PDA

View Full Version : KHỔNG TỬ-Cuộc Sống Thăng Trầm Của Một Thánh Nhân



ngochai
31-05-2012, 08:10 PM
Lời Bạt

Từ xưa tới nay hầu hết các học giả viết về học thuyết Khổng tử đều dùng cả tứ thư lẫn Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Khổng tử gia ngữ… làm tài liệu, như vậy theo tôi không phải là tìm hiểu Khổng giáo trong suốt thời Chiến Quốc, vì trong những sách dẫn trên, ngoài bộ Luận ngữ là đáng tin nhất, còn thì bộ nào cũng chứa nhiều tư tưởng của người sau, không phải của Khổng tử.

Muốn hiểu về Khổng Tử và Đạo Khổng thì không thể không tìm hiểu thông tin về tiểu sử và đời sống của Khổng Tử.

(Bài viết được sưu tầm-Nguyễn Hiến Lê)

ngochai

-------------------------------


http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/5/54/Confucius_Tang_Dynasty.jpg

Một tác phẩm hội họa về Khổng Tử, của họa sĩ Ngô Đạo Tử (680–740) thời kỳ Nhà Đường.

Người đầu tiên viết tiểu sử các triết gia thời Tiên Tần là Tư Mã Thiên, tác giả bộ Sử kí, và trong số các tiểu sử đó, tiểu sử của Khổng tử được chép kĩ hơn cả, dài gấp mười, hai mươi các tiểu sử khác. Về đời sống của Mặc tử, Lão tử, Mạnh tử, Trang tử, Tuân tử… chúng ta gần như không biết gì hết, ngay đến năm sinh năm tử của họ chúng ta cũng chỉ biết đại khái vào khoảng nào đó, có thể sai vài ba chục năm là ít; trái lại về Khổng tử chúng ta được biết nhiều chi tiết về đời của ông từ nhỏ cho tới già.

Nhưng chúng ta nên nhớ rằng Tư Mã Thiên sống ở thế kỷ thứ II trước T.L -145-85(?), sinh sau Khổng tử trên bốn trăm năm, vào một thời mà đạo Khổng được vua Hán bắt đầu coi là chính giáo; lại thêm sau vụ đốt sách chôn nho đời Tần Thủy Hoàng, kế đó vụ Hạng Võ đốt thư viện của Tần, những thư tịch ông dùng để tra khảo không còn được bao nhiêu, mà những truyền thuyết trong dân gian ông cũng muốn ghi lại cho đủ mặc dầu không có cách nào để kiểm chứng, cho nên tiểu sử của Khổng tử do ông viết còn nhiều chỗ khả nghi.

Chúng tôi cho rằng chỉ những việc nào ông chép hợp với bộ Luận ngữ là đáng tin nhất (những việc đó chúng tôi sẽ cho biết ở thiên nào, bài nào trong Luận ngữ, còn những việc khác thì đa số có thể tin được, một số ít có thể là hoàn toàn sai (chúng tôi sẽ chỉ rõ tại sao). Về việc tính tuổi, chúng tôi theo cách của ta. Chúng tôi bỏ bớt đi những truyền thuyết hoang đường.

TỔ TIÊN – THỜI KỲ THƠ ẤU VÀ TRÁNG NIÊN (551-523 TCN)

Khổng tử sanh ở ấp Trâu, nước Lỗ năm -551 (Chu Linh vương năm 21 – Lỗ Tương công năm 22), mất ở Lỗ năm -479. (Chu Kính vương năm 41 – Lỗ Ai công năm 17), thọ 73 tuổi.

Theo truyền thuyết, thủy tổ của ông là Vi tử thấy anh là vua Trụ tàn bạo hoang dâm can không được, bỏ nước mà đi để bảo tồn dòng họ, (XVIII.1), nên Võ vương sau khi diệt Trụ rồi, phong làm Tống hầu.

Không rõ tới đời thứ mấy (mười hay mười hai), họ Khổng phải trốn sang Lỗ, từ đó suy lần, Khổng tử là đời mười lăm.

Cha Khổng tử là Thúc Lương Ngột làm một chức võ quan nhỏ ở Lỗ (có sách chép là đại phu – chắc sai), can đảm và rất mạnh có chút chiến công, nhưng nghèo. Ông có một bà vợ trước chỉ sanh toàn con gái; sau cưới thêm một bà, sanh được một người con trai đặt tên là Mạnh Bì, nhưng Mạnh Bì tàn tật. Về già (ngoài 60 tuổi) mới cưới một thiếu nữ, sanh ra Khổng tử, đặt tên là Khâu (nghĩa là cái gò), tự là Trọng Ni.

Khổng tử ra đời được một hai năm thì mồ côi cha. Hồi nhỏ thích chơi trò tế lễ. Không rõ ông học ai. Trong bài XIX.22, Tử Cống đáp một câu hỏi của Vệ Công tôn Triều, bảo: “Đạo của vua Văn, vua Võ nhà Chu chưa mất, còn có người bảo tồn được. Người hiền ghi được những điều trọng đại, người bất hiền nhớ được những điều nhỏ nhặt, không đâu không có đạo vua Văn, vua Võ. Thầy tôi (Khổng tử) gặp đâu mà không học, hà tất phải học riêng một thầy nào?”

Lời đó đúng, Khổng tử suốt đời tự học, đi đâu cũng học, vào thái miếu, thấy cái gì không hiểu cũng hỏi (III.15), đi chung với ai cũng có thể học của người đó được (VIII.21). Ông không học riêng của một thầy nào, nghĩa là không được một tôn sư truyền cho một học thuyết nào cả; nhưng hồi nhỏ, tuy nhà nghèo, chắc ông cũng được học một trường công (quan học) mở để dạy con cái quí tộc về lục nghệ: lễ, nhạc, xạ, ngự (đánh xe), thư (viết chữ), số (toán).

Năm mười tám tuổi, có thể ông đã học hết chương trình đó để thành một “nho” sinh, tức một “thuật sĩ” có những kiến thức tối thiểu đủ để làm một chức quan nhỏ được (coi chú thích bài VI.11); và ông bắt đầu để chí vào việc tự học về đạo, hoặc nghiên cứu về “lễ”, môn mà ông thích, cho nên trong bài II.4, ông bảo “ngô thập hữu ngũ nhi chí ư học”.

Theo Tư Mã Thiên, năm Khổng tử mười bảy tuổi, một quan đại phu của Lỗ là Mạnh Li tử, khi sắp chết, dặn con nên thờ Khổng tử làm thầy, vì Khổng là hậu duệ của thánh nhân (trỏ Thành Thang, vua sáng lập nhà Thương) và một ông tổ (đời thứ tám?) là chính Khảo Phụ làm thượng khanh ở Tống, có đức cung kính, khiêm nhượng. Sau, con Li Tử là Ý Tử, nghe lời cha, cùng một bạn học nữa, trong giới quí tộc là Nam Cung Kính Thúc, đến xin học lễ với Khổng tử.

Thuyết đó tin được không? Mười lăm tuổi mới để chí vào việc học mà mười bảy tuổi đã nổi danh và được trọng như vậy? Theo Luận ngữ, Khổng có một học trò tên là Nam Dung (bài V.I), Sử kí chép là Nam Cung Quát, tự là Tử Dung; và theo Hán Thư (Cổ kim nhân biểu) thì Nam Cung Kính Thúc với Nam Dung – tức Nam Cung Quát là hai người. Vậy không chắc Kính Thúc là học trò của Khổng tử.

Có thể Khổng tử cưới vợ hồi 19 tuổi, rồi năm sau sinh con trai đặt tên là Lí, tự là Bá Ngư. (Sau ông còn sanh một người con gái nữa, gả cho Công Dã Tràng, một môn sinh – bài V.1).

Không rõ từ năm nào ông làm chức lại cho họ Quí, một quí tộc có quyền nhất ở Lỗ thời đó như trong chương trên tôi đã nói. Mới đầu ông coi việc gạt thóc, sau coi việc giữ cừu và bò để dùng trong những tang lễ, nổi tiếng là siêng năng, liêm khiết. Điều đó tin được. Bài IX.6, Khổng tử nói: “Ta hồi nhỏ nghèo hèn, nên học được nhiều nghề bỉ lậu”… “Ta không được dùng (không được làm quan cho nên học được nhiều nghề” có thể ám chỉ những việc gạt thóc và giữ cừu, bò đó.

Tư Mã Thiên bảo họ Quí cất nhắc ông lên chức tư không (như thượng thư bộ công); việc này khó tin: sử không chép mà lúc đó Khổng mới khoảng 21 tuổi, không thể từ một chân lại mà nhảy lên cao như vậy. Kế đó ông rời Lỗ, qua Tề, Tống, Vệ, tới đâu cũng bị hất hủi, gặp khốn ở Trần, Thái, cuối cùng trở về Lỗ. Việc này chắc chép sai. Khổng có bị nạn ở Trần, Thái, nhưng về già kia, khoảng 60 tuổi khi Ngô, Sở đánh nhau.

Về Lỗ rồi, ông bắt đầu dạy học, không biết từ năm nào, có sách nói hồi 22 tuổi: sớm quá, nếu đúng thì cũng chỉ dạy những trẻ nhỏ; từ 30 tuổi ông mới thực là bậc thầy. Một môn sinh là Nam Cung Kính Thúc; xin vua Lỗ cho phép cùng với Khổng Tử qua nước Chu để khảo về “lễ”, vì Lạc ấp, kinh đô của Chu có nhiều thư tịch và di tích. Vua Lỗ cho họ một cỗ xe với hai con ngựa và một người hầu.

Ở Lạc ấp, Khổng tử lại yết kiến Lão tử, khi tiễn biệt, Lão tử khuyên (Tư Mã Thiên, Sử kí – Phần Thế Gia – Khổng tử):

“Tôi nghe nói người giàu sang tiễn nhau bằng tiền bạc, người nhân tiễn nhau bằng lời nói. Tôi không phải là người giàu sang, mạn phép tự coi là người nhân mà tiễn ông bằng lời này: Kẻ thông minh và sâu sắc thì khó sống vì ham phê bình người; kẻ giỏi biện luận biết nhiều thì nguy tới thân vì hay nêu cái xấu của người. Kẻ làm con và kẻ làm tôi đều không có cách gì để giữ mình cả“.

“Những người ông nói đó, thịt xương đều nát cả rồi, chỉ còn lại lời của họ thôi. Vả lại người quân tử nếu gặp thời thì ngồi xe ngựa, không gặp thời thì đội nón lá mà đi chân đất. Tôi nghe nói người buôn giỏi thì giấu kĩ vật quí, coi ngoài như không có gì; người quân tử đức cao thì dong mạo như ngu độn. Ông nên bỏ cái khí kiêu căng, cái lòng đa dục, cái vẻ hăm hở cùng cái chí quá hăng của ông đi, những cái đó không có ích gì cho ông đâu. Tôi chỉ khuyên ông bấy nhiêu thôi”. Khổng tử về bảo môn sinh: “Loài chim ta biết nó bay được; loài cá ta biết nó lội được; loài thú ta biết nó chạy được. Chạy thì ta dùng lưới để bẫy, lội thì ta dùng câu để bắt, bay thì ta dùng tên để bắn. Đến loài rồng cưỡi gió mây mà lên trời thì ta không sao biết được. Hôm nay ta gặp ông Lão tử. Ông là con rồng chăng?”

Về cuộc gặp gỡ giữa hai triết gia đó, từ đời Thanh, đã có một số học giả ngờ là không có, gần đây số người chủ trương “không” đông hơn số người chủ trương “có”.
Trong cuốn Lão tử (chưa xuất bản), chương I (Đời sống của Lão tử) chúng tôi đã chép lại cuộc tranh biện đó; dưới đây chúng tôi chỉ tóm tắt những lý do khiến chúng tôi tin phe chủ trương “không”.

Lão tử không sinh trước Khổng tử, mà sinh sau vào thời Chiến Quốc. Tài liệu Tư Mã Thiên dùng để viết hai đoạn Lão tử khuyên Khổng tử đó rút trong Ngoại thiên, Tạp thiên bộ Trang tử, và thiên Tăng tử vấn bộ Tiểu Đái Kí mà những thiên đó đều không đáng tin.

Nếu Lão tử hồi đó đã nổi danh, được Khổng tử kính trọng như vậy thì sao Luận ngữ, và tất cả những sách đầu đời Chiến Quốc như Mặc tử, Mạnh tử đều không nhắc tới Lão. Trong Luận ngữ chỉ có mỗi một bài VII.1 nói đến Lão Bành, nhưng Lão Bành là ai chưa biết được.

Ngay việc Khổng tử qua Chu nghiên cứu về “lễ” cũng chưa chắc đã có. Khổng tử thế gia bảo Nam Cung Kính Thúc xin Lỗ Chiêu công cấp phương tiện cho Khổng tử sang Lạc ấp khảo về lễ. Năm đó là năm Chiêu công 24, tức năm -518, Khổng tử 34 tuổi; Nam Cung Kính Thúc mới 14 tuổi, làm sao được vào yết kiến vua để xin việc đó?
Vả lại Lão tử cực lực phản đối Lễ. Chương 38 sách Lão tử chép: “Đạo mất rồi sau mới có đức, đức mất rồi sau mới có nhân, nhân mất rồi sau mới có nghĩa, nghĩa mất rồi sau mới có lễ. Lễ là biểu hiện sự suy vi của trung tín, là đầu mối của sự hỗn loạn”. Khổng tử trái lại rất đề cao lễ, lẽ nào lại đi hỏi Lão về lễ, rồi còn hết lời ca tụng Lão là “con rồng, cưỡi gió mây mà lên trời, ta không sao biết được”?

Đoạn Tư Mã Thiên dẫn đó, trong thiên Thiên vận (Trang tử), chắc là do Đạo gia cuối thời Chiến Quốc bị ra để đề cao Lão, hạ giá trị của Khổng; chỉ đáng coi là ngụ ngôn, Tư Mã Thiên chưa kịp cân nhắc đã vội dùng.


ngochai

ngochai
31-05-2012, 08:23 PM
TỪ BA MƯƠI TUỔI TỚI NĂM MƯƠI TUỔI (522-503 TCN)

Từ Chu trở về (nếu thực ông đã qua Chu), danh Khổng tử càng tăng, học trò càng đông.

Năm 20 Lỗ Chiêu công, Khổng tử ba mươi tuổi. Tề Cảnh công và Án Anh, một đại phu có tài đức của Tề, qua chơi Lỗ. Cảnh công hỏi Khổng tử: - Xưa Tần Mục Công làm vua một nước nhỏ ở một nơi hẻo lánh, mà sao dựng được nghiệp bá.

Ông đáp: - Tần tuy nhỏ nhưng có chí lớn, ở nơi hẻo lánh nhưng chính trị đúng đắn. Lại thêm biết dùng một người hiền là Bách Lí Hề làm đại phu, nhờ vậy uy thế tăng. Mục công có thể lập được nghiệp vương chứ không phải chỉ nghiệp bá mà thôi.
Tề Cảnh công khen là phải. Việc này không thấy chép trong Luận ngữ.

Thời đó, tình cảnh của Lỗ bấp bênh, bị ép giữa mấy nước mạnh: Tấn ở Tây Bắc, Tề ở Đông Bắc, Sở ở Nam, không kể Tần ở Tây. Lỗ nhỏ và yếu, phải lấy lòng họ. Đó là phía ngoài; tại trong nước, ba quí tộc (tam gia cũng gọi là tam Hoàn): Quí Hoàn tử, Thúc Hoàn tử và Mạnh Hoàn tử (đều là hậu duệ của Lỗ Hoàn công) lấn hết quyền của Lỗ Chiêu công. Họ Quí mạnh nhất, chiếm tới nửa nước, có thành Phí ở phía Đông, họ Thúc chiếm phía Tây của Lỗ, họ Mạnh chiếm phía Bắc, miền biên giới Tề, Lỗ. Họ thu thuế, nắm binh quyền, có gia thần, triều đình riêng, thành trì, quân đội riêng; nghênh ngang hống hách, sống xa xỉ hơn vua Lỗ; nhất là họ Quí muốn tiếm lễ thiên tử, tước chỉ là đại phu của một chư hầu mà dùng vũ (điệu múa) Bát dật của thiên tử (III.1); cả ba nhà đều cho hát thơ Ung khi dẹp đồ tế lễ trong nhà họ, mà theo lễ, chỉ thiên tử khi tế ở tôn miếu mới cho hát thơ đó.

Năm 516, Lỗ Chiêu công ghét Quí Bình tử vì một tội nhỏ (tội chọi gà) của Bình tử, đem quân hỏi tội Bình tử. Bình tử bảo hai họ kia (Mạnh và Thúc) nếu để vua Lỗ diệt được họ Quí (Bình tử) thì sẽ tới phiên họ bị diệt theo; cả ba bên liên kết với nhau tấn công Chiêu công, Chiêu công phải trốn sang Tề. Lỗ đại loạn. Khổng tử cũng qua Tề, ở nhà Cao Chiêu tử, hi vọng được tiếp xúc với vua Tề. Ở Tề, ông nghe nhạc Thiều của vua Thuấn, thích quá, tới nỗi ba tháng không biết mùi thịt (bài VII.13) khen là “tận mĩ, tận thiện”, hơn hẳn nhạc Võ của Võ vương, chỉ tận mĩ chứ không tận thiện (bài III.25).

Ông được Tề Cảnh Công vời, hỏi về phép trị nước. Ông đáp: - Vua làm hết đạo vua, bề tôi hết đạo bề tôi, cha biết đạo cha, con biết đạo con. (hoặc vua phải ra vua, bề tôi phải ra bề tôi…)

Cảnh công khen (bài XII.11).

Lần khác, Cảnh công hỏi nữa, ông đáp: “Phải tiết kiệm trong việc tiêu dùng”.
Cảnh công muốn dùng ông, Luận ngữ chép: “Tề Cảnh công nói về cách đối đãi với Khổng tử: “Ta không thể đãi Khổng tử như vua Lỗ đãi họ Quí (đãi là thượng khanh), có thể đãi ông ấy vào bậc giữa họ Quí và họ Mạnh (họ Mạnh là hạ khanh)”. Mới định vậy, sau Cảnh công lại nói: “Ta già rồi, không dùng Khổng tử được”. “Khổng tử bèn đi” (bài XVIII.3).

Nghĩa là Cảnh công muốn đãi Khổng tử vào bậc trung khanh, nhưng có lẽ bị quần thần phản đối, lại thôi.

Tư Mã Thiên chép rõ rằng người phản đối là Án Anh, Án tâu với vua Tề: - Bọn nhà nho ba hoa, kiêu căng, quá coi trọng việc chôn cất, thương khóc (mà tán gia bại sản), chỉ đi du thuyết, bày ra nhiều hình thức phiền phức về lễ, đi thì rảo bước giơ tay, như vậy dù học mấy cũng không biết gì về lễ được. Dùng Khổng mà thay đổi phong tục Tề thì hỏng.

Một số đại phu còn muốn hại Khổng tử nữa. Khổng tử biết vậy, bỏ về Lỗ, năm đó bốn mươi hai tuổi, năm Lỗ Chiêu công mất ở Tề, Định công lên ngôi.

Chuyện Án Anh chê Khổng tử đó không chắc đúng. Án là một hiền thần của Tề, Tư Mã Thiên trong Quản, Án liệt truyện khen là “tiết kiệm, chăm làm, được người Tề kính trọng. Làm tướng quốc mà mỗi bữa không ăn hai món thịt, thê thiếp không mặc đồ tơ. Ở triều đình vua hỏi điều gì thì tâu rất thẳng, vua không hỏi tới thì giữ mình rất nghiêm. Nước hữu đạo thì thuận lệnh mà làm, vô đạo thì châm chước lệnh mà làm, nhờ vậy làm quan ba triều, hiển danh ở các nước chư hầu”.

Khổng tử không chê mà khen ông là khéo cư xử. Cách trị nước, đối với vua và giữ mình của ông cũng hợp với Khổng tử. Lời chê bọn nhà nho nặng nề như vậy có thể là của bọn đại phu nước Tề. Cảnh công nghe lời họ nếu không thì Khổng tử đã tòng chính thành một quan khanh của Tề rồi.

Chúng ta nên nhớ quan niệm quốc gia của người Trung Hoa thời đó khác quan niệm của thời sau. Tuy Trung Hoa gồm mười mấy nước, nhưng nước nào cũng là “đất” của nhà Chu cả, người nước nào, dù là Tề, Sở, Lỗ, Tần, Ngô, Việt… cũng là con dân của thiên tử nhà Chu cả, trên nguyên tắc. Vì vậy một người tài giỏi không được dùng ở nước mình, qua thờ một nước khác, không phải là phản quốc (cho nên Ngũ Tử Tư vì báo thù cha mà đem binh Ngô về giày xéo quê hương mình là nước Ngô, người thời đó không chê lắm); còn dân chúng nếu trong nước loạn lạc thì trốn qua nước khác ở, đi lính cho nước này mà chống cự lại quê hương của mình; chuyện đào ngũ hàng loạt để qua phía địch là chuyện thường; do đó vua chúa nước nào cũng mong có được nhiều dân, cũng mong cho “người ở gần vui lòng, ở xa qui phục” (cận giả duyệt, viễn giả lai) như lời Khổng tử đáp Diệp công (nước Sở) trong bài XIII.16. Mà những câu này trong Kinh Thư, Thi là tư tưởng phổ biến đương thời:

Ý dân là ý trời – Trời thương dân, dân muốn gì trời cũng theo. Trời trông thấy tự ở dân ta trông thấy, trời nghe thấy tự ở dân ta nghe thấy (Thư). Được lòng dân là được nước, mất lòng dân là mất nước (Thi).

Cũng do đó mà quan niệm trung quân thời đó rất rộng rãi chứ không hẹp hòi như từ đời Hán (tức từ khi Trung Hoa thống nhất) trở đi. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một chương sau. Trong mấy năm ở Tề không làm gì, có thể Khổng tử nghiên cứu các Kinh Thi, Thư. Khi về Lỗ rồi, Khổng tử nổi tiếng là học rộng, biết nhiều. Năm 506 Quí Hoàn tử nối nghiệp Quí Bình tử đào giếng thấy xương một con vật giống con cừu, có ống xương dài bằng một cỗ xe, phái người lại hỏi Khổng tử. Khổng tử đáp là con “phần dương” do đất sinh ra (?). Lâm Ngữ Đường bảo có lẽ là con “khủng long” (dinosaurien).

Quí Hoàn tử vẫn chuyên quyền, lấn áp vua Lỗ; nhưng chính Hoàn tử lại bị một gia thần là Dương Hổ (Luận ngữ gọi là Dương Hóa, “hóa” và “hổ” phát thanh hơi giống nhau) ức hiếp. Dương Hổ muốn đuổi một kẻ thân tín của Hoàn tử đi, bắt giam người đó; Hoàn tử phản đối kịch liệt, Hổ bắt giam luôn Hoàn tử, và chỉ thả ra sau khi Hoàn tử chịu thề (hay kí một tờ cam kết). Từ đó Hổ ngày càng khinh thường Hoàn tử. Cả nước Lỗ loạn từ trên xuống dưới.

Dương Hổ muốn dụ Khổng tử ra giúp y. Ông từ chối. Bài XVII.1 chép việc đó như sau: “Dương Hóa (tức Dương Hổ) muốn gặp Khổng tử nhưng Khổng tử không đến thăm y, nên y cho đem biếu Khổng tử một con heo sữa (luộc chín).

Khổng tử rình lúc Dương Hóa đi vắng, lại nhà y tạ ơn. Không ngờ trên đường về gặp y. Y gọi Khổng tử: “Lại đây, tôi muốn nói chuyện với ông”. Rồi nói: “Giấu tài đức quí báu mà không cứu nước đang mê loạn, có thể gọi là người nhân được không?” (Khổng làm thinh) Dương Hóa nói tiếp: “Không gọi là người nhân được. Muốn ra làm quan mà nhiều lần bỏ lỡ cơ hội, có thể gọi là trí được không?” (Khổng tử lại làm thinh). Dương Hóa lại nói tiếp: “Không gọi là trí được. Ngày tháng trôi qua, tuổi chẳng chờ đợi ta”. Khổng tử nói: “Vâng, tôi sẽ ra làm quan”.

Có người cho những câu “Không gọi là người nhân được”, “Không gọi là trí được” là lời Khổng tử đáp. Tôi nghĩ cho là lời Dương Hổ tự đáp thì làm rõ tính hách dịch, nóng nảy, hợm mình của Dương Hổ, và làm nổi bật thái độ bình tĩnh, cương quyết, tự tin của Khổng tử hơn.

Ông lại tiếp tục nghiên cứu và dạy học. Số môn sinh tăng nhiều, có những người từ phương xa lại. Năm đó ông vào khoảng 46-47 tuổi.


ngochai

ngochai
31-05-2012, 08:26 PM
THỜI KỲ THAM CHÍNH TẠI LỖ (502-546 TCN)

Năm 502, Khổng tử đúng năm mươi tuổi – “tri thiên mệnh” – (Định công năm thứ tám).

Công sơn Phất Nhiễu (Sử kí gọi là Phất Nữu) – một gia thần của Quí Hoàn tử, có chuyện bất bình với Hoàn tử, theo Dương Hổ. Cả hai nổi loạn, chống Hoàn tử, bắt giam Hoàn tử, Hoàn tử lập mưu trốn thoát, và năm sau, đánh lại Hổ, Hổ thua, trốn sang Tề. Còn Công sơn Phất Nhiễu thì vẫn giữ thành Phí, chống lại Hoàn tử, cho người mời Khổng tử lại giúp mình. Khổng tử muốn đi. Tử Lộ không bằng lòng, xẵng giọng cản: “Không có nơi nào để hành đạo thì thôi, hà tất phải đến với họ Công sơn?”. Khổng tử đáp: “Người ta vời ta, hẳn là có ý dùng ta. Nếu dùng ta thì ta sẽ phục hưng đạo nhà Chu ở phương Đông” (tức ở Lỗ) (XII.5).

Lương Khải Siêu không tin việc đó, vì chỉ có Sử kí chép mà Tả truyện không chép. Có lẽ một phần cũng do thái độ của Khổng tử trong truyện đó có chỗ khó hiểu: ông đã cương quyết không hợp tác với Dương Hổ mà sao bây giờ lại muốn giúp Phất Nhiễu, cũng thuộc hạng loạn thần như Hổ? Có thể rằng tư cách Phất Nhiễu hơn Hổ chăng? Mà Phất Nhiễu chống Hoàn tử một loạn thần, chứ chưa chắc đã không tôn vua Lỗ. Ông cứ lại dò ý hắn xem; nếu quả như ông đoán thì ông có thể thuyết hắn lập lại uy quyền của Định công mà khiến cho Lỗ theo đạo nhà Chu. Năm chục tuổi rồi mà chưa có cơ hội nào tham chính đế thực hành đạo của mình, “tuế bất ngã dữ” thì làm sao ông không nóng nảy! Nhưng rồi ông biết nghe lời can của Tử Lộ mà không đi.

Thực may cho ông mà không đi, vì ít lâu sau Định công mời ông làm Trung Đô tế, coi ấp Trung Đô, kinh đô của Lỗ, cũng như chức phủ doãn đời sau, chức đô trưởng gần đây. Được một năm, Trung Đô rất có trật tự, kỉ luật từ trên xuống dưới, thành một thị trấn kiểu mẫu. Năm sau ông được cất nhắc lên chức Tư không, tức như Thượng thư bộ Công, rồi lãnh chức Đại Tư Khấu tức như Thượng thư bộ Hình. Đồng thời ba môn sinh của ông là Tử Lộ, Nhiễm Hữu và Tử Du cũng ra làm quan với họ Quí. Có thể Tử Hoa cũng được Định công dùng về ngoại giao.

Năm 500, Tề Cảnh công mời vua Lỗ họp ở Giáp Cốc (có sách chép là Hiệp Cốc), trên biên giới hai nước để kết nên hòa hảo. Lỗ Định công tính chi dắt theo một mình Khổng tử trên xe thôi. Khổng tử bảo hễ đi dự những cuộc hội họp thân ái thì nên đem võ sĩ, mà đi dự những cuộc hội họp võ bị thì nên dắt theo mưu sĩ. Thời xưa, mỗi khi vua ra khỏi cương thổ đều có võ quan hộ tống, và ông khuyên Định công dắt theo hai viên tả, hữu Tư mã.

Định công nghe lời, bảo Thân Câu Tu (hữu Tư mã) và Nhạc Kì (tả Tư mã) điểm một số binh xa để cùng đi với mình tới hội nghị, lại điểm một số quân nữa đóng một nơi cách hội nghị mười dặm.

Hội nghị họp ở trên một cái đàn, phía Tề có Án Anh theo hầu, phía Lỗ có Khổng tử. Đúng như Khổng tử đoán, Cảnh công bày ra trò múa hát, vũ công ăn mặc kì cục, đeo gươm, cầm giáo mác, cơ hồ muốn ám hại hoặc uy hiếp Định công. Khổng tử vội leo lên đàn khoát tay, yêu cầu Cảnh công đuổi bọn đó đi, vì điệu vũ không hợp với một hội nghị hòa hảo. Lát sau một đội con hát tiến lên hát những khúc thô tục. Khổng tử cũng buộc Cảnh công phải dẹp. Và chặt chân tay bọn con hát đó! Vậy là vua Tề không uy hiếp cũng không làm nhục được vua Lỗ, trở về trách những kẻ bày mưu cho mình, ân hận đã có lỗi với vua Lỗ, mà việc kết thân thất bại. Một viên quan không biết gì về những âm mưu của kẻ bày trò múa hát đó, khuyên Cảnh công: “Người quân tử khi đã biết lỗi thì thành thực tạ lỗi bằng hành động, kẻ tiểu nhân chỉ tạ lỗi bằng lời nói suông”. Vua Tề nghe lời trả lại Định công đất Tam Điền thuộc về phần của Hoàn tử. Sự thực thì có lẽ Tề phải trả đất vì người Lỗ đã chuẩn bị chiến tranh để đòi lại những đất đó. Tôi ngờ cả vụ hội nghị ở Giáp Cốc đó có chút màu sắc tiểu thuyết.

Sau vụ đó, Khổng tử được làm tướng quốc thứ nhì (á tướng). Tướng quốc thứ nhất là Quí Hoàn tử, người trong dòng họ vua. Năm 497, Khổng tử khuyên Định công dẹp ba nhà quyền thần đi, không để cho họ có thành quách, quân lực riêng. Định công nghe lời, giao việc phá thành của ba nhà cho Tử Lộ. Tử Lộ và Nhiễm Hữu lúc đó ở dưới quyền họ Quí. Họ Thúc chịu để cho phá thành Hậu trước hết. Khi phá thành Phí của họ Quí – thành đó bị Công sơn Phất Nhiễu chiếm từ trước thì dân chúng do Phất Nhiễu xúi, nổi loạn, chống lại; Khổng tử sai đem quân lại dẹp, Phất Nhiễu thua, trốn qua Tề, và thành Phí bị san phẳng. Thành thứ ba của họ Mạnh ở gần biên giới Tề Lỗ tại ấp Thành. Họ Mạnh không chịu phá, lấy cớ rằng nếu phá thì khi quân Tề xâm lăng, không có gì cản chúng được. Định công đem quân lại vây nhưng không chiếm nổi. Vậy là ba thành chỉ phá được hai.

Cũng năm đó (?), Khổng tử giết Thiếu Chính Mão, một đại phu gian xảo làm loạn chính sự.

Vụ đó, một số học giả ngờ là không có. Họ đưa ra ba lý do:
Khổng tử chủ trương trị nước, không nên giết người. Luận ngữ, bài XII.19, chép: “Quí Khang tử hỏi Khổng tử về phép trị dân: “Giết kẻ vô đạo (độc ác) để cho người khác thành hữu đạo (lương thiện) nên chẳng”? Khổng tử đáp: “Ông trị dân, cần gì phải dùng biện pháp giết người? Ông muốn thiện thì dân sẽ hóa thiện. Đức hạnh của người quân tử (người trị dân) như gió, mà đức hạnh của tiểu nhân (dân) như cỏ. Gió thổi thì cỏ tất rạp xuống”.

Không lẽ Khổng tử chủ trương không giết người mà mới được Định công tin dùng, đã giết một đại phu của Lỗ.

Thời đó giết một đại phu là một việc rất quan trọng. Khổng tử không phải là người hoàng tộc, chỉ là một á tướng, một đại phu, đâu dám giết một đại phu. Tử Sản, tướng quốc Trịnh, được vua Trịnh tin dùng bao nhiêu năm mà còn không dám giết Công Tôn Hắc thay!

Một vụ quan trọng như vậy mà sao sử Lỗ không chép, Luận ngữ cũng không nhắc tới, chỉ chép trong Sử kí (Khổng tử thế gia) và trong Khổng tử gia ngữ, mà có lẽ Tư Mã Thiên cũng chỉ theo Khổng tử gia ngữ khi viết Khổng tử thế gia.

Lẽ thứ nhất không vững lắm. Khổng tử không muốn giết dân; nhưng loạn thần thì chắc ông cương quyết trị, như việc phá thành của ba họ Quí, Thúc, Mạnh kể trên. Lẽ thứ nhì cũng không đủ vững. Nói Khổng tử giết Thiếu Chính Mão, có thể hiểu là đề nghị giết với Định công và được Định công chấp thuận. Lẽ thứ ba chấp nhận được.
Từ đó uy tín của Khổng càng lên mà nước Lỗ hóa ra thịnh trị. Ba tháng sau, những người bán thịt ở chợ không nói thách nữa; trên đường đàn ông đi một bên, đàn bà đi một bên; của rơi ngoài đường, không ai nhặt, dân các nước chung quanh lại Lỗ làm ăn mỗi ngày một nhiều. Nếu quả thật như vậy thì lời Khổng tử trong bài XIII.10: “Có ai dùng ta (cầm quốc chính) thì một năm cương kỉ đã khá, ba năm sẽ thành công”, không phải là một lời nói quá.

Vua Tề thấy Lỗ thịnh trị đâm lo ngại; sợ Lỗ thành nước mạnh nhất ở phía Đông, sẽ làm bá chủ, mà Tề ở sát nách, bị uy hiếp trước cả. Lúc này Án Anh đã mất. Một đại phu bày mưu với vua Tề, lựa tám chục thiếu nữ đẹp, cho bận gấm vóc, dạy cho múa hát, đưa qua tặng vua Lỗ với một trăm hai mươi lăm con ngựa tốt. Đoàn nữ nhạc với bầy ngựa đó biểu diễn ở cửa Nam kinh đô Lỗ. Quí Hoàn tử cải trang lại xem ba lần, và xúi Định công lẻn tới xem nữa. Họ mê mẩn tâm thần, bỏ cả triều chính. Tử Lộ nói với Khổng tử: “Thầy trò mình nên sớm rời đi thôi”.

Khổng tử bảo: “Gần đến ngày tế Giao (tế trời) rồi; nếu nhà vua làm lễ xong, còn nhớ phân phát thịt cúng cho các quan thì chúng ta còn ở lại được”.

Nhưng Quí Hoàn tử nhận đoàn nữ nhạc của Tề rồi ba ngày không vào triều, sau lễ Giao, cũng quên việc chia thịt. Khổng tử biết rằng đạo mình không còn thi hành được nữa, và mấy thầy trò rời khỏi Lỗ. Dương Hổ và Phất Nhiễu đã trốn qua nước ngoài. Lỗ hết loạn rồi, Định công và Hoàn tử còn dùng gì họ nữa?

Có lẽ lúc đó nhiều vị quan Lỗ cũng bỏ đi trong số đó có tám nhạc sư Chí, Can, Liêu, Khuyết… chép trong bài XVIIII.9.


ngochai

ngochai
31-05-2012, 08:32 PM
BỐN NĂM LƯU LẠC (496-492 TCN)

Hồi này ông đã 56 tuổi, già rồi, tham chính đã được sáu năm (theo Tư Mã Thiên) đã giúp Lỗ được nhiều công. Chúng ta không được biết gì nhiều về gia đình ông cả. Thân mẫu ông đã qui tiên khoảng ba chục năm trước (có sách nói là hồi ông 25 tuổi), vợ ông còn sống với ông không, con trai ông, cậu Lí đã 35-36 tuổi, ông chắc đã có cháu nội, có thể có cả cháu ngoại nữa – con gái ông gả cho học trò của ông là Công Dã Tràng – như vậy ông có thể nghỉ ngơi, tiếp tục dạy học, vui cảnh già với con cháu, nhất là môn sinh, trong cái tình kính mến của bạn bè, nhân dân.

Vậy mà sao ông lại bỏ quê hương xử sở, lang thang khắp nước này tới nước khác? Tâm sự của ông lúc lên đường não nùng ra sao, Mạnh tử chi chép vắn tắt trong bài Tận Tâm hạ – 14: “Khổng tử nói khi rời nước Lỗ: “Ta chầm chậm mà đi thôi”. Khi rời đất nước của cha mẹ thì lòng người ai cũng vậy”.

Tôi đoán ông sở dĩ ra đi vì tin Trời giao cho ông sứ mạng phục hồi đạo của Chu công, lập lại trật tự trong thiên hạ. Mấy lần ông nói đến sứ mạng đó: “thiên sinh đức ư dư…” (Trời cho ta có phẩm đức…) (VII.22); “Thiên chi vị táng tư văn dã, Khuông nhân kì như dư hà!” (Trời chưa muốn hủy diệt văn hóa (của Văn vương) đó, thì người Khuông làm gì được ta? – IX.5).

Sáu năm thi hành đạo của ông ở Lỗ, thấy có kết quả ông lại càng tin có thể lập được sự nghiệp như Chu công; Lỗ không dùng ông thì trong thiên hạ thế nào chẳng có nước dùng?

Ông là người đầu tiên mở trường tư (tư học) cho mọi hạng người: “hữu giáo vô loại” (XV.38) – (Coi thêm Nhà giáo họ Khổng – Cảo thơm 1972), để đào tạo những con người lương thiện, có lễ nghĩa, nhất là đào tạo một hạng sĩ quân tử có nhân, trí, dũng để làm quan giúp nước. Ông dạy đủ lục nghệ như chương trình các trường công, lại thêm sử đời trước (Thư), môn ăn nói (Thi), các thể chế, lễ nghi (Lễ)… nhất là ông bắt họ học thì phải thực hành: cách cư xử với cha mẹ, anh em, với vua, với bạn, với mọi người.

Trong hơn ba chục năm ông đã đào tạo một số môn sinh có ít nhiều tài đức, có thể ra làm quan được, và đã có năm sáu người lãnh chức vụ ở triều đình Lỗ. Ông nhận định khả năng đặc biệt của mỗi người để gặp cơ hội thì dùng.

Đức hạnh có: Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Bá Ngưu, Trọng Cung.
Biện luận: Tể Ngã, Tử Cống.
Chính sự: Nhiễm Hữu, Quí Lộ. Văn học: Tử Du, Tử Hạ (XI.2)
Võ bị: Tử Lộ (V.7, XI.25)
Ngoại giao: Công Tây Xích tức Tử Hoa (XI.25 – V.7). Tử Cống, giỏi ăn nói, tính toán, buôn bán (XI.18). Sau cùng Nhiễm Ung (Trọng Cung) có tư cách một ông vua (VI.1).

Như vậy là có đủ một nhóm – như người Pháp ngày nay gọi là một équipe – cùng một chí hướng, mà vị thủ lãnh là ông, hễ một ông vua chư hầu nào dùng ông làm tướng quốc là ông có thể thành lập ngay một nội các được. Trong lịch sử nhân loại, có lẽ ông là người đầu tiên lập một tổ chức như vậy, gần thành một đảng chính trị có chính sách rõ ràng.

Ông cũng là người đầu tiên mở phong trào đi du thuyết khắp các nước để tìm một ông vua biết dùng thấy trò ông. Trong lịch sử nhân loại tôi cũng chưa thấy có trường hợp nào như vậy nữa. Sau này thầy trò Mạnh tử đã theo gót ông đi du thuyết. Còn bọn pháp gia cũng có rất nhiều nhà du thuyết, chủ trương đại cương giống nhau – trọng pháp, thuật, thế, trọng thực tế, trọng sức mạnh, mà mạt sát nhân, nghĩa, lễ, tín – nhưng không thành một đảng, một “nhà” (école) được, vì họ không tôn ai làm thầy cả, không biết đoàn kết với nhau.

“Đảng” của Khổng tử đắc lực quá, lại đoàn kết, mà đại đa số ở trong giai cấp tân địa chủ hay bình dân, cho nên nếu được vài ông vua muốn dùng thì lại bị bọn quí tộc, bọn đại phu ở triều đình nghi ngờ, gièm pha, như khi ông ở Sở (coi đoạn sau): họ sợ bị thầy trò ông giành mất địa vị. Tử Cống bảo không ông vua nào dùng Khổng tử được vì đạo của ông cao quá, nên hạ thấp nó xuống một chút (coi đoạn của thầy trò Khổng tử bị tuyệt lương ở Trần, Thái, phía sau). Đó là một lý do nữa khiến ông thất bại.

Lần này ông ra đi có gia đình theo ông không, chúng ta không biết. Môn sinh có những ai? Chắc chắn có Nhan Hồi, Tử Lộ, có thêm Tử Cống, Nhiễm Hữu, Tử Du, Tử Hoa, Nguyên Tư, (bốn người sau đã được ông giới thiệu làm quan ở Lỗ). Đi bằng xe vì qua nhiều nước, đường dài mấy ngàn dặm (coi bản đồ ở trang sau). Tới nước nào chắc được vua hoặc đại phu nước đó chu cấp, vì thầy trò ông có làm gì khác đâu để sống. Chu cấp chắc không nhiều (mà có nhiều chắc ông cũng không nhận). Thời ông chưa phải là thời người ta chiêu hiền đãi sĩ rất trọng hậu như thời Mạnh tử. Mạnh tử mỗi khi qua nước nào, “dắt theo cả mấy chục cỗ xe và mấy trăm người tùy tùng, và vua nước ấy phải cung cấp lương thực”, rồi khi rời nước đó thì vua còn “dâng ông chút ít” – độ vài chục dật vàng thôi, mỗi dật bằng 20, 24 lượng “để ông lên đường”. Khổng tử và đoàn tùy tùng có lẽ nhiều lắm được mười, hai mươi người mà có lúc phải nhịn đói, mặt xanh như tàu lá!

Ông không qua Chu – Mạnh tử sau này cũng vậy – Ông chỉ tòng Chu chứ không tôn Chu, có lẽ vì ông thấy Chu quá suy, không làm được gì. Cũng có thể ông nghĩ nếu giúp Chu chưa chắc Chu đã thịnh được mà các chư hầu lớn – các bá – như Tề, Tấn, Tần, Sở sẽ nghi kị vua Chu và ông mà thêm hại cho Chu. Người đời sau cho việc ông không tôn Chu là một mâu thuẫn của ông. Nước đầu tiên ông tới là Vệ, nước anh em của Lỗ như ông nói (coi chương trên).

Tới ấp Nghi của Vệ, viên quan giữ biên cương xin được yết kiến ông. Khi yết kiến rồi, viên đó bảo với mấy môn sinh Khổng tử: “Mấy thầy đừng lo phu tử mất chức. Thiên hạ vô đạo (loạn) đã lâu rồi, Trời sẽ dùng phu tử làm cái mõ gỗ” (để tuyên dương giáo hóa) (III.24).

Lời đó an ủi thầy trò Khổng tử rất nhiều. Danh ông đã vang, một quan nhỏ giữ biên cương còn hiểu ông thay, lẽ nào trong thiên hạ không có người dùng.

Ông lại ở nhà anh vợ Tử Lộ là Nhan Thù Do (Nhan Trọc Châu). Vệ Linh công hỏi ông ở Lỗ tước lộc được bao nhiêu, Linh công sẽ tặng ông bấy nhiêu: sáu vạn đấu lúa.
Nhưng rồi triều đình có kẻ gièm pha Khổng tử nên vua Vệ lơ là với ông, còn sai người lại nhà ông dò xét nữa. Ông ở Vệ lần đó được mười tháng.

Kế đó ông muốn sang nước Trần, nhưng mới tới thành Khuông, người thành đó vốn ghét Dương Hổ, thấy Khổng tử tưởng là Dương Hổ, bắt giam ông, muốn hãm hại ông, sau họ biết là lầm, thả ông ra. Khi bị giữ lại, ông rất bất bình bảo môn sinh: “Vua Văn vương mất rồi, lễ nhạc, chế độ của ông chẳng truyền lại cho ta sao! Trời mà muốn hủy diệt văn hóa đó thì người sau đâu thừa hưởng văn hóa đó; Trời mà chưa muốn hủy diệt văn hóa đó thì người đất Khuông làm gì được ta?” (IX.5).

Nhan Hồi lạc lại phía sau. Khi thầy trò gặp lại nhau, Khổng tử bảo: “Thầy tưởng anh đã chết rồi chứ”. Nhan Hồi đáp: “Thầy còn sống, con đâu dám chết”. (XI.22).

Ông qua đất Bồ, ở một tháng, rồi trở về Vệ. Lần nay ở nhà Cừ Bá Ngọc, một đại phu tuổi cao đức lớn mà ông rất trọng (năm 495). Bá Ngọc cũng quí ông. Coi tình bạn của hai người đó trong bài XIV.26.

Vợ Linh công là nàng Nam tử, nổi tiếng dâm đãng, mà lại rất có quyền hành, nói gì vua cũng nghe. Nàng sai người lại nói với Khổng tử rằng: “Các quân tử ở bốn phương hễ tới Vệ, muốn giao hảo với vua Vệ thì đều lại yến kiến tôi”. Khổng tử không từ chối được, đành phải lại. Nam tử ngồi phía trong, sau một tấm màn, mà tiếp ông “rất đúng lễ”.

Khi ông về, Tử Lộ tỏ vẻ bất bình, ông phải thề: “Ta có làm gì trái thì Trời bỏ ta, Trời bỏ ta!” (VI.26).

Trong vụ này tôi thấy có điều khó hiểu. Tại sao Khổng mới rời Vệ được một tháng đã quay trở về Vệ? Tại sao lần đầu Nam tử không mời ông vô thăm, mà để tới lần này mới mời? Nhất là tại sao ông phải thề độc như vậy?

Tử Lộ lẽ nào không biết đạo đức, phẩm hạnh của ông. Có bất bình thì chỉ vì ông không cương quyết từ chối, mà quá tròn như mọi chính khác khác, chứ tuyệt nhiên không thể nghi ngờ ông có hành vi gì mờ ám được, vậy thì tại sao ông phải thề độc như vậy?

Một hôm ông cùng đi chơi với Vệ Linh công. Linh công ngồi xe trước với Nam tử, do một hoạn quan đánh xe, ông ngồi xe sau, nhận thấy dân chúng chăm chú ngó nàng Nam tử, phàn nàn: “Ta chưa thấy ai hiếu đức bằng hiếu sắc” (IX.17).

Lời đó tuy nói về dân chúng nhưng cũng là ngầm trách vua Vệ. Buồn rầu ông rời Vệ. Trước sau chi ở đó hơn một tháng.

Ông qua Tào rồi sang Tống. Ở Tống ông thường họp môn sinh ở dưới gốc một cây lớn để dạy họ tập lễ. Quan tư mã Tống là Hoàn Khôi, không hiểu vì lẽ gì, muốn giết ông, cho đốn cây đó. (Sử kí chép vậy. Tôi không hiểu đốn cây thì làm sao giết ông được? Chúng ta chỉ nên hiểu rằng Hoàn Khôi tỏ ý ghét ông đến nỗi ghét luôn cái cây dưới đó ông ngồi, và cho đốn cây đó để ông hiểu mà đi đi, nếu không sẽ mất mạng). Ông hiểu ý Hoàn Khôi, nhưng cứ chầm chậm rời nước Tống, mà môn sinh thì sợ sệt, thúc ông đi gấp. Ông cũng rất bình tĩnh, tin ở số mạng mình, bảo họ: “Trời cho ta có phẩm đức, Hoàn Khôi làm gì được ta?” (VII.22)

Sau đó thầy trò phiêu bạt tới nước Trịnh ở phía Tây, lạc nhau. Trong khi ông đứng một mình ở cửa Đông, có người trong thấy, đi báo cho Tử Cống: “Ở cửa Đông, có một người tránh giống vua Nghiêu, cổ giống Cao Dao, vai giống Tử Sản, nhưng từ lưng trở xuống thì kém vua Vũ ba tấc, có vẻ băn khoăn lo lắng như con chó nhà có tang”.

Tử Cống lại cửa Đông kiếm thầy, kể lại chuyện đó. Khổng tử bảo: “Hình dáng ta người nào đó tả không biết có đúng không, nhưng bảo ta giống con chó nhà có tang thì đúng quá”. (Truyện này không thấy chép trong Luận ngữ).



ngochai

ngochai
31-05-2012, 08:33 PM
BỐN NĂM LƯU LẠC (496-492 TCN)

(tiếp theo)

Từ Trịnh Khổng tử qua Trần (Trần, Trịnh, Tống, Thái ở gần nhau) ở hơn một năm tại nhà Trịnh tử, một viên quan Tư thành (giữ thành). Lúc này, Ngô vương là Phù Sai đánh Trần. Sở vây đất Thái, vua Thái phải chạy sang Ngô. Vua Ngô đánh bại vua Việt là Câu Tiễn ở Cối Kê. Vậy là cả khu vực đó chiến tranh liên miên mà Trần luôn bị đánh bại. Vào khoảng này có hai dật sự tỏ sự hiểu biết uyên bác của Khổng tử về thời cổ và đều không thấy nhắc tới trong Luận ngữ.

Vua Trần một hôm bắt được một con chim ưng trúng tên rớt xuống. Mũi tên bằng đầu gỗ bịt đá (thời đó mũi tên bịt đồng), sai người lại hỏi Khổng tử. Khổng tử bảo con chim ưng đó từ một nơi rất xa bay lại, vì thứ tên đó của rợ Túc Thận[7] dùng. Khi vua Võ đánh chiếm được nước Ân, các rợ đều dâng vật cống. Rợ Túc Thận dâng những mũi tên đó, và vua Võ cho con gái lớn của ông làm vợ Hồ Công, người được phong ở Trần, do đó mà nước Trần có được. Cứ tìm trong kho sẽ thấy”. Vua Trần sai tìm, quả nhiên thấy trong kho.

Dật sự thứ hai: Khi Ngô vương Phù Sai đánh Việt vương, phá thành Cối Kê, tìm được một bộ xương người khổng lồ ở gần vàm sông Dương Tử, sai người lại hỏi Khổng tử. Ông bảo là bộ xương người Phòng Phong vì tới trễ hẹn, bị vua Hạ Vũ giết. Theo Pierre Đỗ Đình, trong Confucius et l’humanisme Chinois (Seuil – 1962) thì tạp chi khảo cổ Discovery (số tháng 10-1956) đăng tin người ta khai quật bốn cái răng của người vượn Bắc Kinh (Homo Pekinensis), sống cách đây khoảng nửa triệu năm và cao tới hai thước rưỡi. Bộ xương người khổng lồ Phòng Phong đó chắc là bộ xương người vượn Bắc Kinh.

Vì Tấn và Sở tranh nhau ngôi bá, đánh nhau hoài, Trần thường bị họ xâm chiếm, nên Khổng tử buồn bỏ Trần mà quay trở lại đất Bồ. Bồ đương có loạn, người Bồ giữ Khổng tử lại. Một môn đệ Khổng tử là Công Lương Nhụ, dũng mãnh và can đảm hộ tống ông bằng năm chiến xa, bảo Khổng tử: “Thật rủi! Lần trước con đưa thầy tới Khuông, chúng mình đã bị vây; lần này lại gặp nạn nữa, chúng con sẽ chiến đấu tới cùng”.
Công Lương Nhụ chiến đấu rất hăng; người Bồ sợ, phải thả Khổng tử đi, sau khi buộc ông thề không qua Vệ vì Bồ chống Vệ. Khổng tử thề, nhưng rồi cũng vẫn qua Vệ. Tử Cống hỏi ông sao không giữ lời thề. Ông đáp: “Ta bắt buộc phải thề, nên quỉ thần không nghe”. Truyện này không chép trong Luận ngữ, nhưng hợp với thái độ của Khổng tử và tính của Tử Cống rất trọng chữ tín. Ông không tin quỉ thần như người thường, cho rằng quỉ thần, nếu có, cũng chỉ như người thôi, cái gì vô lý thì không làm. Bắt ép người ta thì thần cũng như người, không chấp nhận được, vậy tất không trách ông.

Ông có thái độ “vô khả, vô bất khả” (XVIII.8). Bài IV.10 ông bảo: “Cách xử sự của người quân tử, không nhất định phải như vầy mới được, không nhất định như kia là không được, cứ hợp nghĩa (hợp lẽ phải, hợp tình, hợp lí) thì làm.

Vệ Linh công hay tin ông tới Vệ, mừng lắm, ra ngoài thành để đón, hỏi ông: - Vệ có thể đánh Bồ được không?

Ông đáp: - Được. Linh công hỏi lại: - Các quan đại phu của ta cho là không nên, nên để Bồ làm trái độn giữa Vệ và Tấn, Sở. Ông nghĩ sao?

- Đàn ông trong thành Bồ quyết tử chiến để giữ thành, đàn bà cũng một lòng chống cự. Nhưng dù sao chúng ta cũng nên trị bốn, năm tên phản loạn trong thành[8].
Linh công gật đầu nhưng rồi bỏ ý đánh Bồ. Ông lúc đó già rồi, ngại lo việc nước, mà cũng không muốn trao quyền hành cho Khổng tử. Khổng tử than: “Có ai dùng ta (cầm quốc chính) thì một năm cương kỉ đã khá, ba năm sẽ thành công” (XIII.10).

Có thể vào lúc này ông học đánh khánh và một hôm đương đánh thì có người vác sọt cỏ đi qua cửa, bảo: “Có hảo ý thay người đánh khánh đó!” Rồi người ấy lại nói: “Bỉ lậu thay, tiếng khánh lanh lảnh ấy. Người ta đã không biết mình thì thôi đi cho xong. Kinh Thi có câu: “Lội nước sâu thì để cả áo, lội nước cạn thì vén áo lên”. Khổng tử nghe được, bảo: “Ý người đó kiên quyết thật! Ta cũng chẳng cải người đó làm gì”. XIV.40).

Vậy biết Linh công không dùng ông, ông vẫn chưa nản chí, muốn tìm cơ hội khác.
Ông lại rời Vệ, lần này là lần thứ ba.

Một quan tể đất Trung Mâu của Tấn, Bật Hật (có người đọc là Phật Bật), vốn là gia thần của Phạm Trọng Hành, một đại phu của Tấn. Người cầm quyền Tấn là Triệu Giản tử, đánh Phạm Trọng Hành, Bật Hật chiếm luôn Trung Mâu, làm phản, phái người lại mời Khổng tử giúp mình. Ông định nhận lời. Tử Lộ bất bình ngăn: -Trước kia, con nghe thầy dạy “Người quân tử không vào đảng với kẻ nào đã gây điều bất thiện”. Bật Hật chiếm đất Trung Mâu làm phản mà thầy muốn qua với y thì sao phải lẽ?

Khổng tử đáp: - Đúng, ta có nói vậy. Nhưng ta chẳng từng nói rằng cái gì cứng rắn thì mài cũng không mòn sao? Ta chẳng từng nói rằng cái thì thực trắng thì nhuộm cũng không đen sao? Ta đâu phải là trái bần khô người ta treo mà không ăn được ư! (XVII.7).

Quả thực ông sốt sắng thi hành đạo quá, tới nỗi vụng tính, gặp cơ hội nào cũng muốn nắm lấy. Tử Lộ ngăn là phải. Ông đáp vậy nhưng rồi cũng nghe lời Tử Lộ mà không đi. Vậy là hai lần, Tử Lộ đã tránh cho ông khỏi phải ân hận về sau. Thực tâm yêu quí ông, theo tôi ít ai bằng Tử Lộ.

Vụ đó Lương Khải Siêu cũng cho là không đáng tin như vụ Khổng tử muốn giúp Công sơn Phất Nhiễu ở Lỗ.

Không giúp Bật Hật mà rồi ông lại tính qua Tấn để gặp Triệu Giản tử, kẻ thù của Bật Hật, thái độ ông kì thật! Nhưng khi tới bờ sông Hoàng Hà hay tin Giản tử đã giết hai quan đại phụ tài giỏi của Tấn là Đậu Minh Độc và Thuần Hoa để nắm hết chính quyền, như vậy là bất nghĩa vì Giản tử trước kia đã được hai người đó đề bạt lên, ông ngừng lại, đứng bên bờ sông than thở: “Dòng sông này đẹp thật. Nhưng số mạng đã định, không cho ta qua con sông này”.

Và ông lại quay về Vệ (lần thứ tư), ở nhà Cừ Bá Ngọc.
Có lẽ lần này Linh công hỏi ông về chiến trận (có sách cho là trong lần đầu tiên ông tới Vệ), ông đáp: - Về việc tế tự, lễ khí thì tôi đã từng được nghe, còn việc quân lữ thì tôi chưa học.

Sáng hôm sau ông rời Vệ. (XV.1).
Luận ngữ chỉ chép vậy thôi. Sử ký thêm: Hôm sau, trong khi ông hầu chuyện Linh công, Linh công ngẩng lên nhìn đàn ngỗng trời bay trên không, không để ý tới lời ông. Lúc đó Khổng tử mới quyết tâm bỏ sang Trần.

Năm 492, Khổng tử 60 tuổi, đương ở nước Trần, Lỗ Định công đã chết từ 495, bây giờ Quí Hoàn tử cũng chết. Khi sắp chết, Hoàn tử ân hận rằng trước kia mình không biết trọng dụng Khổng tử, để cho Lỗ mất cơ hội thành một nước cường thịnh, và dặn con là Quí Khang tử: “Khi cha mất rồi, con sẽ làm tướng quốc nước Lỗ, con phải vời Khổng tử về giúp nước”. Nhưng Quí Khang tử không nghe lời cha, lại mời Nhiễm Cầu về. Khổng tử bảo Nhiễm Cầu: “Lần này người ta mời anh về là muốn giao anh thực quyền chứ không phải một chức nhỏ đâu”. Rồi ông nói thêm: “Về đi thôi, về đi thôi! Môn sinh ở quê hương ta có chí lớn nhưng không thận trọng (nông nổi), có văn thái rõ ràng, nhưng không biết tự chế tài mình” (V.21).

Tử Cống hiểu ý thầy nên dặn Nhiễm Cầu khi nào cầm quyền rồi thì nên mời thầy về.


ngochai

ngochai
31-05-2012, 08:38 PM
TUYỆT LƯƠNG Ở TRẦN VÀ THÁI (491-489 TCN)

Nhiễm Cầu đi rồi, Khổng tử qua Thái. Mấy năm này thầy trò Khổng tử rất long đong, luẩn quẩn ở Trần và Thái.

Năm sau, 490, Khổng tử qua huyện Diệp, thuộc Sợ. Diệp Công [Có sách bảo Diệp là một nước, và Diệp công tức là Thẩm Chư Lương vua nước đó. Nếu là một nước thì cũng chỉ là một nước phụ dung của Sở; Chư Lương tự xưng càn là công.] hỏi ông về phép trị dân, ông đáp: “Phải làm sao cho người ở gần vui lòng và người ở xa qui phục” (XIII.16). Lần khác Diệp công bảo: “Làng tôi có một người ngay thẳng tên là Trực Cung, cha bắt trộm cừu, con đi tố cáo”. Khổng tử đáp: “Người ngay thẳng ở làng tôi khác vậy. Cha giấu tội cho con, con giấu tội cho cha, sự ngay thẳng ở trong đó” (XIII.18). Ông cho đạo cha là phải từ, đạo con là phải hiếu, con tố cáo cha là bất hiếu, trái đạo, không phải là ngay thẳng. Cha bất từ, con bất hiếu thì nước sẽ loạn.

Diệp công hỏi Tử Lộ về ông. Tử Lộ không biết đáp sao. Ông bảo: “Sao anh không đáp: ấy là người phát phẩn đọc sách đến quên ăn, khi tìm được đạo lí rồi thi vui sướng đến quên mọi lo buồn, không biết rằng cái già nó tới nơi rồi; như vậy đó” (VII.18).

Khổng tử lại trở về Thái, giữa đường gặp hai người cày ruộng, sai Tử Lộ lại hỏi bến đò ở đâu.

Tử Lộ hỏi người thứ nhất (Trường Thư), người này hỏi lại: - Người cầm cương trên xe đó là ai?

Tử Lộ đáp: - Là thầy Khổng Khâu. - Phải Khổng Khâu nước Lỗ không? - Phải. - Vậy thì ông ta biết bến đò rồi mà.

Tử Lộ hỏi người thứ nhì (Kiệt Nịch). Người này cũng hỏi lại: - Thầy là ai? Tử Lộ đáp: - Là Trọng Do. - Phải là học trò ông Khổng Khâu nước Lỗ không? - Phải. - Khắp thiên hạ đâu đâu cũng là dòng nước đục cuồn cuộn, ông Khổng Khâu sẽ cùng với ai mà sửa trị thiên hạ được? Còn thầy đi theo kẻ sĩ tránh người vô đạo (ý nói theo Khổng tử) sao bằng theo (ta là) kẻ sĩ tránh đời ô trọc?

Nói rồi lại tiếp tục bừa phủ lên cho đất bằng Tử Lộ về xe kể lại với Khổng tử. Khổng tử bùi ngùi nói: “Người ta không thể làm bạn với cầm thú; ta không sống chung với người trong xã hội này thì sống chung với ai? Nếu thiên hạ thịnh trị thì Khâu này cần gì phải sửa đổi nữa?” (XVIII.6).

Hôm khác, Tử Lộ (lạc lại phía sau) gặp một ông già quẩy cái cào cỏ ở đầu một cái gậy, Tử Lộ hỏi: - Ông có thấy thầy tôi không?
Ông già đáp: - Tay chân chẳng làm việc gì cả, không phân biệt được năm giống lúa. Ai là thầy của chú?

Nói xong ông già cắm gậy xuống đất rồi cào cỏ. Tử Lộ chắp tay đứng đợi. Cào cỏ xong, ông già đưa Tử Lộ về nhà minh nghỉ đêm, giết gà làm cơm đãi, lại cho hai người con ra chào.

Hôm sau Tử Lộ đi, gặp được Khổng tử, kể lại chuyện đó. Khổng tử bảo: “Ông già ấy là ẩn sĩ”, rồi sai Tử Lộ trở lại kiếm. Tới nơi thì ông già đi khỏi. Tử Lộ nói (với hai người con ông già): “Không ra làm quan mà ở ẩn là không hợp đạo nghĩa. Cái thứ tự giữa người lớn và kẻ nhỏ đã không bỏ được (ám chỉ việc ông lão cho hai con ra chào mình) thì sao lại bỏ nghĩa vua tôi đi? Muốn cho thân mình trong sạch mà hóa ra làm loạn cái luân thường lớn nhất. Người quân tử ra làm quan là làm nghĩa vụ của mình. Còn đạo mà không thi hành được thì đã biết vậy rồi. (XIII.7).

Hồi đó có chiến tranh giữa Ngô và Trần. Sở đem quân đến Thành Phụ để cứu Trần (489) và khi hay rằng Khổng tử ở Thái, vua Sở mời ông tới. Ông định đi, nhưng các đại phu Trần và Thái bàn với nhau: Khổng tử là người hiền, biết được lỗi các vua chúa. Ông ta ở hai nước Trần, Thái đã lâu, có vẻ không bằng lòng về hành vi của chúng ta. Nếu ông ấy gặp vua Sở, vua Sở mà dùng thì nước chúng ta khó yên, thân chúng ta cũng nguy.

Bàn với nhau như vậy rồi, họ đem quân lại vây thầy trò Khổng tử lúc đó đương ở giữa một cánh đồng, bọn ông không chạy kịp. Bị vây và tuyệt lương, nhiều môn sinh đau, liệt giường, trong khi Khổng tử vẫn thản nhiên đọc sách và gẩy đàn. Môn sinh có người bất bình, Tử Lộ uất hận lại hỏi ông: - Người quân tử cũng có khi cùng khốn ư?
Ông đáp: - Người quân tử cũng có khi cùng khốn là lẽ cố nhiên (hoặc người quân tử khốn cùng thì giữ vững chí), kẻ tiểu nhân cùng khốn thì phóng túng làm càn”. (XV.1).

Theo Tư Mã Thiên, Khổng tử thấy Tử Cống đứng ở bên có vẻ nổi nóng vì lời ông đáp Tử Lộ, nên quay lại bảo: - Tứ (tức Tử Cống) anh cho rằng ta học nhiều mà nhớ hết phải chăng?

Tử Cống đáp “vâng”. Ông nói: “Không phải vậy, ta tìm một điều căn bản mà khái quát tất cả.” (điều căn bản đó là: kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân).

Đặt chuyện đó vào đây tôi e không hợp, không liên quan gì tới cảnh tuyệt lương cả. Khổng tử chắc đã nói câu đó trong một trường hợp khác.

Biết rằng môn sinh tức tối, thất vọng lắm. Khổng tử kêu Tử Lộ lại bảo: - Kinh Thi có câu “Chẳng phải con tê ngưu, chẳng phải con hổ mà lang thang ở đồng vắng” (Ông nghĩ tới cảnh của thầy trò lúc đó). Đạo của ta sai chăng, mà sao ta phải gặp cảnh này?

Tử Lộ đáp: - Theo ý con có lẽ vì chúng ta chưa “nhân” chăng, nên người ta chưa tin chúng ta? Có lẽ chúng ta chưa “trí” chăng nên người ta không theo đạo chúng ta? (Có người hiểu là: nên người ta ngăn cản chúng ta, không cho chúng ta đi).

Khổng tử bảo: - Nào phải vậy. Này anh Do, nếu người nhân luôn luôn được người ta tin thì sao Bá Di, Thúc Tề phải chết đói trong núi? Nếu người trí được mọi người nghe thì sao Tỉ Can lại bị giết?

Tử Lộ ra, Tử Cống vào. Khổng tử lại bảo: - Này anh Tứ, Kinh Thi có câu “Chẳng phải con tê ngưu, chẳng phải con hổ mà cũng lang thang ở đồng vắng”. Đạo của ta sai chăng, mà sao ta phải gặp cảnh này?

Tử Cống đáp: - Đạo của thầy cao quá, cho nên thiên hạ không ai dung nạp được thầy. Thầy nên hạ thấp xuống một chút.

Khổng tử đáp: - Này anh Tứ, người giỏi nghề nông, vãi giống rồi nhưng không tin chắc sẽ được gặt; người thợ giỏi tuy làm khéo nhưng cũng không tin chắc là làm vừa lòng khác hàng. Người quân tử trau dồi đạo đức, theo đường chính mà giữ nó, điều chỉnh nó, nhưng không thể làm cho nó được người ta theo. Anh không lo trau dồi đạo của anh mà chỉ cầu người ta dung nạp anh. Chí của anh không xa.

Tử Cống ra, Nhan Hồi vào, Khổng tử lại hỏi như trước: - Này anh Hồi, Kinh Thi có câu “Chẳng phải con tê ngưu, chẳng phải con hổ mà cũng lang thang ở đồng vắng”. Đạo của ta sai chăng, mà sao ta phải gặp cảnh này?

Nhan Hồi đáp: - Đạo của thầy cao quá cho nên thiên hạ không ai theo được, nhưng thầy cứ theo đó mà làm. Người ta không dung nạp được thầy thì có hại gì? Chính vì người ta không dung nạp được thầy mà thầy mới là bậc quân tử. Đạo không được trau dồi, đó là điều chúng ta làm xấu hổ; đạo đã được trau dồi rồi mà người ta vẫn không dung nạp, thì đó là điều xấu hổ của kẻ làm vua. Người ta không dung nạp được thầy thì có hại gì? Chính vì người ta không dung nạp được thầy mà thầy mới là bậc quân tử.

Khổng tử hớn hở, bảo: - Phải. Hỡi con người họ Nhan, nếu anh giàu có thì ta sẽ quản lý của cải cho.

Truyện đó không thấy chép trong Luận ngữ, nhưng có giọng văn Luận ngữ, và tả đúng tính tình của thầy trò Khổng tử. Khổng tử tuy nóng lòng giúp đời, có vài lần tỏ vẻ chán nản, nhưng lúc này, sau khi bôn ba sáu bảy năm rồi, vẫn còn tin ở sứ mạng của mình; và trong những cơn nguy cấp, ông càng phải bình tĩnh, giữ đạo, nếu không thì môn đệ của ông thoái chí hết.

Ông hỏi Tử Lộ trước, vì Tử Lộ lớn tuổi hơn cả, chỉ kém ông vài tuổi, cương trực nhất. Tử Lộ bực tức, tỏ ý không phục ông, ông lấy gương cổ nhân ra để răn.

Tử Cống con người rất thực tế, muốn ông chiều đời một chút; ông cũng đưa ra những chuyện thực tế – cày ruộng, buôn bán – ra để cho Tử Cống thấy sự lầm lẫn của mình, rồi ông rầy.

Nhan Hồi hợp ý ông nhất nên ông hỏi cuối cùng và Nhan Hồi làm cho ông hoàn toàn thỏa mãn.

Bài kết thúc bằng một lời nói đùa rất thân mật của ông. Chúng ta có thể tưởng tượng hai thầy trò nhìn nhau mà mỉm cười.

Tuy rầy Tử Cống nhưng ông vẫn biết Tử Cống có tài ăn nói, tính toán, nên sau đó sai Tử Cống qua Sở.

Vua Sở sai một đạo quân tới giải vây cho Khổng tử và thầy trò ông qua Sở. Sở Chiêu vương định tặng ông một khu đất là một trăm lí (mỗi lí gồm hai mươi lăm nhà, khoảng một trăm người – có sách nói là bảy trăm lí). Nhưng quan lệnh doãn Sở là Tử Tây cản, hỏi Chiêu Vương: - Trong số triều thần của nhà vua, có ai giỏi ngoại giao như Tử Cống không?

Chiêu Vương đáp: - Không. - Tướng quốc của nhà vua có giỏi như Nhan Hồi không? - Không. - Có ai cầm quân giỏi như Tể Dư không? - Không.

Tử Tây nói tiếp: - Nhà vua nên nhớ rằng tổ tiên nước Sở hồi xưa chỉ được phong tước tử với năm chục dặm đất (mà bây giờ thành nước lớn mạnh). Khổng Khâu chỉ muốn lập lại chế độ tam vương, làm sáng cơ nghiệp Chu công, Thiệu công, nếu ông ta thi hành được đạo của ông thì đất của nhà vua còn được vuông ngàn dặm như bây giờ đời này qua đời khác không? Xưa Văn vương ở đất Phong, Võ vương ở đất Cảo chỉ có trăm dặm đất mà rồi làm vương thiên hạ. Khổng Khâu có được một khu đất trăm dặm làm cơ sở mà lại có bọn học trò giỏi đó giúp sức thì tôi e không phải là cái phúc của Sở.

Sở vương nghĩ lại, không phong đất cho Khổng tử nữa. Mùa thu năm đó (489) Sở vương chết. Thầy trò Khổng tử lại không được dùng. Ở vào thời loạn, có tài đức quá là cái họa (việc này không chép trong Luận ngữ).

Một hôm một người cuồng ở Sở là Tiếp Dư đi ngang qua chiếc xe của Khổng tử, hát: “Phượng hoàng ơi, phượng hoàng ơi, đức sao mà suy đồi!

Việc đã qua không thể vãn hồi. Việc chưa tới còn kịp sửa đổi. Thôi đi, thôi đi, làm quan thời này chỉ nguy hiểm thôi.”

Khổng tử xuống xe, muốn nói chuyện, nhưng Tiếp Dư rảo bước, tránh mặt, Khổng tử không được gặp (XVIII.5).

Có thể vào lúc này Khổng tử chán nản muốn qua ở với các dân tộc thiểu số ở miền Đông (Cửu Di). Có người hỏi: “Các nơi đó bỉ lậu, làm sao ở được?” Ông đáp: “Người quân tử lại ở, (giáo hóa họ) thì còn gì bỉ lậu nữa?” (IX.13).

Lần khác ông bảo Tử Lộ: “Đạo của ta không thi hành được thì ta sẽ cưỡi bè, vượt biển đi nước ngoài, người theo ta có lẽ là anh Do chăng?” (V.6)

Nói vậy nhưng rồi ông cũng không đi, chỉ rời Sở, quay về Vệ. Năm này ông 63 tuổi, năm thứ năm đời Lỗ Ai công.


ngochai

ngochai
31-05-2012, 08:39 PM
LẠI LANG THANG (488-484 TCN)

Mùa hè năm 493, trong khi Khổng tử ở Trần thì Vệ Linh công chết. Bây giờ (488) ông trở về Vệ thì cháu nội Linh công, là Xuất công Triếp đã lên ngôi. Đáng lẽ ngôi vua về Khoái Quí là cha của Triếp, nhưng Khoái Quí chống mẹ là Nam Tử, có lần muốn sai người ám sát mẹ dâm loạn, việc không thành, phải trốn qua Tề. Vì vậy Nam Tử cho Triếp lên ngôi để cự lại cha. Triều đình Vệ cực đồi bại.

Khi tới Vệ, Tử Lộ hỏi Khổng tử: - Nếu vua Vệ giữ thầy lại mà nhờ thầy coi chính sự thì thầy làm việc gì trước? Khổng tử đáp: “Tất phải chính danh trước hết chăng?”. Tử Lộ nói: “Vậy ư? Lời thầy vu khoát rồi. Sao lại phải chính danh?”

Khổng tử nói: “Do, anh thật là thô thiển. Người quân tử có điều gì không biết thì không nói bậy. Nếu danh (hiệu) không chính (xác) thì lời nói không thuận lý (vì danh hiệu không hợp với thực tế); lời nói không thuận thì sự việc không thành; sự việc không thành thì lễ nhạc, chế độ không kiến lập được; lễ nhạc, chế độ phong kiến lập được thì hình phạt không trúng; hình phạt không trúng thì dân không biết đặt tay chân vào đâu (không biết làm thế nào cho phải). Cho nên người quân tử đã dùng cái danh thì tất phải nói ra được (tất phải thuận lý); đã nói điều gì tất phải làm được. Đối với lời nói, người quân tử không thể cẩu thả được” (XIII.3).

Triều đình Vệ loạn vì cha không ra cha, con không ra con, vua không ra vua, tôi không ra tôi, danh không chính là thế. Cho nên theo Khổng tử, việc đầu tiên là phải lập một công tử khác làm vua Vệ cho danh chính ngôn thuận đã rồi nước mới yên được. Có tác giả lập dị lại bảo sự chính danh Khổng tử muốn thực hành đó chỉ là việc sửa lại chính tả thời đó cho đúng!

Việc dưới đây chắc cũng xảy ra hồi đó: Nhiễm Hữu hỏi: - Thầy chúng ta có thiên vị với vua Vệ không?

Tử Cống đáp: - Ừ, tôi cũng có ý hỏi thầy về việc đó. Rồi vô hỏi Khổng tử: - Thưa thầy, Bá Di, Thúc Tề là người thế nào?

Khổng tử đáp: - Là người hiền thời xưa. Lại hỏi: - Hai ông ấy có ân hận gì không? Đáp: - Cầu nhân mà được nhân thì còn ân hận gì nữa?

Tử Cống trở ra bảo Nhiễm Hữu: - Thầy không thiên vị với vua Vệ đâu (VII.14).

Bài này hàm súc: Tử Cống không đem thẳng việc vua Vệ là Xuất Công Triếp ra hỏi Khổng tử, vì nghĩ Khổng tử lúc đó đương ở Vệ không tiện trả lời, nên mượn truyện Bá Di, Thúc Tề mà hỏi. Bá Di, Thúc Tề là hai anh em ruột con vua Cô Trúc cuối đời Ân, đầu đời Chu. Bá Di là anh cả, Thúc Tề là em út. Vua Cô Trúc yêu Thúc Tề, lập di mệnh cho Thúc Tề nối ngôi. Quốc dân theo di mệnh, lập Thúc Tề, Thúc Tề không chịu, nhường lại Bá Di cho phải lẽ. Bá Di cũng không chịu, bảo cứ theo di mệnh của cha. Không ai chịu nhận rồi cả hai trốn vào núi, quốc dân phải lập người con giữa.

Hai ông ấy coi nghĩa trọng hơn ngôi vua, trái hẳn với Xuất công Triếp. Khổng tử khen họ, tức là chê vua Vệ rồi, cho nên Tử Cống biết Khổng tử không thiên vị với vua Vệ.

Vậy là Khổng tử không tham chính ở Vệ. Ông có cảm tình với nước đó, một phần vì Vệ là nước anh em của Lỗ, một phần vì có bạn thân của ông là Cừ Bá Ngọc, nhưng trước sau năm lần tới Vệ rồi lại bỏ đi, mặc dầu có một số môn sinh giúp Vệ. Trong ba bốn năm sau không thấy nói gì về ông cả – Hình như bà Khổng mất năm 485.

Năm sau, 484, Nhiễm Cầu tham chính ở Lỗ đã được sáu bảy năm, cầm quân đánh Tề, khải hoàn. Quí Khang tử khen và hỏi học ai mà giỏi về chiến trận vậy. Nhiễm Cầu đáp là học Khổng tử.

Quí Khang tử lại hỏi Khổng tử là người ra sao? Nhiễm Cầu bảo: - Đạo của thầy tôi là làm lợi cho dân, lập lại thể chế, lễ nghi, xã hội sẽ có trật tự. Dù giao cho thầy tôi trị một nước (25.000 nhà) thầy tôi cũng không mưu lợi cho mình.

Quí Khang tử hỏi: - Ta có thể gọi ông ấy tới triều được không? - Không, không thể coi thầy tôi như người thường được.

Đối thoại đó không thấy chép trong Luận ngữ.

Quí Khang tử bèn sai người mang lễ vật đi mời Khổng tử về Lỗ. Ông về, sau 13 năm (496-484) bôn ba trong khu lưu vực sông Hoàng Hà, sông Hoài, gần tới sông Dương Tử, năm lần ở Vệ, mấy lần ở Trần, Thái, một lần ở Trịnh, Tống, Tào, Sở. Mười ba năm biết bao vất vả mà không được việc gì.


ngochai

ngochai
31-05-2012, 08:43 PM
VỀ LỖ – NHỮNG NĂM CUỐI (484-479 TCN)

Năm 484 ông đã 69 tuổi, tuổi “tòng tâm sở dục, bất dụ củ” rồi (II.4). Cả Lỗ Ai công lẫn Quí Khang tử đều không mời ông tham chính, chỉ dùng ông làm cố vấn thôi. Mà có lẽ chính ông cũng không muốn tham chính, để cho các học trò ông: Nhiễm Cầu, Tử Lộ giúp triều đình, ông đứng ngoài cử chính họ. Như vậy cũng là tham chính.

Có lần, một người đã hỏi ông sao không ra làm quan, ông đáp: “Kinh Thư có câu: Hiếu thuận a, hiếu thuận với cha mẹ; thân ái a, thân ái với anh em. Thi hành câu đó mà cảm hóa được hạng người cầm quyền thì cũng là tòng chính sao cứ phải tham gia chính sự mới là tòng chính?” (II.21).

Lỗ Ai công hỏi ông một lần về cách làm sao cho dân phục tòng. Ông đáp: “Đề cử người ngay thẳng lên trên hạng người cong queo thì dân phục tòng” (II.19).
Quí Khang tử cũng hỏi về vấn đề đó: - Muốn cho dân cung kính, trung thành và khuyên nhau làm điều thiện thì làm cách nào?

Ông đáp: - Xử với dân nghiệm trang thì dân cung kính. Hiếu thuận (với cha mẹ, người trên), từ ái (với người dưới) thì dân trung thành. Cất nhắc người tốt, dạy dỗ người không tốt thì dân khuyên nhau làm điều thiện” (II.20).

Lần khác, Quí Khang tử hỏi về chính trị, ông đáp: - Chính trị là chính đính (chính giả, chính dã). Ông lãnh đạo dân mà chính đính thì ai dám không chính đính? (XII.17).
Lần khác nữa, Quí Khang tử lo nạn trộm cướp. Ông bảo: “Nếu ông không có lòng tham, dù thường cho họ, họ cũng không trộm cướp” (XII.18).

Quí Khang tử muốn giết kẻ vô đạo để cho người khác thành hữu đạo (lương thiện). Ông khuyên: “Trị dân cần gì phải dùng biện pháp giết người? Ông muốn thiện thì dân sẽ hóa thiện. Đức hạnh của người quân tử (người trị dân) như gió mà đức hạnh của tiểu nhân (dân) như cỏ. Gió thổi thì cỏ tất rạp xuống”.

Một lần, không đợi hỏi, ông tự hào vào đưa ý kiến với Ai công, nhân vụ một đại phu nước Tề là Trần Thành tử giết vua là Giản công. Hay tin, ông tắm gọi rồi vào triều tâu với Ai công: - Trần Hằng (tức Trần Thành tử) giết vua, xin xuất binh hỏi tội hắn.
Ai công bảo: - Việc đó ông nên nói với ba nhà (tức ba quyền thần: Quí tôn, Mạnh tôn, Thúc tôn).

Khổng tử đi ra nói: “Vì tôi sau hàng đại phu – ông lúc đó không làm quan nhưng xưa đã làm đại phu ở Lỗ nên vẫn giữ cái danh đại phu – nên không dám không báo cáo việc ấy”.

Chuyện đó theo tôi hơi khó hiểu. Ghét tội thí quân là phải, nhưng việc xảy ra ở nước khác, phải thận trọng lắm, xét nguyên do ra sao, dân ý nước đó ra sao, rồi mới quyết đoán nên can thiệp hay không, can thiệp cách nào chứ đâu lại xuất binh dễ dàng như ông đề nghị được. Mà sao ông phải hai lần tự biện họ: “Vì tôi sau hàng đại phu, nên không dám không báo cáo việc ấy”?

Mặt khác, ông theo dõi hành động của các môn đệ, rầy họ khi họ có lỗi. Nhiễm Cầu làm gia thần cho Quí Khang tử, họ Quí đã có hai phần tư nước Lỗ, giàu hơn Chu công nhiều, mà Nhiễm Cầu thu thuế còn bóp chẹn dân, làm giàu thêm cho chủ, Khổng tử bảo: - Nó không phải là học trò của ta nữa, các con nên nổi trống (hoặc hùa nhau) mà công kích nó đi” (XI.16).

Lần khác, ông mắng thẳng vào mặt Nhiễm Cầu và Tử Lộ, khi họ báo tin Quí Khang Tử sắp đánh Chuyên Du, một nước nhỏ phụ dung vào Lỗ.

Ông bảo: - Cầu, đó không phải là lời của anh chăng? Nước Chuyên Du, tiên vương (nhà Chu) đã cho làm chủ tể ở núi Đông Mông mà lại ở trong khu vực nước nhà (Lỗ), vậy là bề tôi của xã tắc, sao đem quân đánh người ta?

Nhiễm Cầu thưa: - Thầy Quí muốn vậy chứ hai chúng con là gia thần không muốn. Ông mắng: - Sử thần Chu Nhâm hồi xưa bảo: “Tận lực làm chức vụ mình, nếu không được thì nên từ chối đi. Nước nguy biến mà không biết bảo vệ, nước nghiêng ngả mà không biết chống đỡ thì dùng mình để giúp đỡ làm gì?” Vả lại anh nói bậy rồi. (Thử hỏi) con hổ, con trâu rừng (hoặc con tê ngưu) xổ cũi, mai rùa và ngọc quí bể nát trong rương thì lỗi về ai?

Nhiễm Hữu nói: - Nước Chuyên Du đó thành quách kiên cố mà lại gần ấp Phí (của họ Quí). Nay Quí không chiếm lấy thì sẽ thành mối lo cho con cháu đời sau.

Khổng tử nói: “Này Cầu, người quân tử rất ghét kẻ viện lẽ này lẽ khác để biện họ cho lòng tham của mình. Khâu này nghe người có nước có nhà (tức ấp phong của các đại phu) không lo nghèo thiếu mà lo sự phân phối không bình quân, không lo ít dân mà lo xã tắc không yên. Phân phối quân bình thì dân không nghèo, hòa thuận thì dân sẽ không ít, xã tắc yên ổn thì chính quyền không nghiêng đổ. Như vậy mà người ở xa không phục thì sửa văn đức để người ta đến với mình, họ đến với mình rồi thì làm sao cho họ được yên ổn.

Nay anh Do (Tử Lộ) và anh Cầu giúp phu tử họ Quí, người ta ở xa không phục mà không biết làm cho người ta đến với mình, nước chia rẽ lìa tan mà không biết bảo vệ, lại tính gây chiến ở trong nước, ta e rằng mối lo của con cháu họ Quí không phải ở nước Chuyên Du đâu mà ngay ở sau bức bình phong (tức ngay trong nhà đấy”. (XVI.1- Coi thêm chú thích trong bản dịch Luận ngữ).

Đây có lẽ là bài học cuối cùng về phép trị dân ông để lại cho môn sinh và nhà cầm quyền. Nỗi bất bình của ông phát hiện ông không cần nén xuống mà cho nó bùng ra; lời ông tự nhiên mà hùng hồn, ý tứ lại thâm trâm, tôi sẽ phân tích trong một chương sau.

Con ông, Bá Ngư (tức Khổng Lí) và học trò thân nhất của ông, Nhan Hồi, chết cách nhau ít năm trong khoảng này. Có sách nói Nhan Hồi chết năm 490 hay 483, Bá Ngư năm 482 hoặc 484. Chưa có gì chắc chắn và chúng ta chỉ nên tin Luận ngữ. Bài XI.7, khi Nhan Hồi chết, cha là Nhan Lộ xin chiếc xe của Khổng tử để bán mà mua quách chôn con. Ông bảo: - Nó tài hay bất tài thì cũng chỉ là con mà thôi. Con ruột ta là Lí chết, cũng chỉ dùng quan (ở trong) mà không dùng quách (ở ngoài). Không lẽ ta đi bộ, bán xe mà mua quách cho nó (Nhan Hồi). Ta theo sau hàng đại phu, không lẽ ta đi bộ”.

Vậy là Nhan Hồi chết sau Bá Ngư. Ông rất thương tiếc, than: “Trời hại ta, trời hại ta!” (XI.8); khóc lóc thảm thiết tới nỗi môn sinh đi theo sau phải can: “Thầy bi ai thái quá”. Ông đáp: “Bi ai thái quá ư? Ta chẳng vì con người đó mà bi ai thì vì ai?” (XI.9).
Chắc ông không dạy học nữa. Một số môn sinh cũ có thể sống với ông, hoặc ở xa thì lâu lâu lại thăm ông; họ cũng đã già rồi, 50-60 tuổi cả rồi.

Ông để tâm vào việc viết sách, sắp đặt tài liệu về lễ, về sử. Theo Tư Mã Thiên, ông đề tựa Kinh Thư (chép việc từ Đường Ngu tới Tần Mục công).

Về lễ, ông phàn nàn thiếu văn kiện: “Lễ chế nhà Hạ, ta có thể nói được, nhưng nước Kỉ (là hậu duệ nhà Hạ) không đủ làm chứng; lễ chế nhà Ân ta có thể nói được, nhưng nước Tống (hậu duệ nhà Ân) không đủ làm chứng, vì văn kiện và người hiền hai nước đó không đủ. Nếu đủ thì ta có thể chứng minh lời ta nói được.” (III.9).

Ông vốn chủ trương “cái gì không biết thì bỏ trống” (Quân tử ư kì sở bất tri, cái khuyết như dã – XIII.3), vậy chắc ông không viết về lễ hai thời đại đó, nhưng ông nhận thấy nhà Chu đã châm chước lễ chế của Hạ, Ân, nên văn vẻ rực rỡ hơn nhiều (III.14), và theo ông, cứ coi đời sau chịu ảnh hưởng của đời trước và sửa đổi đời trước ra sao, thì có thể đoán được sự diễn tiến của lịch sử cả trăm đời sau: “Nhà Ân theo “lễ” của nhà Hạ, thêm bớt cái gì ta có thể biết được. Nhà Chu theo lễ của nhà Ân, thêm bới cái gì ta có thê biết được. Sau này hoặc có nhà nào nối nhà Chu, dù đến trăm đời sau cũng có thể biết được”. (II.23).

Trong chương trên chúng tôi đã đưa ký kiến các học giả này nay bác thuyết Khổng tử san định Kinh Thi, Thư, Lễ và viết phần Thập dực trong Kinh Dịch.
Có thể ông đã san định Kinh Nhạc, nhưng kinh này đã thất lạc, chỉ còn một thiên sắp chung vào Lễ Kí. Điều chắc chắn là ông có lần bàn về nhạc lí với nhạc quan nước Lỗ. Ông bảo: “Có thể biết được phép tấu nhạc: mới đầu các âm thanh phấn khởi nhiệt liệt; rồi tới lúc khai phóng thì các âm thanh thuần nhiên điều hòa, rõ ràng lại liên tục nhau, như vậy là thành khúc nhạc”. (III.23).

Và từ khi trở về Lỗ, ông mới đính chính lại nhạc, mà nhạc Nhà và Tụng được diễn tấu đúng âm luật” (IX.14).

Ngày nay chúng ta chỉ còn lại của ông Kinh Xuân Thu, một bộ sử biên niên của Lỗ từ năm thứ nhất đời Lỗ Ẩn công (tức năm thứ 49 đời Chu Bình vương) đến năm thứ 14 đời Lỗ Ai công (tức năm thứ 39 đời Chu Kính vương); trong thời gian 242 năm (722-481).


ngochai

ngochai
31-05-2012, 08:45 PM
VỀ LỖ – NHỮNG NĂM CUỐI (484-479 TCN)

(tiếp theo)


Ông chỉ có việc lấy sử của Lỗ, lựa những việc quan trọng (theo ý ông) hằng năm rồi chép lại một cách vắn tắt trong một hai câu, chẳng hạn: Tháng ba, (Lỗ) công (với) Châu Nghi Phú thề ở đất Miệt. Tháng năm, Trịnh Bá diệt người Đoàn ở đất Yển. Ngày quí mùi, lễ táng Tống Mục công. … Nạn sâu keo. Mùa hạ lụt to. Mùa đông, tháng mười, ngày sóc (mùng một) có nhật thực. …

Lời rất khô khan, đọc rất chán. Nhưng ông rất thận trọng khi hạ bút, như muốn tỏ lòng kính nể ai thì chép cả chức tước, nếu không thì chỉ ghi tên họ.

Chẳng hạn như trong câu: “Mùa thu tháng tám, ngày giáp ngọ, tên Vạn của Tống giết vua tên Tiệp và quan đại phu Cừu Mục”. Ông có ý chê Nam Cung Trường Vạn là kẻ thí chúa (vì bị chúa làm nhục), chê vua Tống không nghiêm trang, hay đùa bỡn với kẻ bề tôi (Trường Vạn) để phải chết một cách thảm khốc (hai người đó ông chỉ kể tên), và khen quan Cừu Mục trung thực, coi thường cái chết, tuy yếu đuối mà dám cầm cái hốt đánh Trường Vạn, cho nên được ông ghi cả chức tước đại phu cho.

Vua Sở và Ngô tự xưng là “vương”, nhưng ông cứ gọi là “tử”. Thiên tử nhà Chu bị chư hầu gọi tới dự hội nghị ở Tiễn Thổ, nhưng ông che giấu việc đó đi, bảo: -Thiên vương đi tuần ở Hà Dương. Ông chép sử với quan niệm đạo đức mà phải che giấu sự thực đi, như vậy, chính là áp dụng thuyết chính danh của ông.

Thiên tử chết thì chép là băng, vua chư hầu chết thì chép là hoăng, ông vua đã cướp ngôi thì chép là tồ, ông quan liêm chính chết thì chép là tốt, kẻ gian nịnh chết thì chép là tử.

Theo Tư Mã Thiên, Khổng tử để cả tâm tư vào bộ sử đó và bảo với môn sinh rằng người đời sau hiểu ông hay bắt tội ông là do bộ đó. Đời sau có người cho rằng được ông khen một tiếng thì vinh hơn là được tặng mão đẹp, mà bị ông chê một tiếng thì khổ hơn là bị búa rìu. Do đó có tiếng “búa rìu” để chỉ cái uy của dư luận. Có người còn bảo ông viết Kinh Xuân Thu mà loạn thần tặc tử sợ. Lời đó hơi quá.

Nhưng ta phải nhận rằng Trung quốc có truyền thống trọng chức vụ và đạo đức của sử gia, của gián quan, cho sử gia có quyền – ít nhất là trên lí thuyết – chép đúng sự thực, khen chê vua đương thời, cho gián quan được vạch thẳng lỗi của vua. Hạng người cương trực như vậy không phải ít trong lịch sử Trung Quốc, và nhiều người chịu chết chứ không chịu làm trái lương tâm, như trường hợp anh em một viên thái sử nước Tề dưới đây ở thời Khổng tử.

Thôi Trữ, một đại phu tể tướng nước Tề giết Tề Trang công (bài V.18 có nhắc tới vụ này). Quan thái sử Tề chép: “Thôi Trữ giết vua”, bị Thôi đem chém. Em người đó lãnh chức thái sử thay anh, cũng chép như vậy, cũng bị chém. Nước láng giềng có một người hay việc ấy, sợ sau khi hai người kia bị Thôi giết rồi, không còn ai chép sự thực nữa, bèn qua xin làm chức thái sử. Thôi Trữ thấy vậy phải than và sợ những quan thái sử.

Viết bộ Xuân Thu là Khổng tử muốn truyền tục đẹp đó cho đời sau. Từ khi đệ tử hiểu ông nhất, tức Nhan Hồi, chết rồi, ông thường buồn, phàn nàn với Tử Cống: - Không có ai hiểu ta.

Tử Cống hỏi: - Sao thầy lại than không ai biết thầy? Ông đáp: - Ta không oán trời, không trách người, học từ những việc thấp là nhân sự mà đạt lên cao tới thiên lí. Hiểu ta có lẽ chỉ có trời chăng (XIV.35)?

Ông tự so sánh với người xưa, bảo: “Không khuất chí mình, không để nhục thân mình là Bá Di, Thúc Tề chăng?”, bảo: “Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên chịu khuất chí mình, nhục thân mình, nhưng lời nói hợp nghĩa lý, hành vi đắn đo, chỉ được vậy thôi” – bảo: “Ngu Trọng, Di Dật ở ẩn, không nói gì cả, giữ thân được trong sạch, không làm quan là hợp với quyền nghi.”

Còn ông thì “Ta khác các ông ấy: chẳng có gì nhất định phải làm, chẳng có gì nhất định không nên làm” (vô khả, vô bất khả – XVIII.8). Tư Mã Thiên còn cho rằng vào thời này ông hận không làm được gì để người khác khen mình (Tật một thí nhi danh bất xưng – XV.19) cho nên mới ráng viết Kinh Xuân Thu. Chỉ là lời phỏng đoán vậy thôi, nhưng rõ ràng là tinh thần ông đã suy.

Năm 481 (năm 14 đời Lỗ Ai công), Khổng tử 71 tuổi, bọn gia thần họ Thúc bắt được một con vật lạ, mình nai, đuôi bò, có một cái sừng ở trán. Ông bảo là con kì lân, và nhớ lại hồi thân mẫu ông sắp sinh ra ông cũng mộng thấy một con kì lân. Ông buồn chán, bảo: “Chim phượng chẳng đến, bức đồ chẳng hiện trên Hoàng Hà. Ta hết hy vọng rồi” (IX.8).

Người Trung Hoa tin Phượng là một linh điểu, vua Thuấn được người ta dâng một con, rồi tới đời Văn vương có chim phượng họ ở núi Kì. Bức đồ là bức có hình bát quái, thời Phục Hi có con long mã đội nó trên lưng, hiện trên sông Hoàng Hà, nên gọi là Hà Đồ. Hai vật đó là những điềm thánh nhân xuất hiện. Khổng tử không thấy hai vật đó, cho rằng thánh vương không ra đời và đạo ông không thể nào thi hành được. Cái mộng ông nối gót Chu công thế là tiêu tan. Bộ Xuân Thu ông viết chấm dứt ở việc bắt được kì lân.

Năm sau Tử Lộ chết bất đắc kì tử ở nước Vệ trong một cuộc nổi loạn, chỉ vì thói hiếu dũng, như Khổng tử đã đoán. Chung quanh chỉ còn Tử Cống là học trò thân tín. Từ đó ông đau ốm hoài. Năm sau nữa 479, một hôm Tử Cống tới thăm, thấy ông chống gậy, dạo bước ở trước cửa. Thấy Tử Cống, ông ngẩn đầu lên bảo: - Tứ, sao anh tới trễ vậy?

Ông rớt nước mắt nói lời cuối cùng với Tử Cống: - Thiên hạ loạn từ lâu mà không thấy một ông vua nào chịu theo lời khuyên của thầy. Thầy sắp đi đây.

Bảy ngày sau ông mất ở Lỗ, vào tháng tư năm 16 đời vua Ai công, thọ 73 tuổi.
Trong Nhà giáo họ Khổng (sách đã dẫn) tôi đã chép lễ mai táng ông, lời điếu của Ai công, và sử để tang ông ba năm của môn đồ; riêng Tử Cống còn ở lại trong một căn nhà lá giữ mộ thêm ba năm nữa.

Ông chi có một người con trai, Bá Ngư, tư cách trung bình, đã chết trước, nhưng có một cháu nội có tài đức, tên cấp, tự là Tử Tư, sau này truyền được một phần đạo của ông trong cuốn Trung dung.

Đó, Tư Mã Thiên cho ta biết được bấy nhiêu về Khổng tử. Hơn hai ngàn năm nay biết bao nhiêu nhà khảo cứu về Khổng học cũng không cho ta biết được gì hơn. Những điều chúng tôi tóm tắt lại ở trên, có một số còn phải tồn nghi; những điều tin được (phần nhiều ở trong Luận ngữ) thì cũng thường không biết chắc được xảy ra trong hoàn cảnh nào, vào năm nào. Tuy nhiên nếu vì vậy mà bảo đời của Khổng tử chỉ là một “huyền thoại” (un mythe) thì cũng quá, và dù sao ông vẫn là triết gia mà chúng ta biết rõ hơn hết trong số các triết gia thời Tiên Tần và tập Xuân Thu quả là của ông viết.


ngochai