PDA

View Full Version : Các Môn Võ Việt Nam và Lịch Sử Hình Thành ( ai thấy thiếu bổ sung thêm)



huyen_vu
29-05-2012, 11:07 PM
Môn Phái Vovinam-Việt Võ Đạo

Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Tây) được tạo nên bởi phù sa của ba dòng sông lớn: sông Nhị (Hồng Hà), sông Đà (Hắc Giang) và sông Lô; và hai nhánh sông nhỏ: sông Con (Tích Giang) bắt nguồn từ Ba Vì chảy quanh vùng và sông Đáy (Hát Giang) chạy ven địa giới phía Đông của tỉnh đã góp phần tạo cho Sơn Tây thành một vùng đất phì nhiêu, màu mỡ. Bên cạnh đó, Sơn Tây còn có ngọn Ba Vì hùng vĩ. Gần Ba Vì là hệ thống núi lửa Đa Chông trùng điệp và một dãy núi đá vôi lớn ở phủ Quốc Oai (Phong Châu cũ) chiếm cứ một dãy đất rộng lớn từ bờ sông Đáy đến sông Đà. Tuy thuộc vùng châu thổ tiếp giáp với đồi núi nhưng khí hậu của Sơn Tây lại gần giống với các tỉnh vùng cao, nên người dân vừa có tinh thần khoáng đạt của người miền núi, vừa có nếp sống văn minh của cư dân các tỉnh đồng bằng. Địa linh này đã sản sinh nhiều nhân kiệt như Nguyễn Tuấn (Sơn Tinh), Bố Cái Đại Vương, Trưng Vương, Ngô Quyền, Từ Đạo Hạnh, Vũ Công Duệ, Phùng Khắc Khoan, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu... Và tại làng Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, ngày mồng tám tháng tư năm Nhâm Tý (ngày 24 tháng 5 năm 1912), cậu bé Nguyễn Lộc đã cất tiếng khóc chào đời.

Ông là trưởng nam trong một gia đình có 5 người anh em (Nguyễn Thị Thái, Nguyễn Dần, Nguyễn Hải và Nguyễn Thị Bích Hà). Thân sinh là cụ ông Nguyễn Đình Xuyến và thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Hòa. Gia tộc cụ ông từng sinh sống, làm ăn lâu đời tại làng Hữu Bằng. Một thời gian sau, vì sinh kế, cụ ông chuyển gia đình về Hà Nội và ngụ trong một ngôi nhà bình dị tại đường Harmand Rousseau (phía sau chợ Hôm). Khi người con trai đầu lòng cắp sách đến trường, cụ ông đã nhờ một vị lão võ sư khai tâm cho con mình những thế võ và vật dân tộc để rèn luyện sức khỏe và phòng thân.

Ông Nguyễn Lộc trưởng thành trong thảm cảnh quê hương Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ hơn nửa thế kỷ. Thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ đang bị chi phối bởi hai khuynh hướng: Một bên là hy sinh dấn thân vào con đường cách mạng cứu nước; còn một bên kia là buông mình theo lớp vỏ văn minh hào nhoáng của phương Tây mà những thú vui sa đọa, những phong trào thể thao của lớp thượng lưu trưởng giả được thực dân Pháp khuyến khích để ru ngủ các tầng lớp thanh niên. Là một thanh niên yêu nước, ông Nguyễn Lộc vô cùng đau lòng trước thực trạng quê hương. Tất nhiên, ông không bằng lòng và lên án gắt gao dã tâm của bọn thực dân thống trị và tay sai. Theo ông, một trong những yếu tố đưa cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đến thành công là cần phải xây dựng cho người thanh niên một lòng yêu nước sâu sắc, một tinh thần tự hào dân tộc, một ý thức cách mạng, ý chí quật cường và nghị lực quả cảm; tất cả những điều đó phải được chứa đựng trong một thân thể khỏe mạnh, đanh thép, sức lực dẻo dai, chịu đựng được mọi gian khổ, có khả năng tự vệ và chiến đấu. Vì thế, ông có ước vọng góp phần nung đúc và cống hiến cho tổ quốc những người con yêu có đạo đức, ý chí quyết thắng sự hèn yếu, bạc nhược về tâm hồn và thể xác hầu vươn lên đến một lối sống tốt đẹp hơn: "Sống, giúp người khác sống và sống vì người khác."

Mang hoài bão ấy, ngoài việc tu dưỡng đạo đức trau giồi học vấn, ông còn dành thời gian sưu tầm, nghiên cứu nhiều môn võ khác. Ngày đêm ông thường bầu bạn với nhiều loại sách báo khác nhau từ Triết học, Văn học, Sử học... đến cả Y học, Cơ thể học. Tất cả những ý tưởng quan trọng về võ học và những vấn đề liên quan đều được ông ký chú, phân loại cụ thể. Khu vực bờ đê sông Hồng từ bến Phà Đen đến Viện Bác cổ, nhà Hát Lớn đều có dấu chân ông chạy nhảy, đi quyền, múa côn... từ lúc mặt trời chưa tỉnh giấc. Ngoài ra, ông còn đến tham quan các võ đường, dự khán những trận tỉ thí võ đài hoặc mạn đàm cùng một số võ sư thời danh hầu tìm hiểu thêm các đòn thế hay, đẹp, hiệu quả của các môn võ Trung Quốc, Nhật, Xiêm, Quyền Anh...

Qua đó, ông nhận thấy môn nào cũng có ưu điểm. Có môn thiên về cương, kỹ thuật cứng và mạnh; có môn thiên về nhu, kỹ thuật linh hoạt, khéo léo, uyển chuyển, ít dùng sức. Riêng các môn võ Việt Nam rất độc đáo, không theo cương hay nhu nhất định mà biến hóa, linh động tùy theo thể tạng mỗi người, mỗi địa phương. Do sáng tạo từ lâu đời, võ Việt Nam cũng có một số kỹ thuật không còn phù hợp với thời đại mới nhưng ông cũng nhận thấy rằng các kỹ thuật đó vẫn phát triển được những tố chất của cơ thể như thăng bằng, chính xác, khéo léo... mà con người ở thời đại nào cũng cần. Vấn đề cốt lõi là thông qua những bài bản xưa, đào sâu tinh nghĩa, tìm ra phương pháp huấn luyện mới, đáp ứng được tính dân tộc. Từ việc nhận ra thực chất của những kỹ thuật, bài võ đi đến việc nhận rõ giá trị đặc thù của từng môn võ, đồng thời đối chiếu với đặc điểm tâm lý và thể tạng của người Việt Nam: ông nhận thấy cần phải xây dựng một môn võ mang tính dân tộc, khoa học và hiện đại để giúp thanh niên có một phương pháp rèn luyện sức khỏe, tự vệ và chiến đấu mang danh dân tộc vì trong mọi cuộc chiến đấu, vấn đề tinh thần và danh dự là hai yếu tố quan trọng góp phần quyết định sự thành bại.

Với các luận cứ đó, ông Nguyễn Lộc đã lấy môn vật và võ dân tộc Việt Nam làm nồng cốt, khai thác mọi tinh hoa võ thuật đã có trên thế giới để sáng tạo một môn phái riêng đặt tên là VOVINAM (từ quốc tế hóa của cụm từ "Võ Việt Nam").

Khoảng mùa thu năm 1938, khi việc nghiên cứu hoàn thành, ông mang ra huấn luyện thể nghiệm cho một số thân hữu cùng lứa tuổi. Trong thời gian này, Vovinam lại được ông tiếp tục sửa chữa, bổ sung về lý luận lẫn kỹ thuật. Ngót một năm sau, ông đem lớp môn sinh đầu tiên công khai ra mắt quần chúng tại nhà Hát Lớn Hà Nội. Cuộc biểu diễn thu hút đông đảo người xem và thành công rực rỡ.

huyen_vu
29-05-2012, 11:07 PM
Để tạo thuận lợi trong việc truyền bá và phát triển "người con tinh thần" của mình, Sáng Tổ nhận lời mời của bác sĩ Đặng Vũ Hỷ - Hội Trưởng Hội Thân Hữu Thể Thao - tổ chức các lớp dạy Vovinam dành cho thanh niên. Lớp võ công khai đầu tiên khai giảng vào mùa xuân năm 1940 tại trường Sư phạm (École Normale) ở phố Cửa Bắc, Hà Nội. Sau đó, nhiều lớp võ liên tục được mở ra.
Nhớ lại những sự việc có ý nghĩa sâu sắc, các môn đệ ở thời kỳ 1938-1940 thường kể lại tấm gương "uy vũ bất năng khuất" của vị Sáng Tổ môn phái. Trong buổi biểu diễn vào mùa thu 1940, có một viên chức cao cấp của thực dân Pháp là Trung tá Maurice Ducoroy chủ tọa; vì hắn ta là biểu tượng cho thực dân thống trị ngồi trên khán đài nên Sáng Tổ không cho các môn sinh "Nghiêm Lễ" (lối chào của Vovinam) khán giả như thường lệ mà đưa môn sinh vào hậu trường nghiêm mình làm lễ trước bàn thờ tổ quốc đã được lập sẵn. Giữa cuộc biểu diễn, ông Đặng Vũ Hỷ mời ông lên khán đài để Ducoroy tặng huy chương. Biết không thể từ chối, ông đành phải lên nhận, nhưng khi rời "khán đài danh dự," ông điềm nhiên gỡ huy chương bỏ vào túi và ung dung điều khiển tiếp cuộc biểu diễn. Hành động trên không những làm bẽ mặt chức quyền thực dân mà còn gây xúc động sâu xa về lòng yêu nước và ý thức dân tộc trong giới thanh niên và nhất là các môn sinh Vovinam thời đó.

Từ đó, Vovinam luôn luôn châm ngòi cho phong trào công khai chống Pháp. Phong trào đó được phát động mạnh vào năm 1942, từ vụ đụng độ chính thức giữa hai giới sinh viên Việt-Pháp tại trường Đại Học Hà Nội và công chức tại Sở Canh Nông, đều do các sinh viên và viên chức môn sinh Vovinam chủ xướng. Vì thế, chính quyền thực dân Pháp ra lệnh đình chỉ các lớp võ thuật tại trường Sư Phạm, cấm chỉ Sáng Tổ hoạt động. Đây chính là giai đoạn thử thách quan trọng nhất của môn phái Vovinam. Sáng Tổ vẫn bí mật dạy một số môn đệ tâm huyết ở nhà riêng và phát động phong trào công khai chống Pháp trong quảng đại quần chúng.
Ít lâu sau, Vovinam cộng tác với các đoàn thể ái quốc tổ chức các ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, kỷ niệm Hai Bà Trưng, các công cuộc cứu tế xã hội, triệt hạ tượng đồng thực dân tại các vườn hoa Paul Bert, Canh Nông... Đồng thời nhiều lớp võ tự vệ được mở ra tại nhiều nơi ở Hà Nội đã thu hút hàng chục ngàn môn sinh.
Sự hâm mộ Vovinam trong quần chúng thời đó được bộc lộ bằng những khẩu hiệu: "Người Việt học võ Việt", "Không học Vovinam không phải là người yêu nước"... Tinh thần ái quốc và tiềm lực dân tộc được khơi dậy.
Ở thời kỳ này, việc đấu tranh giành độc lập là nhu cầu bức thiết của đất nước. Do đó, kỹ thuật võ phát xuất từ nghiên cứu sáng tạo của Sáng Tổ rất đơn giản, hữu hiệu mà dễ tập, dễ áp dụng nhưng rất cương mãnh, dữ dội, đặt nặng tính tốc chiến tốc thắng với phương pháp huấn luyện chú trọng nhiều về ngoại công thân thép, tốc lực, sức chịu đựng và sức bền bỉ. Chương trình tuy có phân cấp sơ, trung, và cao đẳng nhưng không mấy ai học quá ba năm, một phần vì thời cuộc, vì nhu cầu ứng phó cấp thiết; một phần đôi lúc do nhà cầm quyền Pháp cấm cản, hàng ngũ cốt cán phải tập luyện bí mật. Các lớp võ công khai lúc bấy giờ thường chỉ kéo dài ba tháng với những đòn cận chiến đơn giản.

huyen_vu
29-05-2012, 11:08 PM
Tháng 4-1945, từng đợt võ sư Vovinam được tung đi khắp toàn quốc để quảng bá và giúp cho thanh niên có một lợi khí chống xâm lăng hữu hiệu.
Ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Võ Sư Sáng Tổ lãnh đạo các môn đệ cùng toàn dân tham gia kháng chiến chống Pháp. Một số môn đồ đã trở thành những chỉ huy nổi tiếng, và một số đã hy sinh cho Tổ Quốc.
Khi Việt Minh bắt đầu thao túng cuộc kháng chiến và lộ bản chất là những con người Cộng Sản khát máu, Ông đã ngưng mọi sự giúp đỡ của Môn Phái cho Việt Minh. Với chủ trương tiêu diệt những sự chống đối, Việt Minh đã ra lệnh lùng bắt Võ Sư Sáng Tổ cùng các môn đồ. Bị lùng bắt bởi hai lực lượng đối nghịch là Việt Minh và chính quyền Pháp, Ông đã ra lệnh cho các môn đồ phân tán mỏng về các địa phương để ẩn tránh. Còn một số ít môn đồ tâm huyết theo Ông lên mạn ngược trở về quê hương ông.

Tại làng Hữu Bằng, Sáng Tổ đã mở lớp võ cho thanh niên huyện Thạch Thất và cử môn đệ phụ trách lớp võ thuật cho Sinh Viên Sĩ Quan trường Quân Chính Trần Quốc Tuấn. Sau đó Ông lại lên đường phiêu bạt, mở rải rác các lớp Huấn Luyện cho Đại và Trung Đội Trưởng Dân Quân Du Kích ở làng Chế Lưu, Ẩm Thượng, Thanh Hương, Đan Hà, Đan Phú...
Vào tháng 3 năm 1948, Ông xuôi Phát Diệm, đến khu ăn toàn của giáo xứ Phát Diệm. Ông cử môn đệ phụ trách huấn luyện cho Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Phát Diệm của Tổng Chỉ Huy Trần Thiện.
Tháng 8-1948, Ông hồi cư về Hà Nội, tái mở những lớp võ cho thanh niên để gây dựng lại phong trào học Vovinam, kiến thiết lại đời sống xã hội, khơi lại lòng tin yêu của thanh niên trong việc tu dưỡng tinh thần và rèn luyện thân thể.
Năm 1951, Ông cộng tác với một số nhân sĩ thành lập Việt Nam Võ Sĩ Đoàn với những lớp võ đại chúng tại sân trường Hàng Than, Hà Nội.
Ngày 20-7-1954, Hiệp Ước Genève phân chia Việt Nam bằng vĩ tuyến 17 ra làm hai nước: miền Bắc Cộng Sản và miền Nam Quốc Gia. Đây là một cơ hội thử thách mới cho môn phái nói chung, và Sáng Tổ nói riêng. Nếu Sáng Tổ ở lại miền Bắc thì môn phái Vovinam sẽ bị khống chế bởi Cộng Sản. Nếu Sáng Tổ quyết định ra đi, tất nhiên sẽ ảnh hưởng ngay tới một số môn đệ tâm huyết vì miền Bắc là quê hương của đại đa số môn sinh ruột thịt, và sẽ bỏ lại đất Bắc một số môn đệ khác đã dày công lao đào tạo, vì các môn đệ này còn bị liên hệ nhiều tới gia đình, quyến thuộc và quê hương tại miền Bắc. Ngược lại, miền Nam vẫn còn là giải đất xa lạ, chưa được hiểu biết gì nhiều. Nếu vào Nam thì phải trả bằng một giá rất đắt: lại trở về từ khởi điểm, trong lúc Sáng Tổ mỗi ngày một lớn tuổi, các tầng lớp môn đệ cũ đã bị thời cuộc và sinh hoạt chính trị làm băng hoại rất nhiều. Vào miền Nam với chương trình xây dựng lại từ đầu, không ai có thể trắc lượng trước được những khó khăn và triển vọng trong những năm sắp tới.

Cuối cùng Võ Sư Sáng Tổ lại một lần nữa quyết định sáng suốt: vượt lên khỏi những khó khăn, trở ngại, để quyết định vào Nam tạo dựng lại từ đầu, trong những điều kiện không thuận lợi. Vì vậy cho nên vào tháng 7-1954, Sáng Tổ cùng các môn đồ tâm huyết di cư vào Nam, mở võ đường tại đường Thủ Khoa Huân (Sài Gòn). Sáng Tổ đã cử các võ sư môn đệ phụ trách các lớp võ cho Hiến Binh Quốc Gia tại Sài Gòn và Thủ Đức...
Giữa năm 1957, Sáng Tổ nằm bệnh phải tạm nghỉ dạy một thời gian. Ông ủy quyền cho người môn đệ trưởng tràng là Võ sư Lê Sáng tạm thời thay thế việc phụ trách các lớp võ. Tuy không trực tiếp giảng dạy Vovinam nhưng Sáng Tổ vẫn không ngừng tìm tòi, phân tích các kỹ thuật lẫn tài liệu của Vovinam, hầu phát huy môn phái. Sáng Tổ vẫn thường xuyên theo dõi các môn đệ tiếp tục hoạt động theo đường lối mà Ông đã đề ra.
Cũng vào thời điểm này, căn cứ vào các ý niệm tiên khởi về Cách Mạng Tâm Thân do Sáng Tổ giảng dạy, Vs. Lê Sáng đã hình thành hệ thống hóa kỹ thuật võ học, lý thuyết võ đạo và đường hướng, tôn chỉ và mục đích của môn phái. Đồng thời Võ sư Lê Sáng quy tụ lớp môn đệ đã theo tập Sáng Tổ từ năm 1955, bồi dưỡng thành lớp võ sư cốt cán chung tay phát triển môn phái.
Năm 1958, Võ sư Lê Sáng được bầu vào chức vụ Tổng Thư Ký Tổng Cuộc Quyền Thuật Việt Nam và đảm nhiệm chức vụ này cho đến năm 1968. Trong thời kỳ này, Võ sư Lê Sáng đã nghiên cứu, tìm hiểu sâu về các môn võ cổ truyền, và ông đã rút ra được tinh túy và tìm cách bổ túc, cùng chỉnh lại phần phân thế thất truyền của những bài võ xưa mà lập ra một hệ thống mới "một phát triển thành ba" cho môn phái sau này.

huyen_vu
29-05-2012, 11:09 PM
Nam Hồng Sơn:

Môn phái Nam Hồng Sơn được sáng lập bởi võ sư Nguyễn Văn Tỵ, hay còn gọi là Nguyễn Tỵ. Võ sư Nguyễn Tỵ, sinh quán tại Hà Nội và đã hơn 60 tuổi, vốn là con của cố lão võ sư Nguyễn Văn Tộ, tức Sáu Tộ, người từng nức tiếng giỏi võ Ta lẫn võ Tàu tại Hà Thành và là bạn của các bậc tiền bối võ thuật Việt Nam như: Ba Cát, Hàn Bái, Cử Tốn...

Võ sư Nguyễn Tỵ đã được bố truyền dạy võ nghệ từ năm lên 9, và lúc trai trẻ ông cũng từng dạy võ cho thanh niên tại làng Văn Hội (Thường Tín, Hà Đông). Ngoài ra ông còn là một trong những "cây guitar" sáng chói của đất Hà Thành.

Từ năm 1984 trở lại đây, phong trào võ thuật Hà Nội được khôi phục, võ sư Nguyễn Tỵ vừa dạy đàn, vừa dạy võ. Trên lãnh vực võ thuật, trong hơn 10 năm, ông đã mở nhiều lớp dạy võ tại Hà Nội, Hà Tây với danh xưng môn phái là Nam Hồng Sơn, đồng thời đào tạo được nhiều lực lượng kế thừa có uy danh trong làng võ xứ Bắc.

Về mặt kỹ thuật, võ sư Nguyễn Tỵ vẫn trung thành với chương trình giảng dạy của cha ông sử dụng lúc sinh thời. Ba năm đầu dành cho việc luyện tập võ Tàu gồm: tấn pháp, đòn thế, Long hổ quyền, Tứ lộ đoản quyền, Thảo mã quyền, Thượng vũ quyền, Hồng côn, Tề mi côn, Quý châu kiếm, Liên hoa độc kiếm, Liên hoa song kiếm...

Những năm tiếp theo dành cho việc luyện tập võ Ta, với các bài như: Lão mai, Ngọc trản, Đao xung thiên... Cuối cùng là phần tập luyện khí công và nội công. Võ phục môn phái Nam Hồng Sơn màu đen, đai đẳng gồm 7 màu cấu tạo nên ánh sáng, theo thứ tự từ thấp lên cao là: đen, xanh, chàm, tím, cam, vàng và đỏ. Riêng đai đỏ dành cho HLV thì chia làm 3 cấp: nhất đẳng, nhị đẳng và tam đẳng.

Song song với việc dạy võ, võ sư Nguyễn Tỵ vẫn đang dạy đàn guitar tại nhà riêng ở số 67, đường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Đối với võ sư Nguyễn Tỵ, võ nghệ và âm nhạc tuy là hai loại hình văn hóa khác nhau, nhưng tựu trung chỉ là một, bởi cả hai thứ đều cùng là nghệ thuật cả!

Thăng Long Võ Đạo :

Trong lịch sử võ Việt Nam, các vùng được coi là cái nôi của võ thuật đất Bắc là Thăng Long, Hà Bắc, Sơn Tây... Những vùng đất này đã nảy sinh nhiều anh hùng hào kiệt, Trạng nguyên, Bảng nhãn, Cử nhân võ thuật. Nhiều huyền thoại trong làng võ cũng được lưu truyền từ đây. Thăng Long võ đạo là một môn phái võ mang trong mình huyền thoại đẹp, lấp lánh tinh thần yêu nước và thượng võ
Chuyện lưu danh làng võ
Hà thành thất thủ, Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết. Một võ tướng của ông là cụ Cử Tốn - vị cử nhân cuối cùng của triều Nguyễn - lui về ở ẩn, mở lò dạy võ ở khu vực phố Trần Quý Cáp bây giờ. Trong lòng viên tuỳ tướng của vị quan giữ thành bất khuất đau đáu một tâm nguyện khi Tổ quốc cần sẽ lại cùng môn sinh phò vua giúp nước. Giặc Pháp coi cụ như cái gai trước mắt. Chúng hãm hại làm cụ mù hai mắt. Song, những bí kíp võ công của cụ đã được lớp truyền nhân tinh hoa như Mùi Đen, Tư Côi, Lý Đen... lĩnh hội.
Để triệt hạ lò võ giàu tinh thần yêu nước này, giặc sắp sẵn mưu gian lập đả lôi đài treo thưởng cho võ sư ba xứ Bắc - Trung - Nam và toàn cõi Đông Dương đánh thắng thầy trò Cử Tốn sẽ được thưởng Bắc Đẩu bội tinh. Biết được âm mưu thâm độc muốn gây cảnh nồi da nấu thịt trong làng võ và để cho một số võ sư và dân chúng quên đi kẻ thù chính là giặc Pháp nhưng thầy trò cụ Cử Tốn cũng rất khó xử: không tham chiến thì quân hùng chê cười, không bảo vệ được danh dự môn phái mà thượng đài thì không tránh khỏi cảnh đầu rơi máu chảy, ân oán giang hồ. Cụ Cử cùng các môn sinh suy nghĩ lung tâm, càng đến gần ngày hạn định lòng họ càng như lửa đốt. Cuối cùng, vỏ quýt dày đã gặp móng tay nhọn...
Hồi đó Bách thú Hà Nội có con hổ cụt đuôi khét tiếng hung dữ. Hôm thi đấu, trước sự chứng kiến của các quan chức thực dân và Nam triều một đệ tử chân truyền của cụ Cử Tốn đã vào chuồng cọp đực diễn lại tích Võ Tòng đả hổ. Mùi Đen tay không vào chuồng cọp đực, sau một hồi ác chiến đã đánh gục cọp đực, tóm gáy, bẻ chân đưa sang chuồng cọp cái và ngược lại. Những kẻ tưởng mình có mưu sâu kế hiểm đành bất lực, quần hùng ba xứ và Đông Dương thêm kính trọng cái nhân, cái trí, cái dũng của thầy trò cụ Cử Tốn.
Hậu duệ tài năng
Người có cơ duyên với nghiệp võ ngay từ thời niên thiếu là võ sư Chưởng môn Nguyễn Văn Nhân. Ông thụ giáo môn Thiếu lâm gia truyền từ người ông nội là quan Thống binh của triều đình và võ cổ truyền từ ông ngoại - cụ Cử Tốn. Trước cách mạng tháng Tám ông là một thầy võ nổi tiếng vùng Lương Yên (Hà Nội). Năm 1944, ông tham gia cách mạng, gia nhập Thanh niên xung phong thành Hoàng Diệu. Tháng 8/1945, ông vào bộ đội phụ trách đại đội quân báo của Trung đoàn E41 ở Liên khu 3. Khi Hồ Chí Minh phát động Tuần lễ vàng, anh bộ đội 25 tuổi này đã biểu diễn những công năng đặc dị để quyên tiền giúp đồng bào. Trong hai cuộc kháng chiến, võ sư Văn Nhân làm công tác huấn luyện cho các đơn vị đặc biệt của Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ. Ông cũng có vinh dự được làm công tác bảo vệ một số vị lãnh tụ của nhà nước.
Nước nhà thống nhất, do yêu cầu chung và phong trào phát triển của võ học nước nhà, lão võ sư đã tinh lọc và đúc kết nên một phương pháp rèn luyện võ thuật phù hợp với tính cách và thể tạng người Việt. Phương pháp đó dựa trên vốn liếng căn bản là tinh hoa võ thuật của dòng tộc cùng kinh nghiệm hàng chục năm ròng chiến đấu và huấn luyện võ thuật trong quân đội cũng như tiếp cận võ thuật hiện đại. Ông đã lấy tên Hà Nội cổ xưa để đặt tên cho môn phái của mình, đó là Thăng Long võ đạo.
Thăng Long võ đạo lấy Nhu - Hoà - Nhân - Trí làm gốc, suy tôn vị anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn làm Thánh tổ và lấy ngày 20/8 (âm lịch) làm ngày giỗ Tổ. Các bài bản được hệ thống hoá trên cơ sở khoa học có tính đến những kiến thức y, lý. Thăng Long võ đạo lấy Thiên Long bát bộ làm bộ pháp, Yêu tự xà hành làm thân pháp, Thôi sơn quyền làm thủ pháp, thuật cường thân được áp dụng để luyện nội lực. Trong thập bát ban binh khí, kiếm pháp của Thăng Long võ đạo là lợi hại nhất, thật không hổ danh là "Thăng Long đệ nhất kiếm pháp". Ngoài quyền cước, môn sinh của Thăng Long võ đạo còn được truyền dạy và luyện tập tinh thông thập bát ban võ nghệ và các loại binh khí đặc dị của môn phái. Bên cạnh những bài quyền mang tính đối kháng cao, trong chương trình huấn luyện của Thăng Long võ đạo còn có những bài quyền dưỡng sinh chữa bệnhvà các phương pháp khí công nhập định nhằm tu dưỡng nhân cách.
Với chương trình huấn luyện có hệ thống, có mục tiêu rõ ràng, Thăng Long võ đạo đã nhanh chóng phát triển rộng rãi trên địa bàn cả nước cũng như ở nước ngoài. Dưới sự dạy dỗ của vị cố vấn Liên đoàn võ thuật cổ truyền Hà Nội, đồng thời là chưởng môn, cố vấn của các võ đường Thăng Long võ đạo Nguyễn Văn Nhân, các đệ tử của ông như: bác sĩ - võ sư Nguyễn Văn Thắng (con trai), các võ sư Bùi Hoàng Lân, Anh Tuấn... đã làm rạng danh môn phái bằng nhiều tấm huy chương cao quý gặt hái được từ các kỳ đại hội, hội diễn và thi đấu võ thuật cổ truyền tại thủ đô và toàn quốc. Họ cũng chính là những người đang tích cực truyền bá Thăng Long võ đạo đến với lớp thanh thiếu niên và những người hâm mộ võ thuật.

huyen_vu
29-05-2012, 11:10 PM
Nam Huỳnh Đạo:

Nam Huỳnh Đạo là môn phái mới thành lập vừa tròn ba năm và đã tạo nên một "hiện tượng" trong làng võ cổ truyền TP.HCM. Nam Huỳnh Đạo đã thu hút cả ngàn người theo tập ở mọi lứa tuổi và nhiều tầng lớp xã hội.

Có thể bắt gặp hàng trăm võ sinh "nhí" ở độ tuổi còn khóc nghêu ngao trong vòng tay mẹ, lạ chưa khi đến võ đường rất hăng say tập luyện, lại còn biết xưng hô phân biệt "huynh đệ" với nhau. Có cả những môn đồ đã bước vào giai đoạn "tứ thập nhi bất hoặc" của cuộc đời.

Người sáng lập Nam Huỳnh Đạo lại là võ sư Huỳnh Tuấn Kiệt, năm nay 36 tuổi.
Trong làng võ anh quả còn quá trẻ. Nhưng trong "nghề" anh đủ độ già dặn và chín muồi. Lên năm tuổi anh đã được cho học võ. Một người thân của anh kể hiếm thấy có ai ham thích võ như anh. Một ngày suốt năm, sáu tiếng tập và luyện công cứ thế liên tục cho đến tận ngày hôm nay.

Cơ thể của anh cho thấy những "ấn chứng" võ công kỳ diệu của một người khổ luyện theo một con đường đúng đắn: lưng qui, cổ rắn, tay hạc... Nhìn vóc dáng đồ sộ của anh, một cao thủ đã vỗ vai nói đùa: "Tập võ mà để cho thân hình to lớn, dềnh dàng như vậy là chưa đi tới đỉnh". Thế nhưng khi cả hai vào cuộc so kình, với nội lực kinh người anh đã phát kình hất người bạn võ có khối lượng hơn 90kg này văng xa mấy thước.

Là hậu duệ đời thứ 7 của Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Huỳnh Đức (tên thật là Huỳnh Tường Đức), Huỳnh Tuấn Kiệt được lựa chọn làm người kế thừa dòng võ Huỳnh gia vốn được lưu giữ nhiều đời trong tộc họ. Dòng họ Huỳnh nổi tiếng ở Long An không chỉ về sự giàu có mà còn về y võ và nho học.

Thân phụ của Kiệt là cụ Huỳnh Văn Khanh, người dịch bộ sách nổi tiếng Hoàng Hán y học của bác sĩ Thang Bản Cầu Chân (Nhật Bản). Tiến sĩ Huỳnh Quốc Thắng, người anh trai lớn trong nhà, có lần qua Trung Quốc đến "Đồng nhân đường Thái y viện" tại Bắc Kinh thấy bản dịch tiếng Việt của tác phẩm y học nói trên được trưng bày chung với nhiều bản dịch các thứ tiếng khác. Sự đóng góp của lương y Huỳnh Văn Khanh đối với ngành đông y được đánh giá rất cao.

Ông nội Huỳnh Văn Chánh ngày xưa ở quê nuôi nhiều người làm, trong đó có một số người Hoa giỏi võ. Cảm kích trước sự đối đãi, họ đã không ngần ngại đem tâm huyết và tinh hoa trao lại cho phái võ họ Huỳnh. Sự tiếp thu này đã dẫn đến sự dung hợp hai dòng võ.

Kế thừa và tiếp nối truyền thống, võ sư Huỳnh Tuấn Kiệt đã tiếp thu tinh hoa của nhiều dòng võ khác như Nội gia Thiếu Lâm, Hồng gia La Phù Sơn... và chính thức khai môn võ phái Nam Huỳnh Đạo. Võ sư Lê Kim Hòa, phó chủ tịch Liên đoàn Võ thuật cổ truyền VN, đánh giá: "Mặc dù mới chính thức danh xưng nhưng trước đó Nam Huỳnh Đạo đã có nhiều đóng góp cho chương trình chung của võ thuật cổ truyền thành phố, đào tạo được nhiều võ sinh có trình độ võ thuật và đạo đức.

Hoa Quyền:

Một tay cầm chiếc quạt kim loại uyển chuyển trong các thế công thủ; tay kia yểm tâm lúc trợ lực cùng đòn quạt, còn hai chân di chuyển tới lui vô cùng linh hoạt và bất thần nhún người nhảy lên tung cú đá song phi chớp nhoáng... Đó là những hình ảnh gây cho khán giả một ấn tượng đầy ngạc nhiên và thích thú về lão võ sư Hoàng Thanh Vân trong lần diện kiến.

Không ngạc nhiên và thích thú sao được khi một "cụ già" đã quá tuổi "thất thập cổ lai hi", với vóc người dong dỏng cao và gầy, lại có khả năng diễn quyền vừa đẹp mắt vừa phát lực và còn thực hiện được cú đá song phi tuyệt vời nữa!

Sinh năm 1922 tại Hưng Yên, trong một gia đình có truyền thống thượng võ, cha của lão võ sư là ông Hoàng Văn Thơ vốn là nông dân nghèo phải đi làm thuê ở nhiều nơi vùng Bắc bộ để kiếm sống, nhờ đó mà ông đã có dịp học võ với nhiều thầy (người Việt, người Hoa) ở các vùng khác nhau. Đến khi ông truyền dạy sở học võ thuật của mình lại cho lão võ sư Hoàng Thanh Vân khoảng từ năm 1930 đến năm 1950, ông bảo rằng đó là võ thuật Hoa Quyền của dòng họ Hoàng. Lão võ sư cứ theo đó mà gọi môn phái của mình là Hoa Quyền suốt.

Môn phái Hoa Quyền có phần cơ bản công phu rèn luyện "thập hình" (thủ, nhãn, thân, yêu, túc, thức, đảm, khí, kình, thần) với quỹ thời gian khoảng 3 năm. Sau đó, môn sinh sẽ bắt đầu được truyền thụ 18 bài Hoa Quyền, cùng các loại binh khí như: kiếm, côn, đao, song ngư, lưỡng đầu thiết lĩnh, cửu khúc nhuyễn tiên, song phủ (búa), song chùy, thiết phiến (quạt), và các bài đối luyện có qui ước (tay không và vũ khí). Đặc biệt, trong vốn liếng sở học võ thuật của môn phái Hoa Quyền, lão võ sư còn cho biết có những bài võ truyền thống Việt Nam như: Ngọc trản, Lão mai, Thần đồng, Xung thiên đạo đao, Gươm trường thảo pháp và ba bài côn.

Trong phong trào võ thuật cổ truyền tại Hà Nội từ sau 1975, lão võ sư đã có những đóng góp nhất định trong việc đào tạo nhiều môn sinh giỏi, đạt những thành tích cao trong các giải võ cổ truyền tổ chức tại Hà Nội trong những năm qua. Bản thân lão võ sư cũng đã từng đoạt huy chương vàng trong một lần dự giải. Ngoài ra, năm 1990, lão võ sư đã được mời sang Cộng hòa liên bang Nga để truyền dạy võ thuật.

Hiện nay, mặc dù tuổi đã cao, nhưng lão võ sư Hoàng Thành Vân vẫn thường xuyên tập luyện cũng như truyền dạy cho các thế hệ trẻ tại nhà riêng của mình ở số 39, phố Quang Trung, gác 3, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Lâm Sơn Động:

Cụ tổ bảy đời là người văn võ kiêm toàn tại xứ Đoài - Hà Tây sau khi sinh con đời nọ đến đời kia đều kế thừa được các tinh hoa võ học.

Trải qua thời gian nối tiếp các thế hệ đã phát minh tìm hiểu thời cuộc của xã hội. Đặc biệt áp dụng võ học phương đông và đi sâu vào nghiên cứu khí công tới bậc uyên thâm. Đến đời thứ tư đã chắt lọc và đúc kết các môn luyện khí công như tĩnh công, động công, huyền công theo: trí, lực, năng tâm, thiện.

Những năm thánh đất nước còn đang dưới ách thống trị, phong trào truyền bá bị hạn chế. Ngoài con cháu trong dòng tộc đến đời thứ 5 hai cụ luyện võ cùng jnhâu từ nhỏ lớn lên được phép của thầy hai cụ đã xây dựng gia đình với nhau và sinh ra được 4 người con: 3 trai và một gái. Cụ ông đã qua đời năm 1944 người cốt lõi còn gửi lại được môn võ là cụ bà đó là bà Nội.

Những năm thánh đất nước còn đang dưới ách thống trị, phong trào truyền bá bị hạn chế. Ngoài con cháu trong dòng tộc đến đời thứ 5 hai cụ luyện võ cùng jnhâu từ nhỏ lớn lên được phép của thầy hai cụ đã xây dựng gia đình với nhau và sinh ra được 4 người con: 3 trai và một gái. Cụ ông đã qua đời năm 1944 người cốt lõi còn gửi lại được môn võ là cụ bà đó là bà Nội.

Do đất nước còn loạn lạc cụ không truyền được hết cho con đến năm 1966 thì con trai thứ ba của cụ đã sinh được người con thứ 5 đó là cháu Lương Ngọc Huỳnh tới năm 1969 cụ bắt đầu truyền bá đạo hạnh cho cháu nội từ thủa lên 3 đó là võ thuật và âm nhạc. Khi Ngọc Huỳnh ra đời cụ thường nói đây là đứa cháu duy nhất có thể kế thừa nghiệp võ mà cụ đang ấp ủ. Ngọc Huỳnh rất có tài tông minh chăm học và đến năm 1972 mới 6 tuổi Ngọc Huỳnh đã cùng cha mình với cây đàn bầu phục vụ khắp nơi nghê tin Ngọc Huỳnh có tài từ nhỏ phái đoàn chỉ huy mặt trận quân sự phía nam đan mời Ngọc Huỳnh cùng cha biểu diễn phục vụ Quốc Hội tại nhà hát lớn Hà Nội năm 1973 được bã Tôn Đức Thắng và bác trung tướng Vương Thừa Vũ và bác tướng Song Hào phong tặng danh hiệu nghệ sĩ tí hon và phát thanh cho cả hai miền đất nước nghe bài (Vì Miền Nam) tiêu chí quyết tâm của Ngọc Huỳnh lúc này thường mơ ước về sau phải được làm nghệ sĩ và võ sí và đã lôi nốt cậu em trai mình là Nguyên Ngọc Hải sinh năm 1969 cùng tập luyện dưới sự chỉ dẫn tận tuỵ của bà nội.

Tuổi bà nội mai mốt già đi và tạ thế năm 1982 trong một đêm mùa thu. Ngọc Huỳnh đã nắm được hầu hết những tinh tuý từ bà nội và đã tiếp tục sự nghiệp học hỏi và truyền thụ cho em trai là Ngọc hải, năm 1989 sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự Ngọc Huỳnh tiếp tục học hỏi y học và võ thuật nâng cao kiến thức được các đội công an xã, huyện, lân cận mời dạy võ và được sở TDTT Hà Tây mời làm công tác viên võ thuật lấy tên là võ thuật dân tộc Hà Tây. Sau khi đúc kết các tinh hoa môn phái Lâm Sơn Động bắt đầu ra đời ngày 23/9/1990 do võ sư Lương Ngọc Huỳnh sáng lập được sở TDTT cho phép truyền bá toàn tỉnh và các tỉnh lân cận, số võ sinh và số người thưo học ngày càng đông lên tới hàng vạn tại các trung tâm TDTT các huyện thị.

Đến nay môn phái đã phát triển sang các nước như Nga, Mỹ, Pháp và có Tổ Đường tại thôn Dương Cốc xã Đồng Quang huyện Quốc Oai - tỉnh Hà Tây và Tự Đường tại Km9 đường 21A Xuân Mai - Sơn Tây do võ sư Nguyễn Ngọc Hải quyền trưởng môn phái điều hành và huấn luyện đào tạo.

huyen_vu
29-05-2012, 11:11 PM
Hóa Quyền Đạo - Phakwondo

Võ Phái Hóa Quyển Đạo là một môn phái khá đặc biệt do sự hình thành qua nhiều đời nghiên cứu và đúc kết .

I-Xin trình bày về ý nghĩa của tên võ phái Hoá Quyền Đạo PHAKWONDO

Hóa = sự biến hóa,sự tiến hoá,

Nói lên sự biến hóa của vũ trụ ,tiến hoá của xã hội,và sự hóa thành trong võ thuật ,mà sự tiến hóa đã trãi qua mọi thời đại cho đến nay .Để phù hợp với cuộc sống với sự kết nối tập trung hoá các yếu tố trên cơ bản nguyên lý, đến sự phát triển hoá của các yếu tố ,trong sự hoàn chỉnh khoa học hóa.đó là tôn chỉ của võ phái Hoá Quyền Đạo ,với các quan niệm trên ,với ý tưởng con người phải có sự hiểu biết thông minh, tính toán

Quyền = Quyền thuật ,quyền hành.

Quan niệm quyền thuật trong võ pháI Hóa Quyền Đạo là thuật pháp của quyền dựa trên các nguyên lý Dịch Lý biến hoá và vận hành theo sự quyền hành (ý) của võ sinh và võ sinh đó sẽ vận hành các kỷ năng của quyền pháp đuợc theo như ý.

Đạo = đạo lý,đạo hành .

Đạo là con đường dẩn dắt các hành giả đi tới mục đích của võ học

Với những ý nghĩa trên con đường của hành giả phải nắm bắt là tập trung hóa các nguyên lý võ học sau đó phát triển hoá các nguyên lý võ học đó ra và khoa học hoá hoàn chỉnh thực tế các quyền hành(là người hành giả phải tự triển khai quyền hành ,chứ không phải là người phải đi học thuộc lòng những nguyên lý võ học đó) vận dụng nguyên lý võ học đó.Với con đường phải hoàn chỉnh của võ học là Võ Công - Võ Thuật - Võ Chiến - Võ đạo .

Nền Tảng Nguyên Lý Của Võ Phái Hoá Quyền Đạo : Xin giới thiệu qua huy hiệu của Võ Phái :


-Bàn Tay biểu hiệu nắm Âm dương và Ngủ hành(năm ngón).

-Huy hiệu được trình bày biểu hiệu các ý đồ về Vô cực-Thái cực - Lưỡng Nghi - Tam Tài - Tứ Tượng - Lục Hợp - Thất Tinh - Bát Quái - Cửu cung.(Tập trung hoá-Phát triển hóa-Khoa học hoá)

-Hội các yếu tố trong Võ Học là : Võ Thuật-Võ Chiến-Võ Công-Võ Đạo.

-Vô Cực : là các vòng đão biến hóa vào các kỷ thuật hoán lực (đổi lực) ,biến hoá...

-Thái Cực : Vòng lưu xoắn ốc ứng dụng vào các kỷ thuật lưu ...

-Âm dương : Âm dương là sự chuyển hóa của 2 mặt trong võ thuật như :cương nhu, phù trầm,khai hợp,tấn thối,hư thực ,trường đoản,nhanh chậm,trực hoành,công thủ v.v...

-Tam tài : Là phân ra làm 3 bực Thượng Hạ Trung ,hoặc là Thiên thời Địa lợi Nhân hòa .là kỷ thuật phối hợp của Thân Thủ Bộ,của Tam Quan ...

-Tứ Tượng : là kỷ thuật căn bản của 1 động tác phân thành 4 kiểu...

-Ngũ hành : Là sức mạnh của Kim Mộc Thũy Hỏa Thổ tương ứng với :

Kim phế,mộc can,thũy thận,thổ tỳ,hoả tâm

Thần khí cốt lực tinh

Cương nhu dũng trí tịnh...

-Thất Tinh : là âm dương ngũ hành phối triển

-Bát Quái : là quẻ càn khãm cấn chấn tốn ly khôn đoài được biểu hiện qua tám vạch biểu hiện cho tám hướng

+Trong bát quái được phân ra bát hướng là:

-4 hướng chính (trên,dưới,trái,phải): là hướng thẳng là hướng cương

-4 hướng nghiên (xéo 4 hướng chính) : là hướng xéo là hướng nhu

-Cửu Cung : là 9 vùng phân định các cung vị ,để hoàn thiện các kỷ thuật

-Vạn Tượng : được phân hóa thành các bài Tượng Hình Ý Quyền theo trình độ kỷ thuật và biến hóa theo cãm giác riêng của mổi người..

-Lâm Ba : là tầm số ,chử số,hình số là kỷ thuật đặc biệt của Hóa Quyền Đạo do Sư Trưởng Đổ Phi Long sáng chế dựa theo nguyên tắc cửu cung bát quái và số học .Với quan niệm con người phải có kỷ thuật của con người trong võ thuật ,phải tính toán trong võ thuật ,thì mới là đặc tánh của con người có trí tuệ khôn ngoan .

Ghi chú: Võ sư Hồ Văn Trọng là chưởng môn Hoá Quyền Đạo

huyen_vu
29-05-2012, 11:13 PM
Thiên Môn Đạo:

Thiên Môn Đạo là một môn phái võ học cổ truyền Việt Nam, cũng là một trong những tinh hoa võ học cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Thiên Môn Đạo được ra đời ở vùng quê ven sông Đáy thuộc xã Hòa Nam (ứng Hòa, Hà Tây). Tính tới nay, Thiên Môn Đạo đã trải qua 5 thế hệ. Hiện những người đang duy trì và phát triển môn phái là hậu duệ đời thứ năm trong gia tộc.

Người khai sinh Thiên Môn Đạo là Kỵ tổ Nguyễn Khắc Cống (tức Nguyễn Văn Cống). Cụ vốn là một võ quan tham gia chống giặc ngoại xâm (cuối thế kỷ 1 có nhiều công lao được Nhà Vua sắc phong và ghi tên trên bia đá tại đền Bách Linh thuộc địa phận huyện Hoài An, phủ ứng Thiên. Sau khi giặc tan về quê, cụ vừa dạy học vừa tham gia việc võ hội và được giao toàn quyền chỉ huy các võ hội trong vùng.

Đời kế tiếp là Cụ tổ Nguyễn Khắc Nhượng. Cụ vừa dạy học vừa dạy võ, cũng là tấm gương sáng về đức độ, luôn giao lưu với bạn bè khắp nơi để học hỏi tinh hoa võ học và cũng là để đảm đương tốt công việc võ hội kế nghiệp cha.

Đời thứ ba là Cụ đồ Nguyễn Khắc Di. Cụ nổi tiếng là thầy dạy chữ nho và võ học cho đông đảo học trò trong vùng.

Đời thứ tư là sư tổ Nguyễn Khắc Chi. Hoạt động cũng như sự tồn tại, phát triển Thiên Môn Đạo lúc này gắn liền với lịch sử chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam. Cùng với những tinh hoa cổ truyền của dân tộc được khơi dậy, bảo tồn, phát triển, Thiên Môn Đạo cũng được mở rộng không ngừng và sư tổ Nguyễn Khắc Chi là người có công nhất trong việc mở rộng tinh hoa võ học Thiên Môn Đạo.

Môn sinh của Thiên Môn Đạo luôn xác định rõ trách nhiệm của mình là sống có ích cho gia đình, dân tộc, Tổ quốc và đạt được điều bình dị là sống lâu - khỏe mạnh - minh mẫn đến lúc chết.

Kim Kê Võ Phái:

Trên bàn thờ Tổ trong ngôi nhà nhỏ ở một con hẻm đường Hải Thượng Lãn Ông hiện nay có treo một bức tranh vẽ "gà trống đứng trên đỉnh núi gáy vang". Đó là hình ảnh Kim Kê mà võ sư chưởng môn Đặng Văn Anh đã lấy đặt tên môn phái mình. Vậy Kim Kê là gì? Đó là "gà vàng" lấy từ bài Mai Hoa Quyền, bởi trong bài này có thế Kim Kê độc lập rất hay mặc dù rất khó diễn, vì lúc nào cũng phải đứng bằng một chân trụ. Ông Đặng Văn Anh hết sức ái mộ cái thế "Kim Kê độc lập" tuyệt chiêu này nên mới lấy chữ Kim Kê dặt tên cho võ đường của mình, thành lập vào năm 1945, về sau trở thành tên của môn phái.

Dù thọ giáo với thầy Bùi Văn Hóa, thường gọi là Chín Hóa, tại trường Chợ Quán (nay là Kim Đồng), thuộc môn phái Tây Sơn Nhạn, nhưng giòng dõi ông Đặng Văn Anh là giòng võ. Môn phái Kim Kê lấy "yên tự xà hành" làm thân pháp, "thôi sơn" làm thủ pháp, "bình sa lạc nhạn" làm cước pháp, "Mai hoa quyền" và "Kim Kê quyền" làm quyền pháp; trong thập bát ban binh khí thường chuyên về đao pháp. Trong thập niên 1965-1974, võ đường Kim Kê đào tạo khá nhiều võ sĩ tài giỏi, từng tung hoành khắp các võ đài Chợ Lớn, Gia Định và các tỉnh, thành phía Nam. Tất cả đều lấy họ Kê như: Kê Hoàng Long, Kê Hùng Sơn, Kê Minh Sơn, Kê Thắng Sơn, Kê Hoa Sơn"

Sau 1975, thế hệ môn sinh mới cũng có nhiều người làm rạng danh môn phái như: Lê Đình Long, Nguyễn An Tâm Khánh, Trương Huỳnh Long, Ngô Thị Ngọc Chi, Dương Thị Thanh Trúc... đã giành nhiều huy chương trong các giải vô địch Võ Cổ Truyền Sài Gòn và toàn quốc. Những năm gần đây, tuy tuổi đã cao nhưng ông Đặng Văn Anh cũng không ngừng suy nghĩ, sáng tác thêm nhiều chiêu thức mới, "thành ra lớp học trò cũ khi có dịp trở lại thăm võ đường đều gặp nhiều cái mới", như ông nói. "Cái mới" đây là "cái đẹp" hoặc "tìm cách đánh thắng đối thủ" càng nhanh càng tốt.

Thường ông hay thức giấc nửa khuya, chong đèn xem sách, ôn bài và sáng tác, ông nói: "Quen rồi, hồi nhỏ đi học cũng thường như vậy". Còn nói về đòn thế biểu diễn, ông cho rằng: trình diễn hay, đẹp, phần lớn do người thực hiện, chứ không hẳn do đòn thế này hay, đòn thế kia đẹp; ví dụ: "Yên tự xà hành" đi tiếp với "Siêu phong hoàn vũ" thì rất hay và đẹp; hoặc bài "Song cự" (hai dao găm) do HLV Ngọc Chi biểu diễn cũng rất đẹp. Nhận xét về cách đánh võ đài, ông nói: "lên võ đài mà đánh búa xua là vì võ sĩ ấy thiếu bình tĩnh hoặc còn non nghề"; còn đề cập đến phong trào, ông cho rằng: "thời buổi bây giờ võ thuật được phổ biến rộng rãi hơn thời trước, nhưng ngược lại võ sinh bây giờ không được bằng hồi trước, như: ít tập luyện, không chịu khó. Các học trò của tôi hồi trước tập luyện cật lực và phải luyện cho tinh xảo".

Ngày ngày, lão võ sư Đặng Văn Anh vẫn luôn có mặt tại sân tập để chỉ bảo, hướng dẫn thế hệ trẻ với ước mong họ nên người, làm sáng danh hai chữ Kim Kê sau này:


Tiền đình hữu nhất kê,
Thân phi ngũ sắc ê,
Ngũ canh thường báo hiệu,
Tam niên tam bồ đề

Như một nhà thơ đã cảm tác khi đến viếng thăm tổ đường. Lão võ sư Đặng Văn Anh đã từ trần ngày 4-5-1998, hưởng thọ 81 tuổi. Ông ra đi trong sự tiếc thương của làng võ cổ truyền Saigon.

huyen_vu
29-05-2012, 11:13 PM
Hàn Bái Đường:
Hơn 40 năm trước đây, một võ đường rộng lớn vẫn thường thu hút sự lưu ý cũng những người qua lại nơi ngã tư Hồng Thập Tự - Lê Văn Duyệt vào hai buổi sáng chiều. Số võ sinh theo tập tại võ đường này khá đông và nhịp sinh hoạt của võ đường này khá đều đặn. Nhưng tới thập niên 60 thì võ đường này vắng mặt.

Gợi lại những hình ảnh của nhiều năm trước, có lẽ người ta chỉ còn nhớ được hàng chữ nhỏ khiêm tốn "Hàn Bái Đường". Ngoại trừ những người hiểu biết nhiều về sinh hoạt võ thuật thành phố, những người khác có lẽ chỉ hiểu 3 chữ nói trên là tên của một lò võ mà thôi. Hai tiếng "Hàn Bái" thường rất ít được nhắc tới và cũng không có mấy ai tò mò muốn biết thêm về các chi tiết liên quan.

Thực ra, ở thời gian đó và trước nhiều năm, đóng góp của võ đường Hàn Bái vào sinh hoạt võ thuật tại Sài Gòn và toàn miền Nam không phải nhỏ. Những môn sinh thuộc nhiều thế hệ nối tiếp như Nguyễn Văn Bắc, Võ Bá Oai, Viên Khang... rồi Đỗ Dư Ánh, Trương Minh Lắm, Lê Bất Trị, Nguyễn Anh Tài... đều là những khuôn mặt tiếng tăm trong võ giới.
Đầu thập niên 50, khi võ đường Hàn Bái hoạt động đều đặn tại Sài Gòn thì vị võ sư này đã khuất bóng từ hơn 20 năm trước. Ông tạ thế ngày 6 tháng 3 năm 1928, sau đúng 10 năm từ Trung Hoa trở về quê hương để thu nhận môn sinh truyền thụ sở học của mình. Số môn sinh của võ sư Hàn Bái rất hạn chế và thời gian truyền dạy của ông cũng không dài. Do đó, sở học của ông hầu như mai một rất nhiều. Thực tế này do chính một môn sinh xuất sắc của ông là Võ Bá Oai xác nhận. Cụ Võ Bá Oai chính là người đã tiếp nối công trình dang dở của cố võ sư Hàn Bái để dựng nên Hàn Bái Đường.

Trong nhiều năm liên tục từ cuối thập niên 20, võ sư Võ Bá Oai đã không ngừng nỗ lực truyền bá lại những điều mà bản thân mình nhận lãnh được từ vị thầy xuất chúng nhưng vắn số, vì khi từ trần, cố võ sư Hàn Bái mới vừa 39 tuổi.

Tuy mang một cái tên có vẻ xa lạ, nhưng Hàn Bái Đường chỉ là nơi truyền dạy kỹ thuật Thiếu Lâm. Hàn Bái là tên gọi của một vị võ sư có tên thật là Lê Bái, một đệ tử chính truyền xuất sắc của võ phái Thiếu Lâm.
Võ sư Hàn Bái là con trai của một Lãnh binh họ Lê nhà Nguyễn. Là một thiếu niên thông minh, đĩnh ngộ nên cậu bé Lê Bái được gia đình chăm lo chu đáo và được cha đích thân truyền dạy võ nghệ từ nhỏ. Cũng ngay từ thời điểm đó, cậu bé Lê Bái đã nuôi mộng được có dịp xuất ngoại để tầm sư học đạo.
Giấc mộng đó trở thành sự thật khi Lê Bái bước vào tuổi hai mươi. Lúc đó, Sở Hỏa Xa Vân Nam cần người giúp việc và Lê Bái xin vào làm để có cơ hội sang đất Trung Hoa từ lâu đã trở thành vùng đất huyền thoại của võ lâm.

Tại Vân Nam, Lê Bái luôn tìm dịp mở rộng giao du với các nhân vật trong võ giới, vừa để đo lường trình độ bản thân vừa để có dịp tìm hiểu thêm những kỹ thuật mới. Càng tìm học, Lê Bái càng thấy rõ mức hạn chế trong tài nghệ của mình và khao khát tìm kiếm một danh sư. Cuối cùng, Lê Bái được nghe nhắc tới quyền sư danh tiếng Lý Quân là một võ quan tại Phúc Kiến.
Lập tức Lê Bái rời Vân Nam tới Phúc Kiến xin được ra mắt quyền sư Lý Quân. Sau khi bày tỏ ước nguyện tầm sư cầu học, Lê Bái đã thẳng thắn xin với vị quyền sư danh tiếng cho phép được lãnh giáo ít chiêu để biết rõ bản lĩnh của thầy. Quyền sư họ Lý vui vẻ chấp nhận và khuyến khích người môn sinh cương trực "cứ tận lực ra đòn và trổ hết tuyệt nghệ đã học từ thuở nhỏ".
Không do dự, Lê Bái nhập nội ngay, tấn công bằng thế Hắc Hổ Xuyên Tâm để mở đường cho thế Thanh Xà Nhập Động khi đối thủ đưa tay đỡ đòn. Nhưng quyền sư họ Lý không đỡ mà chỉ vươn dài cánh tay mặt theo chiều đấm tới của Lê Bái và nhanh như một ánh chớp kẹp 2 ngón tay vào tay áo Lê Bái trong lúc chân mặt quét ngang khiến Lê Bái văng bật ra xa.

Từ đó cho tới hơn 3 năm sau, Lê Bái ở ngay tại nhà của quyền sư Lý Quân. Lý phu nhân cũng là một nữ quyền sư nổi danh đương thời và có một người con trai cùng trạc tuổi Lê Bái. Do đó, hai vợ chồng quyền sư họ Lý coi Lê Bái như con và tận tình truyền thụ. Trong thời gian này, Lê Bái còn nhận thêm được sự chỉ dẫn của nhiều danh gia võ lâm vào dịp các vị này lui tới thăm viếng vợ chồng quyền sư Lý Quân. Sau hơn 3 năm rèn luyện, Lê Bái đã đạt tới trình độ mà quyền sư Lý Quân nhận xét là "có nhiều điểm còn hơn cả thầy".
Do đó, quyền sư Lý Quân đi tới một quyết định mới. Ông gọi Lê Bái vào phòng riêng và cho biết:
- Tài nghệ của con còn tiến xa mà bản lĩnh của thầy chỉ có bấy nhiêu. Cho nên, thầy không muốn con ở lại đây thêm nữa. Con hãy trở về Vân Nam, tìm gặp một người bạn cũ của thầy là Triệu Quang Chảo là một danh gia Thiếu Lâm. Con hãy đưa phong thư của thầy cho ông Triệu và xin ông cho con được thụ giáo.
Thế là Lê Bái đành bùi ngùi giã biệt sư phụ, lên đường trở lại Vân Nam. Bữa tiệc vui do các thân hữu đón chào Lê Bái về lại Vân Nam được tổ chức linh đình. Giữa bữa tiệc bỗng có một ông già trạc ngoại ngũ tuần lên tiếng:
- Nghe danh Lê tiên sinh võ nghệ cao cường, tôi xin được chúc mừng một ly.

Phần vì tuổi trẻ tự thị, phần vì giữa lúc ngà say, Lê Bái đã đáp lại lời chúc mừng của người khách lạ bằng lời thách đấu. Ông già nọ nhận lời nhưng hẹn sẽ gặp lại vào ngày hôm sau tại nhà của ông.

Hôm sau, đúng hẹn Lê Bái tìm tới tư gia của ông già và được biết chủ nhân chính là Triệu Quang Chảo. Tình thế của Lê Bái lúc này như một mũi tên đã bay ra khỏi cánh cung. Lê Bái vội giấu thư của quyền sư Lý Quân để tiến hành buổi đấu đúng như ước hẹn. Trái với lần trước tại Phúc Kiến, lần này Lê Bái không tấn công mà lui về thủ để chờ đối thủ ra tay. Trong lúc thủ, Lê Bái dự liệu tất cả các đòn đối thủ có thể dùng và tính trước phản ứng ra sao để dành thế thắng. Nhưng ông già đã tấn công ngoài mọi trường hợp Lê Bái dự liệu và kềm cứng. Lê Bái chỉ với một bước tiến nhẹ nhàng.
Không có cách nào thoát ra khỏi vòng kềm chế của ông già, Lê Bái đành xin bãi đấu và đưa trình phong thư của quyền sư Lý Quân.
Từ đó, Lê Bái trở thành môn sinh của quyền sư Triệu Quang Chảo và tập luyện hàng ngày mãi đến năm 1918 mới xin bái biệt thầy trở về Việt Nam.

Tính từ khi tới Vân Nam đến lúc này, Lê Bái đã dành gần 10 năm tại đất Trung Hoa và gặp ít nhất 2 vị thầy thuộc hàng danh gia thượng thừa. Ở tuổi 29, ông trở về quê hương với một bản lĩnh hiếm có. Tuy nhiên, mấy năm sau, ông còn thực hiện thêm 3 chuyến đi Vân Nam vừa để thăm viếng thầy, vừa để học hỏi thêm.
Sau 3 chuyến đi này, ông mới quyết định đem vốn liếng võ học của mình ra truyền dạy. Số môn sinh của ông rất ít nhưng đều đạt trình độ cao, dù không mấy ai học hết được tuyệt nghệ của thầy.
Dù vậy, một trong những môn sinh của ông là Võ Bá Oai đã làm nổi danh vị thầy của mình trong võ giới và góp phần công sức không nhỏ vào phong trào truyền bá võ thuật trên toàn bộ miền Nam. Đặc biệt, một môn sinh của võ sư Võ Bá Oai là Đỗ Dư Ánh đã nổi tiếng ngay trên đất Vân Nam là mảnh đất dạo nào đã đào tạo thành cố võ sư Hàn Bái.

huyen_vu
29-05-2012, 11:14 PM
VÕ CỔ Truyền Bình Định:

Võ cổ truyền Bình Định: Nguồn gốc và đặc trưng

Nếu đến thăm đất Qui Nhơn quê hương của người anh hùng áo vải Tây Sơn - Nguyễn Huệ, bạn sẽ có dịp được thưởng thức những buổi biểu diễn của môn phái võ cổ truyền Bình Định với những động tác uyển chuyển, nhanh nhẹn, nhưng cũng đầy khí chất dũng mãnh, quật cường của các bài quyền, bài binh khí, đặc biệt là bài quyền Ngọc Trản, bài roi (côn) Thái Sơn nổi tiếng đã đi vào lịch sử với câu ca dao:

"Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định bỏ roi đi quyền"

Võ Bình Định phát triển sâu rộng trong quần chúng không chỉ có "nam nhi" mà cả "phái yếu" cũng luyện rèn võ nghệ và đã có sức thu hút mãnh liệt, trở thành món ăn tinh thần của người dân Bình Định. Đặc biệt khi có hoạ ngoại xâm thì lập tức mọi người tập luyện võ nghệ để chiến đấu chống quân thù. Rõ nét nhất là trong thời Tây Sơn và trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp xâm lược, võ cổ truyền Bình Định không những rèn luyện thể lực, tính dũng cảm cho quân đội và nhân dân, mà còn được áp dụng khá thành công vào binh pháp, vào phép dùng binh, vào sách lược, chiến lược quân sự, nhất là trong cách đánh cận chiến.

Để nghiên cứu làm rõ nguồn gốc và đặc trưng của võ cổ truyền Bình Định, một đề tài khoa học đã được Sở Thể dục - Thể thao Bình Định tiến hành từ hơn 2 năm nay nhằm sưu tầm, thu thập những thông tin, tư liệu qua những người thật, việc thật, qua các địa danh, chứng tích của các hoạt động võ nghệ ở nhiều giai đoạn lịch sử rồi từ đó tổng hợp, phân tích, minh chứng cho một câu hỏi: Võ cổ truyền Bình Định có đặc điểm khác biệt nào so với các dòng võ khác?

Nguồn gốc võ cổ truyền Bình Định

Từ thế kỷ XV trở đi, cùng với việc tiến về phía Nam của người Việt cổ, nhiều dòng họ đã đến Bình Định khai hoang, lập ấp. Các cư dân đã tiếp nhận và thích nghi với nhiều yếu tố của nền văn hoá địa phương, tạo nên tư chất và cốt cách của con người ở vùng đất mới Bình Định, nơi hội tụ, kế thừa truyền thống thượng võ của dân tộc.

Người Bình Định vừa có phẩm chất cao quí của cư dân vùng đồng bằng Bắc Trung Bộ, Bắc Bộ với các đức tính: mộc mạc, cần cù, giản dị, sáng tạo, nhân ái, kiên cường, dũng cảm, vừa mang sắc thái của địa phương: tính khảng khái, hào hiệp, tinh thần thượng võ. Theo Đại Nam nhất thống chí: Người Bình Định tính tình trầm, gan dạ, thích làm việc nghĩa. Người học thức phần nhiều nho nhã, trung hậu. Đồ mặc, đồ dùng giản dị, mộc mạc, không ưa văn hoa. Ngày rảnh việc hay bày hát tuồng, múa võ.

Bình Định luôn gợi trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam niềm cảm tình sâu sắc về một vùng đất thượng võ lâu đời, với hồn thiêng sông núi đã hun đúc nên khí chất anh hùng bất khuất, làm nên bao sự tích oanh liệt, góp phần tô thắm vào trang sử vàng dân tộc.

Quá trình hình thành và phát triển

Dựa vào điều kiện lịch sử, căn cứ vào các tiêu chí: mức độ qui mô phát triển võ, trình độ võ nghệ, tính chất giai cấp, mục tiêu phục vụ của võ nghệ trong từng giai đoạn, đề tài lấy mốc thời Tây Sơn làm trung tâm vì đây là thời điểm đỉnh của võ cổ truyền Bình Định.

Trước thời Tây Sơn (từ khoảng năm 1600), võ cổ truyền Bình Định còn ở dạng sơ khai, hình thành chủ yếu dựa trên các thao tác lao động và sử dụng công cụ lao động hàng ngày .

Đến thời Tây Sơn, bắt đầu có sự giao lưu, hoà nhập giữa các dòng võ và quy tụ nhiều anh hùng hào kiệt, nhiều võ quan, võ sư nổi tiếng. Võ cổ truyền Bình Định thời Tây Sơn được sử sách ghi nhận là thời kỳ hưng thịnh và phát triển rực rỡ nhất, được xây dựng thành hệ thống võ học, được đưa vào hệ thống thi cử, đào tạo tướng sĩ, được nghiên cứu và áp dụng triệt để, sáng tạo trong quân sự, trong chiến đấu, phục vụ chiến trường và khuyến khích mở trường dạy võ khắp nơi.

Võ cổ truyền Bình Định thời Tây Sơn là sự kết tinh và hoà quyện cao độ giữa các dòng võ, môn võ, phái võ khác nhau (của người bản địa, võ từ Bắc hà vào v.v.) tạo nên sức mạnh tổng hợp, chắt lọc tìm ra cái tinh tuý nhất để bồi đắp, bổ sung vào kho tàng võ học chân truyền của dân tộc.

Sau thời Tây Sơn, mặc dù khi lên ngôi, Nguyễn Ánh đã tiêu diệt mọi thành quả của nhà Tây Sơn nhưng võ cổ truyền Bình Định vẫn có khả năng tiềm ẩn và sức sống mãnh liệt, "võ vườn" vẫn được bí mật truyền dạy trong các nhà chùa hoặc các bìa rừng, vẫn được nhiều người tâm huyết nghiên cứu, sưu tầm, viết sách lưu truyền lại cho các thế hệ mai sau.

Đến nửa đầu thế kỷ XIX, các dòng võ nước ngoài, chủ yếu là võ Thiếu Lâm (Trung Hoa) và nhiều môn võ như quyền Anh, Judo, Karatedo, Teakwondo... đã phát triển khá mạnh ở Bình Định nhưng vẫn không thể lấn át được võ cổ truyền Bình Định bởi vẫn giữ được những đặc điểm độc đáo của nó.

Đặc điểm độc đáo của võ cổ truyền Bình Định

Về khía cạnh võ thuật, võ cổ truyền Bình Định thể hiện rõ tính liên hoàn, tinh tế, uyên thâm, kết hợp nhuần nhuyễn giữa cương và nhu, giữa công và thủ, giữa mạnh và yếu, giữa bên trong (tinh, khí, thần) với bên ngoài cơ thể (thủ, nhãn, chỉ và thân).

Về võ lý, võ cổ truyền Bình Định vận dụng triệt để học thuyết âm - dương, lấy phép ngũ hành và phép bát quái làm nguyên lý cơ bản của "Song thủ ngũ hành vi bản", "Lưỡng túc bát bộ vi căn" là cơ sở võ lý cho luyện tập bộ tay và bộ chân trong võ cổ truyền Bình Định: Tấn pháp trong bát quái và Thủ pháp trong Ngũ hành, có sự phối hợp cả hai phương diện ngoại công và nội công.

Về võ đạo, còn gọi là cái đạo của người học võ. Ngoài những đức tính mà con người đề cao trong rèn luyện đạo đức là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, võ đạo còn thể hiện ở các mặt truyền thống: thượng võ, chống ngoại xâm; uống nước nhớ nguồn; trọng nhân nghĩa...

Về nội dung, võ cổ truyền Bình Định vô cùng phong phú, đa dạng nhưng tựu trung có 4 nội dung cơ bản là: luyện công, quyền thuật, võ với binh khí, luyện tinh thần. Quyền còn gọi là thảo bộ hay quyền tay không, bao gồm Cương quyền và Nhu quyền. Võ tay không chia thành 4 nhóm: Võ thể dục, võ tự vệ, võ tỷ thí và võ chiến đấu. Binh khí được dùng trong võ cổ truyền Bình Định bao gồm binh khí dài và binh khí ngắn. Loại binh khí rất cơ bản được lưu hành khá phổ biến ở Bình Định là côn (tiếng địa phương gọi là roi) với nhiều "phách roi" độc đáo chỉ có ở võ cổ truyền Bình Định: "Đâm so đũa", "Đá văn roi", "Phá vây", "Roi đánh nghịch"... Nói về tận dụng vũ khí thô sơ chống giặc, Bình Định có "Bài kiếm 12" nổi tiếng gồm 12 động tác được rút tỉa trong nhiều bài kiếm tiêu biểu của Bình Định để hình thành một cách ngắn gọn, dễ tập, dễ nhớ, được đưa vào luyện tập và thực hành chiến đấu đạt hiệu quả cao trong các lực lượng vũ trang và bán vũ trang ở địa phương.

Trong các bộ môn về quyền thuật, "Ngọc Trản" là bài quyền tiêu biểu của võ cổ truyền Bình Định, trải qua thời gian, nó vẫn sáng chói như một "chén ngọc" với những bí quyết võ công vô giá. Để thực hành được một cách nhuần nhuyễn, phải tính đến công sức luyện tập cả về thể chất và ý thức nhằm tạo được sự thống nhất thành một ý niệm duy nhất, như tính thuần khiết của viên ngọc. Đó chính là bí quyết khổ luyện của lối quyền âm - dương trong Ngọc Trản công.

huyen_vu
29-05-2012, 11:15 PM
An Thái Bình Thái Đạo:
Cụ Tàu Sáu tên thật là Diệp Trường Phát, sinh năm 1896 tại làng An Thái, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Đây là nhân vật có tầm ảnh hưởng rất lớn trong việc tạo nên "oai danh" quyền An Thái. Cuộc đời cụ là cuộc đời của một bậc chân sư mà tài năng và nhân cách đã trở thành niềm ngưỡng vọng của bao nhiêu người.

Lúc còn nhỏ, cụ được gia đình cho sang Phước Kiến - Trung Quốc học tập cả văn lẫn võ; sau đó còn qua Hồng Kông học thêm một thời gian nữa. Khi thành đạt võ công trở về nước, cụ tiếp tục gia tâm nghiên cứu, rút tỉa những tinh hoa võ thuật ở địa phương Bình Định cũng như rải rác khắp các vùng đất nước, kể cả các môn võ truyền thống của các dân tộc Chàm, Khơme, Làỏ rồi dung hợp, phối chế thành môn võ mang dáng dấp của một sự hài hòa độc đáo.

Hệ thống quyền của môn võ này khá chặt chẽ, được xây dựng dựa trên 4 bộ chính: Hổ quyền, Long quyền, Hầu quyền, Xà quyền. Trong đó, Hổ quyền và Long quyền thuộc Ngạnh công (tức luyện cho mạnh mẽ, rắn chắc), được coi là nền tảng căn bản; Hầu quyền và Xà quyền thuộc Nhu công và Miêu công (tức luyện cho mềm dẻo, linh hoạt, nhanh lẹ chớp nhoáng, tay chân như "vươn dài" ra) là phần xuất sắc, cao diệu...

Về mặt tinh thần, cụ Tàu Sáu lấy "Ngưu giác chỉ" (ngưu giác: sừng trâu - một trong mười chỉ pháp) làm biểu tượng môn phái. Và đây cũng là kết quả của một quá trình chiêm nghiệm, chắt lọc từ cuộc sống...

Cụ nhận thấy, ở đất nước nông nghiệp Việt Nam (thời ấy) con trâu là một hình ảnh quen thuộc, gần gũi, gắn bó chặt chẽ với con người trong công việc đồng áng. Nó là loài vật hiền lành, suốt đời cần mẫn, hy sinh giúp ích cho người, nhưng cũng rất dữ dội và đoàn kết khi bị tấn công. Ai từng chứng kiến những?trận đánh? của đàn trâu, đều thật sự kinh hoàng, khủng khiếp trước sự đoàn kết, dũng mãnh của chúng.

Từ những đặc điểm ấy, cụ Tàu Sáu đã nghiền ngẫm, suy tưởng về "bản chất tốt đẹp" của loài trâu, rồi đúc kết thành giáo điều của môn phái, gồm có 5 điều gọi là "Ngũ điều" (Phải nhẫn nại, đoàn kết, hy sinh, thật thà, dũng cảm) bên cạnh "Ngũ qui" cũng có 5 điều (không phản sư phế đạo; không ỷ thế hiếp cô; không sanh tâm đạo tặc; không loạn dâm háo sắc; không thắng vinh bại nhục).

Sự sắp xếp trên, còn hàm chứa một quan niệm rất tinh tế và xuyên suốt của cụ Tàu Sáu về phương diện giáo dục, rèn luyện con người thông qua phương pháp huấn luyện võ thuật. Có thể tóm tắt: Trước hết phải làm sao khơi dậy và tập cho người môn sinh biết nhẫn nại, chịu đựng để họ có thể thích ứng, hòa hợp được với những phức tạp, mâu thuẫn trong cuộc sống. Từ đó, nhu cầu giao lưu, chia xẻ trong họ mới có điều kiện phát triển, họ sẽ tự đoàn kết với mọi người. Và khi đã biết đoàn kết yêu thương nhau rồi, thì họ mới có thể hy sinh cho nhau được. Đấy là lẽ tự nhiên. Mà, một con người có đức hy sinh là đã triệt tiêu được những vụ lợi, đố kỵ nhỏ nhen, nguồn gốc của sự dối trá xảo quyệt. Họ sẽ luôn sống và cư xử một cách thật thà, đúng đắn. Nếu có phải dụng võ, thì cũng chỉ vì lẽ phải, vì chính nghĩa. Đấy là sự dũng cảm của con nhà võ.

Để đạt được những điều đó, cụ Tàu Sáu chủ trương tiến hành một cách lâu dài, bền bỉ, đúng tiến độ, song song với một giáo trình huấn luyện phù hợp, cũng như trong các hình thức sinh hoạt môn phái (một dạng xã hội thu nhỏ), không cần thiết phải dùng lời lẽ. Bởi, ai cũng có thể nghe, hiểu và phân biệt được những đức tính tốt đó, nhưng để có đươc. Những đức tính đó là một việc hoàn toàn khác, rất khác.

Vào khoảng năm 1924, khi đã hoàn chỉnh cả về mặt võ thuật lẫn võ đạo, cụ Tàu Sáu mới bắt đầu truyền dạy môn võ này tại quê nhà, và đã đào tạo được nhiều đệ tử nổi danh như Ba Phùng, Chín Kỳ, Phó Tuần Chẩn, Năm Tường. Năm Tường vốn là hảo thủ Nam Kỳ từng bất phân thắng bại với A-đu-bu (một võ sĩ hạng nặng của Pháp có lối luyện võ rất dã man. Theo tương truyền mỗi sáng dùng tay không đấm chết hai bò mộng), nhưng khi Năm Tường ra Bình Định thụ giáo với cụ Tàu Sáu một thời gian trở về thì A-đu-bu e sợ, không dám nhận lời tái đấu, và đã tự rút lui khỏi các đấu trường Đông Dương. Một võ sĩ tài năng khác là Kim Anh cũng từng được cụ Tàu Sáu chỉ giáo mà thành danh trên các đấu trường quốc tế, góp phần làm rạng rỡ cho xứ An Thái nói riêng và miền đất võ Bình Định nói chung.

Đương thời, danh tài của các võ phái khác như Hồ Ngạnh, Đoàn Phong, Năm Nghĩa, Bang Beo, Khách Nhé... đều có đến đàm đạo, trao đổi và khâm phục cụ. Cũng từ đó bắt đầu râm ran những lời đồn đại huyền hoặc về nhân vật võ lâm Tàu Sáu - Cụ từng sang Trung Quốc xuất gia tu thiền học võ tại chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn. Khi thành đạt, muốn hoàn tục trở về nước nhưng không được chấp nhận, cụ đã tự mình xuống núi và lần lượt hạ gục các cao thủ trấn giữ ở 108 cửa lên xuống Thiếu Lâm Tự.

Chuyện này rõ là nhại theo tích "quá ngũ quan trảm lục tướng" của Quan Công (Quan Vân Trường trong Tam Quốc Chí), còn chi tiết 108 cửa Thiếu Lâm Tự chỉ là "nghe lơ mơ" rồi "chế đại". chứ thật ra như sau:

Theo qui môn Thiếu Lâm Tự, để được chính thức công nhận là môn đồ của môn phái, cho dù xuất sư xuống núi, người môn sinh phải trải qua một cuộc khảo hạch, thử thách toàn diện, cả về bản lãnh võ công cho đến kiến thức, cách xử thế, trí thông minh... Trong phần võ công, ngoài việc thi triển những thành tựu công phu trước hội đồng môn phái, người môn sinh còn phải đi qua một hành lang nhỏ hẹp có đặt sẵn 108 cặp mộc nhân, mộc mã được thiết kế theo họa đồ của Đạt Ma Sư Tổ. Khi được khởi động, 108 cặp nhân mã này sẽ lần lượt "đánh" ra 108 thế võ nhất định. Nếu công phu chưa tới, người môn sinh sẽ bị đánh gục ngay. Nhưng những điều đó là chuyện của hàng ngàn năm trước. Nó thuộc về lịch sử lâu đời của Thiếu Lâm Tự, và sau chỉ còn trong trí tưởng tượng của người đời...

Khi cụ Tàu Sáu mất, người con trai nối nghiệp cụ là võ sư Diệp Bảo Sanh - ở Qui Nhơn, nhiều người quen gọi theo ngoại hiệu là Lai Sanh Đường (tiệm thuốc bắc Lai Sanh Đường) - cũng tiếp tục thu nhận môn đệ. Từ đấy, phái võ này còn có tên là Bình Thái Đạo; và đã có những bước cải tiến đáng kể về mặt tổ chức môn phái cũng như phương pháp huấn luyện.

Hiện nay võ phái này đang được các đệ tử của võ sư Diệp Bảo Sanh, thuộc thế hệ môn đồ thứ ba, tiếp tục truyền dạy tại nhiều nơi ở Bình Định và Sài Gòn.

huyen_vu
29-05-2012, 11:15 PM
Võ phái Tân Khánh Bà Trà:

Võ phái Tân Khánh Bà Trà hình thành vào khoảng thế kỷ 17, khi những lưu dân người Việt vào khai phá vùng đất Nam Bộ trù phú. Những người đi mở đất đã mang vốn võ học để bảo vệ thành quả lao động trên vùng đất mới. Bên cạnh đó, cuộc sống thực tế trên vùng đất mới, lại phải chen vai thích cánh bên cạnh các dân tộc anh em đã là nguồn bổ sung cho vốn liếng võ học của những thế hệ đi khai hoang ngày thêm phong phú, từ đó hình thành nên võ phái mới ngay trên vùng đất Tân Khánh của đất Đồng Nai - Gia Định với những võ công đả hổ lừng danh của một thời. Đầu thế kỷ 19, khi vua Gia Long lên ngôi với chính sách tìm diệt cựu thần nhà Tây Sơn để trả thù, thì mảnh đất Tân Khánh đã đón tiếp một cựu thần nhà Tân Sơn họ Võ đến ẩn tích. Chính cơ hội này là sự thăng hoa cho võ phái của xứ Tân Khánh do sự tăng cường kỹ thuật võ Tây Sơn. Giữa thế kỷ 19, một hậu duệ của cựu thần nhà Tây Sơn là bà Võ Thị Trà đã từng hiên ngang chống lại quan lại địa phương từ căn cứ Truông Mây trên đất Tân Khánh. Từ đó, xứ Tân Khánh được mang tên là xứ Tân Khánh - Bà Trà (nay là thị trấn Tân Phước Khánh, huyện Tân Uyên và xã Bình Chuẩn, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương), và võ phái truyền thống tại đây được gọi là võ phái Tân Khánh Bà Trà cho đến ngày nay.

Đặc trưng kỹ thuật của võ phái Tân Khánh Bà Trà là lối tấn công phối hợp và liên hoàn những kỹ thuật đòn chân và đòn tay, nhằm làm rối loạn sự phòng thủ của đối phương cũng như giúp cho sự công kích đạt hiệu quả tốt. Những đòn tay và đòn chân tung ra theo đường thẳng, có sức án ngự mọi sự tấn công đối phương được võ phái này chú trọng ngang với những đòn tay và đòn chân, cận chiến bằng kỹ thuật đầu gối, cùi chỏ, nắm đấm, cạnh bàn tay, ngón tay, ức bàn tay... Chính đặc điểm này đã giúp cho môn sinh của võ phái Tân Khánh Bà Trà có khả năng chiến đấu trong mọi tình huống. Về binh khí, võ phái Tân Khánh Bà Trà có đủ thập bát ban võ nghệ (tức mười tám loại binh khí), nhưng thiện nghệ nhất về roi và côn, là thứ binh khí làm từ nguyên liệu có sẵn tại địa phương như: tre, tầm vông, gỗ căm xe, gỗ mật cật... Nhiều bậc tiền bối của võ phái Tân Khánh Bà Trà từng nổi danh với những đường roi, đường côn tuyệt diệu làm "ngã ngựa" biết bao đối thủ khắp Nam Bộ. Ngoài ra, giống như võ cổ truyền Việt Nam từ bao đời, võ phái Tân Khánh Bà Trà còn có hệ thống quyền pháp từ thấp lên cao như: Thái Sơn, Tấn Nhất, Lão Mai, Thần Đồng, Ngọc Trản..., mà mỗi nhịp dạo quyền đều gắn liền với những câu thơ gọi là thiệu.

Võ phái Tân Khánh Bà Trà có nhiều thế hệ anh tài nối tiếp nhau vang danh khắp Nam Bộ. Bà Võ Thị Trà, thường gọi tắt là Bà Trà, lẫy lừng một thời ở Tân Khánh, chống lại bọn tham quan ô lại, để rồi tên đất được gắn thêm tên người kể từ giữa sau thế kỷ 19. Các ông Võ Văn ất (Hai ất), Võ Văn Giá (Ba Giá) và bà Võ Thị Vuông (Năm Vuông) từng làm rạng danh võ phái Tân Khánh Bà Trà với bao phen đánh hổ. Quyền sư Võ Văn Đước (Hai Đước) phá tan thế trận Mai Hoa Thung bảo vệ thanh danh xứ sở. Đệ nhất côn Đỗ Văn Mạnh (Năm Nhị) phiêu bạt khắp đó đây với cây trường côn làm khiếp vía biết bao anh hùng hảo hán ở Nam Bộ.... Nối tiếp truyền thống hào hùng đó, lão võ sư Hồ Văn Lành (biệt danh Từ Thiện) đã rời quê hương lên Sài Gòn, phổ biến võ phái Tân Khánh Bà Trà cho giới hâm mộ võ thuật từ những năm 1950. Qua gần nửa thế kỷ phát triển, võ phái Tân Khánh Bà Trà, qua sự truyền bá của lão võ sư Hồ Văn Lành, đã trang bị cho hàng vạn môn sinh kỹ thuật đặc thù của môn phái. Trong đó, nhiều môn sinh đã trưởng thành, tiếp bước con đường truyền bá võ phái Tân Khánh Bà Trà cho các thế hệ nối tiếp ngay tại các quận, huyện của thành phố HCM, một số tỉnh thành Nam Bộ và cả ở nước ngoài. Một số môn sinh xuất sắc khác đã từng tham gia thi đấu võ đài, đạt được hai huy chương vàng, ba huy chương bạc, hai huy chương đồng trong các giải vô địch toàn quốc, và ba người đã từng được chọn đại diện cho toàn miền nam thi đấu bẩy trận toàn thắng trước các nhà vô địch của những nước: Thái-lan, Lào, Cam-pu-chia.

huyen_vu
29-05-2012, 11:16 PM
Bình Định Gia:

I. Ngược Dòng Lịch Sử
Bình Định Gia nghĩa là Bình Định gia truyền do cụ Trần Đại Chí sáng lập cách đây trên 200 năm. Cụ Trần Đại Chí xuất thân ở Trung Quốc. Thời trai trẻ, cụ tu luyện võ công tại chùa Thiếu Lâm thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Sau khi võ công thuần thục, cụ "xuống núi" giúp triều đình. Trong bối cảnh đất nước Trung Hoa đang suy sụp vào cuối nhà Thanh, với danh phận là một võ tướng trong triều, cụ bất mãn và cùng ba người khác ra đi. Trên bước đường lưu lạc giang hồ, cụ đã sang đến Việt Nam.

Đầu tiên, cụ ở tại thành Thăng Long. Sau vì tình hình thành Thăng Long không ổn định, cụ vào đất Bình Định. Về địa thế, vùng này trên là núi, dưới là biển. Tuy nông nghiệp kém phát triển (cát trắng bao la) nhưng khí hậu rất thích nghi cho những người luyện võ. Vì thế, rất nhiều anh hùng, hào kiệt đều tập trung về đây.

II. Duyên Kỳ Ngộ

Trong thời gian sinh sống ở Bình Định, cụ Trần Đại Chí có duyên gặp cụ Võ Văn Dũng. Hai người đã luận đàm võ công cũng như ẩn chứng công phu võ thuật của mình. Lúc đó, cụ Võ Văn Dũng là một võ tướng của Quang Trung hoàng đế, từng cầm quân đánh giặc góp phần đại phá quân Thanh. Tâm đầu ý hợp, cụ Trần Đại Chí được cụ Võ Văn Dũng dạy lại toàn bộ võ Bình Định chân truyền, ngược lại cụ Võ Văn Dũng cũng được học lại võ thuật Trung Hoa của cụ Trần Đại Chí.

Sau khi cụ Võ Văn Dũng qua đời, cụ Trần Đại Chí đã nghiên cứu chắt lọc tổng hợp những tinh hoa của hai nền võ thuật Trung Hoa và Việt Nam, sáng lập dòng Bình Định gia truyền theo nguyên tắc kết hợp giữa cương, nhu, trường, đoản, hư, thực. Đường lối của các võ phái thời ấy thường nêu cao tính chất chiến đấu, không nặng về biểu diễn khoa trương.

III. Quá Trình Phát Triển

Môn phái Bình Định Gia tồn tại suốt 200 năm chỉ trong dòng họ Trần Đại, Trần Hưng và trải qua 4 đời chưởng môn: cụ Trần Đại Chí, Trần Đại Si, Trần Đại Xy, Trần Đại Y. Đến chưởng môn đời thứ 5, khi ngoài 60 tuổi, cụ Trần Hưng Quang mới bắt đầu truyền dạy ra ngoài qua sự giúp đỡ của sở TDTT và Liên đoàn võ thuật Hà Nội.

Sự phát triển của Bình Định Gia ngày càng lớn mạnh phải nói đến công sức của võ sư Trần Hưng Hiệp - con trai của chưởng môn đời thứ 5. Chấp chưởng môn Trần Hưng Hiệp được giao nhiệm vụ làm HLV trưởng môn phái Bình Định Gia, đã xin ý kiến của toàn bộ các bậc lão thành trong dòng họ đưa môn phái phát triển khắp nơi từ năm 1982.

Từ năm 1989 đến nay, môn phái Bình Định Gia đã có trên 100 HLV, hàng trăm võ đường trong nước cũng như ngoài nước với hơn mấy vạn lượt người luyện tập.

IV. Chương Trình Huấn Luyện - Nội Dung Cơ Bản

Sau khi nghiên cứu, đối chiếu, chắt lọc bổ sung, Trần Hưng Hiệp đã đưa ra hệ thống huấn luyện gồm 4 phần: biểu diễn, thi đấu, phổ thông, đào tạo HLV. Mỗi hệ thống có các bậc sơ, trung và cao cấp. Hiện nay môn phái có trên 164 bài quyền (tay không và binh khí) như: Thất Tinh quyền (7 bài từ Nhất tinh đến Thất tinh), Thập quyền, Thập nhị bộ, Hầu Quyền căn bản, Thượng Mã quyền, Kim Ngưu, Lão Mai, Thần Đồng, Ngọc Trản, Côn, Kiếm, Thiết Phiến, Thương, Đao, Tiên, Roi...

V. Thành Tích, Khả Năng Phát Triển

Cùng với các môn phái khác, Bình Định Gia đã đào tạo nhiều thế hệ HLV, vận động viên cho Hà Nội và Việt Nam qua các cuộc biểu diễn và thi đấu cổ truyền, Pencak Silat. Một số vđv của môn phái đã đạt nhiều thành tích tốt như: Nguyễn Khắc Thành, Bùi Chí Kiên, Nguyễn Hà, Nguyễn Kim Tuyến, Xuân Hải (từng tham dự Sea Games 18 môn Pencak Silat), Nguyễn Tú, Văn Mạnh, Bùi Công Phương...

Với một lực lượng HLV năng nổ như Nguyễn Văn Long (Tiên Sơn-Hà Bắc), Khắc Thành (Ninh Bình), Thế Hiệp, Mạnh Toàn (Hà Tây), Long Mổ, Văn Thủy (Hòa Bình), Công Phương (Nghệ An)... môn phái Bình Định Gia sẽ có nhiều đóng góp tốt đẹp hơn trong nhiệm vụ bảo tồn và phát huy tinh hoa võ học Việt Nam.

huyen_vu
29-05-2012, 11:18 PM
ViVoDo - Bình Định:

VIVODO là môn võ tổng hợp các võ học Việt (Võ nghệ, Bình Định, võ Lâm) - cổ truyền để tự vệ. Lấy cương-nhu hoà hợp làm căn bản, về võ lý vận dụng học thuyết âm-dương làm nền tảng. Còn là môn võ để luyện tập cho cơ thể khoẻ mạnh, tinh thần minh mẫn. Sống lành mạnh với tâm hồn thoái mái vị tha. Để nối tiếp truyền thống võ dân tộc được lưu truyền, để bảo tồn phát triển và truyền dạy cho thế hệ sau không bị thất truyền. Với những tinh hoa đặc thù của võ dân tộc Việt, võ VIVODO đã được phát triển và đã đúc kết gạn lọc một cách hệ thống dựa theo tiêu chuẩn quốc tế để thích hợp với mọi giới và luyện tập dễ dàng.

Về khía cạnh võ thuật thể hiện rõ nét liên hoàn tinh tế, kết hợp nhuần nhuyễn giữa cương và nhu, giữa công và thủ, giữa mạnh và yếu, giữa bên trong (tinh, khí, thần) với bên ngoài cơ thể (thủ, nhãn và thân).

Võ Bình Định là môn võ cổ truyền của dân tộc, được lưu truyền. Võ Bình Định là một võ luyện tập cho thân thể được khoẻ mạnh, để tự vệ nhưng đã đóng góp đáng kể trong việc cứu nước của tiền nhân. Qua dòng sử đấu tranh không ngừng để tự tồn và phát triển cũa dân Việt. Với những đặc thù độc đáo và tinh hoa của Võ cổ truyền Bình Định hay Võ Tây Sơn đã có từ ngàn xưa và được cải tiến, phát triển trong suốt tiến trình đấu tranh chống ngoại xâm và đánh đổ bạo quyền. Võ Bình Định còn là môn Võ tinh thần, luyện tập ý chí thêm kiên cường, tâm hồn cao thượng, thương dân, yêu nước.

Về kỹ thuật gồm có quyền thuật và mười tám môn binh khí, nhưng sỡ trường nhất là quyền, côn, kiếm, đao, thương.


Võ thuật đời Tây Sơn là đỉnh cao của võ thuật Bình Định. Nhiều lúc ba chữ võ Bình Định hòa lẫn với võ Tây Sơn. Nói đến võ Bình Định, người ta nghĩ ngay đến võ Tây Sơn. Nói đến võ Tây Sơn thì ta lại biết ngay là nói về võ Bình Định.

Vậy đặc điểm của thời võ Tây Sơn là gì?

Về võ thuật có 4 môn: Côn, Quyền, Kiếm, Cổ.

Về binh khí thì có: Tây Sơn thập thần vũ khí.

Về ngựa thì có: Tây Sơn ngũ thần mã.

Về nhân vật thì có: Tây Sơn Tam Kiệt, Tây Sơn Thất Hổ tướng, Tây Sơn Ngũ Phụng Thư. Tây Sơn Lục Kỳ sĩ, Tây Sơn Tứ danh sư.

* Võ thuật thời Tây Sơn

1. Côn:

Về côn thì ở nơi nào cũng có, gồm có hai thứ: Trường côn tục gọi là roi, đoản côn tục gọi là thước.

- Trường côn cũng có hai loại: roi trường (roi đấu) và roi chiến. Roi trường cao hơn đầu người, thường gọi là trường tiên dùng trong chiến trận. Có khi dùng trên ngựa thì sống như ngọn thương. Roi chiến hay gọi là trung bình tiên thường cao hơn đầu người một chút hoặc ngang bằng đầu người. Thường dùng để đánh với đám đông người.

- Đoản côn có tên gọi là thước, dài tới vai người sử dụng là một vũ khí cá nhân gọn gàng trong việc sử dụng và di chuyển. Tại Bình Định có nhiều võ sĩ dùng đoản côn dài hơn kích thước thường hoặc ngắn chỉ bằng 1 sải tay có thể dắt gọn vào lưng. Côn làm bằng gỗ dẻo và chắc như gỗ kiền kiền. Sớ của gỗ phải là sớ dọc. Nếu gỗ có sớ ngang thì sẽ dễ gãy. Đôi khi côn cũng làm bằng thép.

2. Quyền

Đặc điểm của quyền Bình Định là môn quyền hòa hợp giữa ngạnh quyền và miên quyền.

Ngạnh quyền là quyền dùng sức mạnh bên ngoài mà cốt ở sự uyển chuyển hòa hợp. Lấy nội công làm chính.

Ở Bình Định, các võ sư thường dạy cho các môn đệ cả hai thứ. Người giỏi bên ngạnh quyền, nội công vẫn có. Người chuyên về nội công, ngạnh quyền không đến nỗi tầm thường.

3. Kiếm:

Là một loại binh khí bằng kim loại sắc bén. Kiếm gồm hai loại kiếm và đao.

Kiếm thì có trường kiếm và song kiếm. Thường trường kiếm thì đàn ông dùng, song kiếm thì đàn bà dùng. Trường kiếm phát huy sức mạnh. Song kiếm thích hợp uyển chuyển, lẹ làng.

Đao thì có đại đao, tục gọi là siêu và đoản đao gọi tắt là đao. Bình Định thường sử dụng loại đao ngắn gọi là mã tấu thường để đánh giáp lá cà với địch. Rựa và dao bảy cũng được liệt vào loại đao.

4. Cổ

Là môn võ trống.

Đây là một bộ môn võ thuật đặc biệt của thời Tây Sơn. Cho nên còn gọi là trống võ Tây Sơn.

Trống võ dùng để luyện tập võ và điều binh khiển trận.

Bộ võ trống gồm 16 cái lớn nhỏ được bố trí thành một giàn trống như sau:

Đứng ngay chính giữa là võ công. Hai giàn trống nằm ở vị trí trước và sau võ công.

- Phía sau gồm 4 trống lớn, đường kính hơn một thước tây, được treo trên một kệ gỗ gồm từng đôi một. Hai cái gần sát đất, hai cái ngang đầu người. Bốn trống này được võ công đánh bằng gót chân, cùi chỏ và đầu.

Tùy theo tầm vóc của võ nhân mà khoảng cách treo trống cũng tăng giảm theo. Tuy nhiên, khi luyện võ đã khá thuần thục thì khoảng cách càng chênh lệch càng phân biệt được tài nghệ cao thấp. Ban đầu thì khoảng cách thuận vị trí của gót chân, cùi chỏ, sau này trống treo ở bất cứ nơi nào võ nhân cũng dùng gót và cùi chỏ chân đánh trúng. Khán giả chỉ nhìn theo gót chân, cùi chỏ người có võ thuật hay chỉ nghe tiếng trống vang lên dòn dã, âm điệu nhịp nhàng và âm sắc như nhau thì biết được sự điêu luyện của võ nhân. Còn khi nghe tiếng trống khi to khi nhỏ, khi kêu khi tắc, thì biết ngay tay học trò võ mới vào nghề.

- Phía trước võ nhân là một giàn trống gồm 12 cái, nơi trung tâm là hai trống lớn bằng một nửa trống phía sau. Hai trống này làm chủ cả giàn trống trầm hùng luôn luôn rền vang liên tục, âm dương hòa lẫn cùng nhau. Khi người sử dụng có nội công thâm hậu thì tiếng trống vang xa gây thành tiếng sấm rền vang. Khi tiếng trống âm dương thay đổi nhịp điệu, người nghe biết rằng thế trận đang đổi thay, khi hùng hồn dòn giã là khí thế tấn công. Khi trầm trầm chậm rãi là lúc đoàn quân di chuyển…

Phía trước hai trống âm dương có 4 trống chiến, mặt trống lớn bằng hai phần ba trống âm dương. 2 cái nằm trước trống âm, 2 cái nằm trước trống dương, được phối khí theo trống mẹ: 2 âm, 2 dương. Âm nằm bên trái, dương nằm bên phải. Tiếng trống âm nghe trong và cao. Tiếng trống dương nghe trầm và đục. Bốn trống của hai loại này dùng để điều khiển binh sĩ, hợp với trống mẹ. Khi tiếng trống âm vang rền thánh thót thì trận thế cần thủ nhiều hơn công. Khí tiếng trống dương rền vang là lúc xung phong kết thúc trận tiền. Phối hợp nhịp nhàng, bốn trống đại phía sau vẫn điểm nhịp khi khoan thai, khi dồn dập.

Sau hai trống âm dương một dãy gồm 6 trống nhỏ chỉ bằng nửa hai trống âm dương. Đây là một dãy trống dùng trong việc điều hành, phối hợp. Nó chỉ dùng trong việc luyện tập, hiệu lệnh, từ trái sang phải 6 trống này có độ căng của mặt trống khác nhau nên khi đánh lên có 6 âm độ khác nhau. Khi được đánh lên, âm thanh của 6 trống sẽ tạo nên những nhịp điệu khoan thai, dồn dập … điều khiển ba quân làm theo tiếng trống: hội quân, xuất quân, hành quân … Trong các cuộc thao diễn, 6 trống này hòa nhịp với 2 trống âm dương làm thành một giàn nhạc võ. Hai trống âm dương đánh nhịp thùng, thùng, 6 trống hòa reo làm nhịp nhàng thế võ. Giàn trống thay thế cho giàn trống kèn của các nước Tây phương. Tuy nhiên có nhiều cái khác biệt là giàn trống chỉ một người đánh, phải là một vị tướng vừa đánh vừa chỉ huy hoặc điều khiển hành quân, tác chiến bằng âm thanh trống.