PDA

View Full Version : Thường Thức Y Học



nhan_voky
28-10-2014, 01:18 PM
Phát hiện và xử trí khi người thân đột quỵ

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Y_khoa/bt%20mch%202.jpg

Tại khoa Thần kinh Bệnh viện Chợ Rẫy, cứ 650 người nhập viện thì có 400 người bị đột quỵ. Cả nước hàng năm có khoảng 200.000 người bị tình trạng này, khoảng 50% số họ tử vong. Những bệnh nhân đột quỵ sống sót có hơn 90% mắc di chứng về vận động như liệt nửa người, giảm trí nhớ, mất khả năng đọc viết... Họ phải tập luyện để phục hồi chức năng.

Đột quỵ là nguyên nhân thứ ba gây tử vong sau bệnh lý tim mạch và ung thư. Tỷ lệ tử vong ở nước có thu nhập thấp nhiều gấp 5 lần ở nước có thu nhập cao. Đột quỵ cũng là nguyên nhân chủ yếu gây tàn phế.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Huyet_vi/Anh_Y_hoc/dot_quy.jpg

Trò chuyện tại Trung tâm truyền thông giáo dục sức khỏe TPHCM cuối tuần qua, bác sĩ Trần Thị Thu Liễu, ĐH Y dược TP HCM cho biết, đột quỵ là biến chứng xảy ra đột ngột khi sự tưới máu não bị giảm, dẫn đến phần não tương ứng bị hủy hoại. Tình trạng này có thể dẫn đến tử vong hoặc tàn phế, liệt nửa người.

Theo bác sĩ Liễu, tăng huyết áp là yếu tố quan trọng nhất gây xuất huyết não, làm tăng nguy cơ đột quỵ 4-6 lần. Đái tháo đường làm tăng nguy cơ đột quỵ 3 lần, ngoài ra còn khuếch đại các yếu tố nguy cơ khác. Nguy cơ đột quỵ tăng dần theo tuổi, nam giới có nguy cơ cao hơn nữ giới, tuy nhiên tỷ lệ tử vong ở nữ cao hơn. Lạm dụng rượu, thuốc lá, chất gây nghiện cũng làm tăng nguy cơ đột quỵ...

Tăng huyết áp là yếu tố quan trọng nhất gây xuất huyết não làm tăng nguy cơ đột quỵ 4-6 lần. Ảnh minh họa: Lê Phương. Tăng huyết áp là yếu tố quan trọng nhất gây xuất huyết não làm tăng nguy cơ đột quỵ. Ảnh minh họa: Lê Phương.

Dấu hiệu phát hiện sớm đột quỵ

Yêu cầu người bệnh cười, nói, giơ tay để nhận biết các dấu hiệu sau:

- Tê, yếu hoặc liệt mặt, tay và chân, thường bị ở một bên của cơ thể.

- Rối loạn thị giác ở một hoặc hai mắt như tối mắt, mờ mắt, nhìn đôi, mù mắt.

- Lú lẫn, rối loạn nhận thức.

- Nói khó hoặc nói ngọng.

- Đi không vững, chóng mặt, mất thăng bằng hoặc mất phối hợp vận động.

- Đau đầu dữ dội.

Xử trí khi người thân bị đột quỵ

Đột quỵ là tình trạng khẩn cấp, cần gọi cấp cứu 115.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Huyet_vi/Anh_Y_hoc/tng%20huyt%20p.jpg

Lưu ý khi sơ cứu:

- Cần để bệnh nhân nằm yên, đầu nâng cao 30 độ.

- Nới rộng quần áo, theo dõi sắc diện, nhịp thở.

- Quan sát xem bệnh nhân tỉnh hay hôn mê.

- Trấn an bệnh nhân, nhắc họ hít sâu và thở chậm.

- Nếu bệnh nhân ói mửa, cần để đầu nghiêng sang một bên, dùng tay lấy các chất ói mửa từ mũi và miệng bệnh nhân.

- Người bệnh co giật cần để nằm nghiêng, đề phòng họ cắn vào lưỡi bằng cách dùng khăn vải quấn quanh một chiếc đũa hay cán muỗng đặt giữa hai hàm răng của bệnh nhân.

- Nếu bệnh nhân hôn mê, ngừng thở phải tiến hành hô hấp nhân tạo.


Chú ý không cạo gió, không xoa bóp, không nặn chanh…

Lưu ý dự phòng đột quỵ

Nếu hạn chế được các yếu tố gây bệnh sẽ làm giảm 80% nguy cơ đột quỵ. Do đó phải điều trị tích cực những nguy cơ chính như đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh lý tim mạch, ngăn chặn sự hình thành cục máu đông.

Thay đổi lối sống, thực hiện chế độ ăn kiêng và hoạt động thể lực là biện pháp quan trọng làm giảm nguy cơ bị vữa xơ động mạch và đột quỵ não. Làm việc nhẹ nhàng, vừa sức, tránh căng thẳng.

Tăng hoạt động thể lực sẽ cải thiện tình trạng tim mạch và làm giảm các yếu tố nguy cơ tim mạch như rối loạn lipid máu, béo phì và tăng huyết áp. Do đó nên tập thể dục đều (đi bộ, chạy bộ, đạp xe, bơi lội…) 30-60 phút mỗi ngày, 4-5 lần một tuần.

Lê Phương

nhan_voky
28-10-2014, 09:18 PM
Thần kinh tọa & bệnh đau thần kinh tọa

Thần kinh tọa là dây thần kinh dài và to nhất trong cơ thể. Mỗi đốt sống chứa phần tủy ở trong cho ra một đôi dây thần kinh - một dây tiếp nhận cảm giác, một dây chỉ huy vận động cân cơ ở vùng tương ứng. Để dễ hình dung ta tưởng tượng: 7 đốt sống cổ sẽ có dây chi phối vùng cổ và tay, đốt sống vùng lưng ngực và bụng sẽ chi phối vùng lưng ngực và bụng, 5 đốt sống vùng thắt lưng chi phối vùng thắt lưng, mông và chân, hoạt động của các tạng vùng hố chậu. Như vậy dây thần kinh tọa do tủy sống thắt lưng tạo nên.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Huyet_vi/Anh_Y_hoc/chay-mau-nao-1.jpg

Đau thần kinh tọa là hội chứng đau dọc đường đi của dây thần kinh hông, thường do mang vác nặng gây lồi, thoát vị đĩa đệm hoặc trượt đốt sống. Ngoài chấn thương do mang vác, đau thần kinh tọa còn có thể do nhiễm lạnh, thận khí hư tổn hoặc bị dị tật cột sống, gai đôi gây nên. Người bệnh thường bị đau đớn kéo dài, dễ tái phát, có thể dẫn đến liệt, teo cơ và mất sức lao động.

Bệnh có thể được chữa trị bằng các phương pháp như châm cứu, tập xà đơn, hoặc dùng các bài thuốc nam... Tùy thể bệnh mà có phương thức điều trị thích hợp:

1. Châm cứu: tập trung vào các huyệt vùng thắt lưng tương ứng với các rễ thần kinh; các huyệt nằm dọc theo đường đi của dây thần kinh. Ngoài ra, có thể sử dụng thêm các huyệt tại chỗ hoặc xa nơi vùng đau với các thủ pháp khác nhau, tùy theo tính chất hàn nhiệt, trạng thái hư thực, vị trí nông sâu của từng người bệnh. Liệu trình điều trị từ 1 đến 2 tuần, giữa các liệu trình có thể nghỉ 5 đến 7 ngày.

2. Đắp chườm vùng lưng và chân đau: bằng nước ấm nóng, muối rang, lá ngải cứu hay lá cúc tần sao nóng thêm ít dấm, hoặc dán cao giảm đau.

3. Tập luyện phục hồi sinh lý cột sống và chi bị bệnh:

Phương pháp 5 điểm như sau: người bệnh nằm ngửa trên giường, dùng 5 điểm tỳ xuống mặt giường là đầu, hai khuỷu tay và hai gót chân, ưỡn cong lưng lên khỏi mặt giường. Mỗi ngày tập 1-2 lần, nâng, mỗi lần nâng hạ khoảng 50 đến 100 cái trong khoảng 15-30 phút.

Phương pháp 3 điểm: Khi tập bài 5 điểm đã quen, khối cơ lưng khỏe hơn, nên sử dụng 3 điểm: đầu và hai gót chân làm điểm tỳ và tập như trên.

Phương pháp tập xà đơn: người bệnh cần tạo một chỗ bám chắc chắn như xà đơn. Đu người và kéo xà ra sau gáy, lưng ưỡn cong. Tùy điều kiện và sức khỏe để điều chỉnh thời gian và cường độ tập phù hợp.

Một vài động tác khác như: đi thụt lùi ở đường phẳng và khiêu vũ có thể giúp tăng cường sức khối cơ cạnh sống, giảm chèn ép rễ thần kinh và phục hồi chức năng cột sống.

Cần lưu ý là người bệnh không nên bơi lội để tránh nhiễm lạnh, ẩm, ảnh hưởng xấu đến việc chữa trị.

4. Dùng thuốc: tùy thuộc vào nguyên nhân gây bệnh mà có các bài thuốc phù hợp như sau:

- Đau thần kinh tọa do sang chấn với các triệu chứng đau ngang thắt lưng, lan xuống mông hoặc sau đùi, xuống phía sau hoặc trước ngoài cẳng chân. Nên dùng bài thuốc gồm tô mộc 12 g, huyết giác 12 g, nghệ củ 8 g, ngải cứu 12 g, lá móng tay 12 g, ngưu tất 12 g, sắc uống ngày 1 thang trong 7-10 ngày. Bài thuốc nhằm hoạt huyết, tiêu ứ và giảm đau.

- Đau thần kinh tọa do lạnh: ngoài các triệu chứng đau như trên, bệnh còn đau tăng khi bị ẩm, lạnh, nếu được chườm ấm sẽ thấy dễ chịu. Nên cùng bài thuốc nam: rễ lá lốt 12 g, ráy sơn thục 12 g, cẩu tích 16 g, quế chi 8 g, ngải cứu 8 g, vỏ quýt 8 g, rễ cỏ xước 12 g, rễ cây kiến cò 8 g; sắc uống ngày 1 thang. Phương pháp này giúp khu phong tán hàn, hành khí hoạt huyết.

- Nếu ở thể mạn tính (kết hợp các nguyên nhân phong, hàn, thấp) nên dùng bài Độc hoạt tang ký sinh có tác dụng khu phong tán hàn, trừ thấp, bổ can thận và thông kinh hoạt lạc. Bài thuốc gồm độc hoạt 4 g, tang ký sinh 4 g, tế tân 2 g, tần giao 4 g, phòng phong 4 g, ngưu tất 4 g, quế tâm 2 g, đỗ trọng 8 g, đảng sâm 8 g, phục linh 8 g, cam thảo 2 g, sinh địa 12 g, bạch thược 8 g, xuyên khung 4 g, đương quy 8 g. Sắc uống ngày 1 thang, dùng từ 20 đến 50 thang. Lưu ý là uống liên tục 10 thang và nghỉ vài ngày trước khi tiếp tục.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Huyet_vi/Dong_Y/bt%20mch.jpg

Ngoài ra, đau thần kinh tọa còn có thể được điều trị bằng cách kết hợp Đông - Tây y như các thuốc giảm đau, chống viêm, vitamin (B1, B6, B12), thủy châm vào huyệt...

Những bài thuốc chữa đau thần kinh tọa Đông y quy vùng thắt lưng là phủ của thận, đau thắt lưng là thận yếu. Thận chủ cốt, nghĩa là các loại đau xương khớp đều liên quan đến thận.

Đau vùng thắt lưng là chứng bệnh thường gặp trong cuộc đời, những người trên 50 tuổi ít nhất cũng bị đau thắt lưng một đôi lần. Đau vùng thắt lưng nếu đau lan xuống mông, mặt sau đùi có thể xuống tới cổ bàn chân thì gọi là đau thần kinh tọa.

nha_que
28-10-2014, 10:41 PM
cái này rất hữu ích ạ.

doancongtu
28-02-2015, 11:29 AM
TÌM HIỂU CHỨC NĂNG CỦA MỘT SỐ CƠ QUAN TRONG CƠ THỂ

I. GAN
Gan là cơ quan lớn thứ hai trong cơ thể (sau da). Gan đóng nhiều vai trò quan trọng khác nhau trong việc bảo tồn sức khỏe của chúng ta. Tùy theo kích thước và trọng lượng của mỗi cá nhân, gan có sức nặng từ 1.100 đến 1.800 gram. Gan phụ nữ nhỏ hơn gan đàn ông. Gan nằm dưới lồng ngực phải, cách phổi bởi hoành cách mô (diaphram). Theo truyền thống, gan vẫn được chia thành 2 thùy chính (lobes), thùy phải và thùy trái, dựa theo vị trí của dây chằng liềm (falciform ligament). Dây chằng này nối liền gan với hoành cách mô và thành bụng trước. Tuy nhiên, sự phân chia này không tương ứng với cơ cấu của lá gan, nên ngày nay, người ta chia lá gan thành 8 khúc (segment) dựa vào những phân phối của mạch máu.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Huyet_vi/Anh_Y_hoc/gan%20nhiem%20mo%20.jpg

Gan được bao bọc chung quanh bởi vỏ bên ngoài chứa đựng nhiều dây thần kinh, tên là Gibson's Capsule. Với một cơ cấu và hệ mạch phức tạp, gan được xem là một cơ quan kỳ diệu (wonder organ). Tuy thế, tế bào gan không có dây thần kinh cảm giác, nên nếu bị tổn thương, bệnh thường không gây ra một triệu chứng nào cả. Chỉ trừ trong trường hợp, khi gan bị "sưng phồng" lên, vỏ Gibson sẽ bị kéo căng ra, gây ra những cơn đau "tưng tức" hoặc khó chịu ở vùng bụng trên nằm bên phải, giáp giới với lồng ngực dưới. Ðây là một số trường hợp của viêm gan cấp tính hoặc khi lá gan "sưng lớn" vì bị suy tim bên phải (right heart failure). Gan được che chở và bảo vệ bởi xương sườn, nên nếu trong trường hợp bị té ngã hoặc tai nạn, sẽ đỡ bị dập nát hơn những cơ quan khác trong bụng như tụy tạng, lá lách, v.v.

Gan là cơ quan duy nhất trong cơ thể cùng một lúc tiếp nhận máu từ 2 nguồn khác nhau: 30% từ tim và 70% từ tĩnh mạch cửa (portal vein). Máu từ tim với các dưỡng khí và nhiên liệu sẽ nuôi dưỡng các tế bào gan. Máu đến từ tĩnh mạch cửa nhận máu từ những cơ quan như bao tử (stomach), lá lách (spleen), tụy tạng (pancreas), túi mật (gallbladder), ruột non (small intestine), ruột già (colon), cũng như các cơ quan khác nhau trong bụng. Vì gan là cơ quan đầu tiên, tiếp nhận các chất dinh dưỡng và hóa tố khác nhau hấp thụ từ hệ thống tiêu hóa, gan đã trở thành "nhà máy lọc máu" chính và quan trọng nhất trong cơ thể. Thức ăn và tất cả các nhiên liệu, vì thế, sẽ phải đi qua gan trước để được thanh lọc và biến chế thành những vật liệu khác nhau. Ðây cũng là nguyên nhân chính mà ung thư từ nhiều cơ quan và bộ phận khác có thể lan sang gan một cách dễ dàng.

II. CHỨC NĂNG CỦA GAN - CHUYỂN HÓA NHIÊN LIỆU
Một trong những nhiệm vụ chính của gan là cung cấp cho cơ thể một nguồn năng lượng liên tục, ngày cũng như đêm, no cũng như đói. Thực phẩm hấp thụ từ hệ thống tiêu hóa, sẽ được gan biến chế và chuyển hóa thành nhiều thể loại rồi được dự trữ dưới nhiều hình thức khác nhau. Các nhiên liệu dự trữ này sẽ được mang ra dùng trong lúc chúng ta không ăn uống hoặc nhịn đói. Ðây là quá trình rất phức tạp và lệ thuộc vào nhiều cơ quan khác nhau như tuyến giáp trạng (thyroid glands), tuyến tụy tạng (pancreas), tuyến thượng thận (adrenal glands), cũng như hệ thống thần kinh (parasympathetic & sympathetic systems), v.v.

1) CHUYỂN HÓA CHẤT ÐƯỜNG: Ðường là nguồn năng lượng chính cho óc, hồng huyết cầu, bắp thịt và thận. Khi sự cung cấp nhiên liệu và thức ăn từ hệ thống tiêu hóa bị gián đoạn, sự sống còn của các tế bào và cơ quan kể trên sẽ hoàn toàn lệ thuộc vào gan. Trong thời gian "nhịn ăn" này, gan là cơ quan chính chế tạo và cung cấp chất đường cho cơ thể, nhất là cho óc. Khi gan bị chai, khả năng biến hóa chất đường bị tổn thương dễ đưa đến sự thăng giảm thất thường của chất đường trong máu.

Ðường trong thức ăn nằm dưới nhiều dạng khác nhau: đường đơn (monosaccharide), đường đôi (disaccharide), và tinh bột. Từ hệ thống tiêu hóa, đường đơn được hấp thụ thẳng vào máu và có thể được tiêu thụ ngay lập tức mà không cần phải biến chế hoặc thay đổi. Ðường trong đa số các loại thực phẩm và trái cây thường nằm dưới dạng đường đôi. Một trường hợp ngoại lệ là nho, một loại trái cây chứa đựng nhiều glucose (một loại đường đơn) nhất. Ðường đôi như lactose (đến từ sữa), sucrose (đến từ các loại đường mía, đường củ cải cũng như đa số các loại trái cây) cần phải được tách ra thành đường đơn trước khi được hấp thụ. Nhiều người Việt Nam, vì thiếu phân hóa tố lactase, nên không thể tiêu hóa được chất sữa (lactose intolerance). Những người này thường bị sình bụng, đau quặn bụng hoặc tiêu chảy sau mỗi lần uống sữa hoặc tiêu thụ các sản phẩm pha chế từ sữa như bơ, cheese, v.v.

Tinh bột (starch) cũng là một dạng tồn trữ chất đường trong nhiều loại thực vật khác nhau như gạo, mì, khoai, v.v. Khi chúng ta ăn cơm, tinh bột từ gạo sẽ được chuyển hóa thành nhiều đơn vị đường khác nhau. Vì thế, khi tiêu thụ thức ăn với nhiều tinh bột, chất đường trong máu của chúng ta sẽ tăng lên chậm chạp hơn, so với trường hợp nếu chúng ta uống một ly nước nho với toàn là đường đơn.

2) SẢN XUẤT VÀ CHUYỂN HÓA CHẤT ACID BÉO (Fatty Acid) và MỠ (lipids): Acid béo là một trong những nguồn năng lượng quan trọng nhất được dự trữ trong cơ thể chúng ta và cũng là thành phần cơ bản của nhiều loại mỡ (lipids) quan trọng, kể cả chất triglyceride. Các loại mỡ này có thể được so sánh như những viên gạch của một căn nhà. Vì thế, khi gan bị tổn thương, "nhà" sẽ bị rạn nứt, dễ đổ vỡ. Gan cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc tiếp thu và biến chế các chất mỡ và cholesterol đến từ thức ăn thành những chất đạm mỡ (lipoproteins). Những chất mỡ này không những chỉ là những nguồn nguyên liệu quý báu khi đói, mà còn là những thành phần cơ bản của nhiều chất hóa học và kích thích tố khác nhau. Sự điều chỉnh các chất mỡ này là một trong những yếu tố quan trọng bảo vệ cơ thể chúng ta trước nhiều bệnh tật. Chất mỡ và cholesterol được tìm thấy nhiều nhất ở các loại thịt mỡ, thịt nâu (dark meat), một số đồ biển như tôm, cua v.v.

3) BÀO CHẾ & THOÁI BIẾN CHẤT ÐẠM (Protein Synthesis & Degradation): Gan là cơ quan chính trong việc bào chế và thoái biến chất đạm. Mỗi ngày gan bào chế khoảng 12g chất albumin, một trong những chất đạm quan trọng nhất trong cơ thể. Ngoài nhiệm vụ duy trì áp suất thể tích (oncotic pressure), chất albumin này là những "xe vận tải" chuyên chở nhiều chất hóa học khác nhau. Khi gan bị chai, chất albumin giảm dần, dễ đưa đến phù thủng (edema). Ngoài ra, gan là cơ quan chính bào chế những yếu tố đông máu (clotting factors). Khi gan bị viêm lâu năm, sự đông đặc của máu trở nên khó khăn, người bệnh dễ bị chảy máu. Hơn nữa, khi thiếu chất đạm, bệnh nhân viêm gan sẽ dễ bị nhiễm trùng và các vết thương sẽ khó lành hơn.

4) THANH LỌC ÐỘC TỐ - Gan và thận là hai cơ quan chính trong cơ thể có khả năng loại bỏ các độc tố. Những độc tố dễ-tan-trong-nước (water-soluble) sẽ được loại qua thận. Những độc tố tan-trong-mỡ (lipid-soluble), sẽ được biến chế bởi những tế bào gan thành những chất kém nguy hiểm hơn, hoặc dễ hòa tan trong nước hơn. Khi gan bị chai, những độc tố sẽ ứ đọng lại trong cơ thể.

5) TỔNG HỢP CHẤT MẬT - Chất mật (bile) sau khi được chế tạo trong tế bào gan, sẽ được cô đọng và dự trữ trong túi mật. Sau mỗi bữa cơm, chất mật sẽ theo ống dẫn mật đi xuống tá tràng, trà trộn với thức ăn và giúp cơ thể nhũ hóa các chất béo. Khả năng sản xuất chất mật của người bị chai gan sẽ từ từ giảm dần gây ra trở ngại trong vấn đề hấp thụ chất mỡ và chất béo. Vì thế, họ sẽ dần dần mất ký rồi trở nên thiếu dinh dưỡng cũng như thiếu những vitamins tan-trong-mỡ như vitamin A, D, E, K. Khi thiếu vitamin K, họ sẽ dễ bị chảy máu hơn.

Tóm lại, gan đóng nhiều vai trò quan trọng trong việc bảo tồn sức khỏe của chúng ta. Gan được so sánh như người lính dũng cảm, canh gác những tiền đồn, giao tranh và phân giải tất cả các hóa tố đến từ hệ thống tiêu hóa, cũng như những cặn bã từ những hệ thống khác "lang thang" trong máu. Vì thế, một trong những nhiệm vụ chính của gan là thanh lọc độc tố. Tuy nhiên, vì không hoàn toàn là một "bộ phận siêu Việt" (super organ), gan cũng có thể bị tàn phá bởi độc tố, vi trùng, vi khuẩn và nhiều bệnh tật khác nhau. May mắn thay, với khả năng tự tái tạo, trong đa số trường hợp viêm gan kinh niên (còn được gọi là mãn tính), gan vẫn tiếp tục hoạt động một cách tương đối bình thường trong một thời gian lâu dài.

Còn nữa...

doancongtu
01-03-2015, 08:04 PM
TÌM HIỂU CHỨC NĂNG CỦA MỘT SỐ CƠ QUAN TRONG CƠ THỂ

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Huyet_vi/Anh_Y_hoc/phi.jpg

II. PHỔI

Sự diệu kỳ của phổi

Bạn có thể nhịn ăn hằng tuần không chết, nhưng hãy thử nhịn thở một phút xem! Bộ máy hô hấp phải làm việc liên tục từ khi chào đời đến lúc trút hơi cuối cùng. Từ lúc sơ sinh đến khi trưởng thành, phổi tiếp tục phát triển như cây mọc thêm cành lá.
Không tế bào nào trong cơ thể hoạt động mà không cần đến những phân tử ôxy nhỏ bé mà phổi mang đến. Là cơ quan tiếp xúc với khí trời, có rất nhiều tác nhân gây bệnh ở ngoài môi trường xâm nhập nên phổi có nhiều chức năng nhằm chống lại các nguy cơ làm tổn thương mình.

Bộ máy hô hấp bắt đầu từ mũi, qua thanh quản, khí quản rồi đến hai lá phổi. Phổi được các xương sườn, xương sống, xương ức và các gân cơ của lồng ngực che chở. Hai lá phổi được bao bọc bởi một màng mỏng. Cơ quan này chiếm gần hết lồng ngực, tuy to nhưng xốp, có trọng lượng trung bình 300-475 g. Phổi phải to hơn phổi trái; ống phế quản phổi bên phải to và dốc nên dị vật hay rơi vào đây.

Phế quản là các ống dẫn không khí lưu thông từ ngoài vào phế nang và ngược lại. Nó có hình như cành cây, chia nhánh đến các thùy phổi. Nhánh cuối cùng gọi là tiểu phế quản tận, được nối với các túi phế nang. Từ tiểu phế quản tận đến các phế nang là một đơn vị cơ bản của phổi (phải dùng kính hiển vi mới nhìn thấy được). Nó thực hiện độc lập các chức năng quan trọng nhất của bộ máy hô hấp.

Trọng lượng phổi của trẻ sơ sinh là 50-60 g và tăng 10 lần khi trưởng thành. Tổng số phế nang của trẻ sơ sinh là 30 triệu, tăng lên 10 lần khi 8 tuổi và 20-23 lần khi trưởng thành. Các nhánh phế quản lúc mới sinh còn ít, nhưng sau đó sẽ phân nhánh và tăng lên cho tới 10-17 thế hệ. Nếu phổi ngừng phát triển trong những năm đầu đời vì một lý do nào đó, trẻ sẽ mắc bệnh phổi giảm sản.

Các mao mạch ở phế nang tạo thành một mạng lưới dày đặc, làm nhiệm vụ trao đổi khí - chức năng chính của phổi. Cùng đi với mạch máu là các dây thần kinh điều khiển các cơ trơn phế quản, làm cho phế quản giãn ra hoặc co lại. Toàn bộ mặt trong các phế quản và phế nang có niêm mạc bao phủ với lớp nhung mao rất mịn luôn rung chuyển để đưa các vật lạ ra ngoài.

Ở người lớn tầm vóc trung bình, thể tích khí lưu thông là 1,2 lít/phút, trong vòng 24 tiếng đồng hồ là hơn 1.700 lít. Thể tích máu ở trong các mao mạch phế nang là 250 ml. Nhờ sự chênh áp lực của ôxy và khí CO2 mà ôxy từ phế nang được chuyển vào máu, gắn vào các hồng cầu làm cho máu động mạch có màu đỏ tươi đi nuôi cơ thể. Còn khí CO2 được chuyển ra phế nang, rồi theo các phế quản thở ra ngoài.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Huyet_vi/Anh_Y_hoc/phi%202.jpg

Người ta thường nghĩ phổi chỉ có chức năng trao đổi chất ôxy và CO2. Thực ra, mỗi tế bào phổi hoạt động như một nhà máy siêu nhỏ và đảm nhận những chức năng cực kỳ quan trọng, giúp cho cơ thể duy trì cuộc sống. Tế bào biểu mô (phủ lên toàn bộ lòng phế nang, phế quản) và tế bào nội mô (phủ lên nền mạch) như một hàng rào ngăn nước và các phân tử protein đi quá nhiều vào mô kẽ (tổ chức liên kết giữa màng phế nang và mao quản), tham gia vào quá trình chuyển hóa và tổng hợp nhiều chất quan trọng. Trong mô kẽ có các tế bào miễn dịch; chúng tăng số lượng khi có bệnh lý, tạo kháng thể giúp chống vi khuẩn và tăng sức chống đỡ của cơ thể. Xác bạch cầu cùng với xác vi khuẩn chết được bài tiết ra ngoài dưới hình thức đờm.

Do phổi được cấu tạo bởi các thùy, phân thùy riêng biệt nên khi một thùy bị viêm nhiễm, các thùy còn lại sẽ tăng công suất, bù cho các tổ chức đã bị tổn thương. Khi cơ thể suy yếu, tác nhân gây bệnh mạnh, tổn thương có thể lan tỏa ra một phổi hay cả hai phổi, gây bệnh lý rất nặng.

Mỗi người nên biết tự bảo vệ phổi của mình cũng như cộng đồng bằng cách hạn chế ô nhiễm môi trường. Khi có nghi ngờ mắc bệnh hô hấp như sốt, ho, khạc đờm, khó thở, đau ngực..., phải đến cơ sở y tế để được khám, chữa bệnh kịp thời.

TS Đào Kỳ Hưng, Sức Khỏe & Đời Sống