mà Nhan Voky nhắc đến trong bài thơ là loại cây phượng có hoa màu "hồng", sẽ ra bông màu hồng, để phân biệt với cây hoa phượng có hoa màu "tím". Từ "phượng hồng" được dùng trong bài thơ trên phải hiểu không mang tính chứa đựng thông tin thông báo kiểu như hiện nay em đang mang thai, trên cây phượng đang mang bầu, đang có hoa...

Đấy là ý kiến của Ca Ca Thiều Lan ạ. Dưới đây là cây Phượng Tím, một loại hoa có rất nhiều ở xứ lạnh Đà Lạt.

admin
17-11-2014, 11:49 AM
nhng mong ming,,,

thieugia
20-04-2015, 03:54 PM
ĐÒ LÈN

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Hoang_So_Dan_Da/00o.jpg

Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần.

Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Hoang_So_Dan_Da/%20chiu%2003.jpg

Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua, xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn.

Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực
giữa bà tôi và tiên phật thánh thần
cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm.

Bom Mỹ giội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn!


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Hoang_So_Dan_Da/chiu%20qu.jpg

Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!

Tác giả Nguyễn Duy

fangzi
06-05-2015, 01:41 AM
Nếu mai này không còn anh

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Hoang_So_Dan_Da/Hoai_Niem/bung%20vt%20o.jpg


Tác giả: Bất tri

Nếu mai này trên thế giới bao la
Không còn anh giữa những chiều hối hả
Chỉ mình em giữa phố phường xa lạ
Từng con đường vắng hình bóng đôi ta

Hãy cho anh yêu em thật đậm đà
Đến bên em những khi còn có thể
Anh sợ rằng, một ngày buồn đẫm lệ
Chợt vô tình anh biến mất thì sao?

Sẽ có người bật khóc trước nỗi đau
Còn riêng em, đừng bao giờ khóc nhé
Vì anh không thể nào lau dòng lệ
Hãy mỉm cười như thể vẫn còn anh


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Nhan_Van_Hieu_Le/h.jpg

Trên cuộc đời tất cả rất mong manh
Trái tim anh chưa bao giờ ngừng nhịp
Thổn thức yêu với vạn điều nối tiếp
Dù mai này thế giới chẳng còn anh.

fangzi sưu tầm

fangzi
06-05-2015, 02:05 AM
Nỗi nhớ em lại tràn về

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Hoang_So_Dan_Da/anh%20nh%20em%2012.jpg

Đêm khuya rồi anh chưa ngủ em ơi
Lại nhớ em với những gì xa lạ
Anh chỉ mong một chút gì yên ả
Thoáng qua lòng quên hết chuyện đã qua.

Ai sắp bày ngang trái chuyện tình ta
Quen nhau chi trong thói đời cay nghiệt
Khi nhận ra tình yêu trong nuối tiếc
Cũng là ngày đôi ngã mình chia phôi

Bên kia bờ nay em đã có đôi
Buông tay anh, tập quen cuộc sống mới
Và niềm vui chưa bao giờ trở lại
Yêu là gì mà sao chẳng đổi thay


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Hoang_So_Dan_Da/p%20qu.jpg

Anh dối lòng ngây ngất những men cay
Trốn tránh em trong tiếng cười rộn rã
Nép mình vào những niềm vui xa lạ
Bên vòng tay âu yếm của một người

Anh chỉ sợ những cay đắng trong đời
Sau cơn say lại tìm anh đày đọa
Nỗi nhớ em lại tràn về vội vã
Nước mắt này anh nuốt nghẹn vào tim.

Fangzi sưu tầm