Hiện kết quả từ 1 tới 6 của 6

Chủ đề: Tìm hiểu về: CHIẾN TRANH VIỆT NAM...

  1. #1
    Senior Member
    Tham gia ngày
    May 2012
    Bài gửi
    270
    Thanks
    32
    Thanked 22 Times in 20 Posts

    Tìm hiểu về: CHIẾN TRANH VIỆT NAM...

    CHIẾN TRANH VIỆT NAM

    Linh hồn của cuộc chiến


    bách khoa toàn thư mở wikipedia

    chiến tranh việt nam (1955–1975) là giai đoạn thứ hai và là giai đoạn khốc liệt nhất của chiến tranh đông dương (1945–1979). đây là cuộc chiến giữa hai bên, một bên là việt nam cộng hòa ở miền nam việt nam cùng hoa kỳ và một số đồng minh khác như úc, new zealand, đại hàn, thái lan và philippines tham chiến trực tiếp; một bên là mặt trận dân tộc giải phóng miền nam tại miền nam việt nam, cùng việt nam dân chủ cộng hòa ở miền bắc việt nam do đảng lao động việt nam (tên của đảng cộng sản việt nam từ 11 tháng 2 năm 1951 đến trước ngày 20 tháng 12 năm 1976) lãnh đạo, được sự viện trợ vũ khí và chuyên gia từ các nước xã hội chủ nghĩa (cộng sản), đặc biệt là của liên xô và trung quốc. Cuộc chiến này tuy gọi là "chiến tranh việt nam" do chiến sự diễn ra chủ yếu tại việt nam, nhưng đã lan ra toàn cõi đông dương, lôi cuốn vào vòng chiến cả hai nước lân cận là lào và campuchia ở các mức độ khác nhau. Do đó cuộc chiến còn được gọi là chiến tranh đông dương lần thứ 2. Cuộc chiến này chính thức kết thúc với sự kiện 30 tháng 4, 1975, khi tổng thống dương văn minh của việt nam cộng hòa đầu hàng quân giải phóng miền nam việt nam, trao chính quyền lại cho chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền nam việt nam.

    Tên gọi

    tại việt nam, sách báo dùng tên kháng chiến chống mỹ hoặc kháng chiến chống mỹ cứu nước để chỉ cuộc chiến tranh này, cũng là để phân biệt với các cuộc kháng chiến khác đã xảy ra ở việt nam khi chống pháp, chống nhật, chống mông cổ, chống trung quốc. Một số người cảm thấy tên kháng chiến chống mỹ không trung lập do trong cuộc chiến còn có những người việt tham chiến cùng hoa kỳ; một số khác thì lại cho rằng tên chiến tranh việt nam thể hiện cách nhìn của người phương tây hơn là của người sống tại việt nam. Tuy nhiên về mặt học thuật, hiện nay các học giả và sách báo ngoài việt nam thường sử dụng tên "chiến tranh việt nam" vì tính chất quốc tế của nó.


    Táng đởm

    Tên gọi ít được sử dụng hơn là chiến tranh đông dương lần 2, được dùng để phân biệt với chiến tranh đông dương lần 1 (1945-1955), chiến tranh đông dương lần 3 (1975-1989, gồm 3 cuộc xung đột ở campuchia và biên giới phía bắc việt nam).
    Theo tài liệu của bộ quốc phòng mỹ, chiến tranh việt nam được mỹ coi là bắt đầu từ ngày 1/11/1955 khi nhóm chuyên gia hỗ trợ quân sự mỹ (u.s. Military assistance advisory group (maag)) cho việt nam được thành lập .
    Cuộc chiến này chính thức kết thúc với sự kiện 30 tháng 4, 1975, khi tổng thống dương văn minh của việt nam cộng hòa đầu hàng mặt trận dân tộc giải phóng miền nam việt nam. Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền nam việt nam, tiếp quản miền nam cho đến khi đất nước thống nhất. Nhà nước thống nhất với quốc hiệu là cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam ra đời vào năm 1976.

    Mục tiêu của các bên trong chiến tranh việt nam

    mục tiêu của các bên trong chiến tranh việt nam rất phức tạp và đa diện tùy theo lập trường của các bên, nhưng có thể rút ra một số đặc điểm sau:
    • đối với các nhà lãnh đạo của mỹ và việt nam cộng hòa thì đây là cuộc chiến tranh giữa hai hệ tư tưởng: Chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản. Chính phủ mỹ muốn ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản tại đông nam á (xem thuyết domino), và đã đứng ra cáng đáng chi phí cho cả cuộc chiến, và có giai đoạn quân đội mỹ đã trực tiếp chiến đấu trên chiến trường thay cho quân đội việt nam cộng hòa. Theo quan điểm của những người ủng hộ chính phủ hoa kỳ và việt nam cộng hoà, đây là cuộc chiến để giữ miền nam việt nam không thuộc về những người cộng sản.
    • về quan điểm của người dân và học giả hoa kỳ, có hai chiều hướng chính. Một phía tin vào chính phủ và ủng hộ cuộc chiến chống cộng của quân đội hoa kỳ. Phía kia cho rằng đây là cuộc chiến tranh xâm lược theo kiểu thực dân mới, còn việt nam cộng hòa chỉ là một dạng chính phủ bù nhìn mà hoa kỳ kế thừa từ pháp, còn chính sách chống cộng sản của chính phủ mỹ theo jonathan neale chỉ là cái cớ để phục vụ cho quyền lợi của những tập đoàn tư bản mỹ.
    • đối với các nhà lãnh đạo việt nam dân chủ cộng hòa và mặt trận dân tộc giải phóng miền nam thì đây là cuộc chiến tranh nhằm thực hiện các mục tiêu giành độc lập, thống nhất hoàn toàn cho đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, mục tiêu vẫn còn dang dở sau 9 năm kháng chiến chống pháp và can thiệp mỹ. Họ nhìn nhận cuộc chiến này là một cuộc chiến chống ngoại xâm, chống lại chủ nghĩa thực dân mới mà mỹ áp đặt tại miền nam việt nam.


    Ố la la !!!!!!!!!! ..... ??????????... !!!!!!!!.... ??????????.


    • đối với đa số người việt nam, sau 2000 năm chiến đấu chống các lực lượng ngoại xâm, người mỹ đơn giản là sự hiện diện mới nhất của ngoại bang trên đất nước việt nam. Người việt nam xem cuộc chiến chống mỹ là giai đoạn mới nhất của cuộc đấu tranh trường kỳ giành độc lập từ cuối thế kỷ 19. Những người này đã góp nên sức mạnh cho phong trào dân tộc mãnh liệt do hồ chí minh lãnh đạo. Phong trào do đảng lao động việt nam, với uy tín trong nhân dân đạt được từ việc đã tổ chức mặt trận việt minh giành độc lập cho đất nước và kiên trì chiến đấu chống thực dân pháp, và tổ chức do đảng này thành lập là mặt trận dân tộc giải phóng miền nam đi tiên phong, đã đạt được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân. Trong khi đó, việt nam cộng hòa thì ngày càng phụ thuộc vào hoa kỳ và không duy trì được vai trò độc lập của họ trong con mắt người dân (nhất là sau khi tổng thống ngô đình diệm bị sát hại trong vụ đảo chính được cho là do mỹ giật dây) – nhất là khi đa số lãnh đạo của họ là những người trong chính phủ trần trọng kim, hình thành dưới chế độ bảo hộ của phát xít nhật, hay đã từng làm việc cho quốc gia việt nam, một chính thể bị nhiều người xem là tay sai của pháp. Tiền thân của quân lực việt nam cộng hòa là quân đội quốc gia việt nam cũng được thành lập dựa trên một hiệp ước giữa quốc gia việt nam với pháp, sau đó được việt nam cộng hòa tổ chức lại theo kiểu mỹ. Ngoài những người có cảm tình với các bên tham chiến, đại đa số những người dân miền nam còn lại không quan tâm về các hệ tư tưởng chính trị, họ chỉ muốn được yên ổn để làm ăn. Theo quan điểm của nhiều sử gia, cuộc chiến này, do đó, mang tính dân tộc rất cao: Sự độc lập và thống nhất của đất nước, sự ủng hộ của đa số nhân dân đã trở thành yếu tố quyết định giúp những người cộng sản thắng lợi chứ không phải là nhờ vào hệ tư tưởng hay ưu thế quân sự.
    • trên cục diện quốc tế đây là cuộc "chiến tranh nóng" trong lòng chiến tranh lạnh đang diễn ra quyết liệt lúc đó trên thế giới. Cả liên xô và trung quốc dù có những xung đột sâu sắc với nhau vẫn cùng viện trợ cho việt nam dân chủ cộng hòa chống lại mỹ, điều họ cũng làm với khối ả rập và nhiều phong trào cánh tả ở châu phi và mỹ latinh khác.


    Cuộc chiến tranh này được nhiều người phân đoạn theo các cách khác nhau: Người mỹ thường quan niệm "chiến tranh việt nam" được tính từ khi khi họ trực tiếp tham chiến trên bộ đến khi chính quyền việt nam cộng hòa đầu hàng (từ 1965 (nhiều nguồn cho là 1964) đến 1975). Có nhiều nguồn khác lại coi cuộc chiến bắt đầu từ 1960 đến 1975, tính từ khi việt nam dân chủ cộng hòa bắt đầu công khai ủng hộ đấu tranh vũ trang tại miền nam. Nhưng quan điểm chung và chính thống hiện nay của chính phủ việt nam vẫn coi chiến tranh việt nam được tính từ 1955 đến 1975.
    Nguồn: Wikipedia
    Lần sửa cuối bởi thieugia; 25-03-2013 lúc 09:04 PM

  2. #2
    Senior Member
    Tham gia ngày
    May 2012
    Bài gửi
    270
    Thanks
    32
    Thanked 22 Times in 20 Posts
    Tổn thất nhân mạng trong Chiến tranh Việt Nam


    Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
    Chiến tranh Việt Nam đã gây ra cái chết của từ 2 đến 5 triệu người Việt (tùy từng nguồn khác nhau). Trong số các nước đồng minh của Việt Nam Cộng hòa, người Mỹ có số thương vong cao nhất với hơn 58.000 người chết và hơn 305.000 người bị thương (trong đó 153.000 bị thương nặng hoặc tàn phế). Vào khoảng từ 4.400 đến 5.000 binh sĩ Hàn Quốc bị chết; Úc có khoảng 500 chết và hơn 3.000 bị thương; New Zealand 38 chết và 187 bị thương; Thái Lan 351 chết và bị thương; còn Philippines vẫn chưa có con số thống kê cụ thể. Tổn thất trực tiếp và gián tiếp trong Chiến tranh Việt Nam được chia ra như sau:

    Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

    Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam

    Số liệu chính thức về thuơng vong của phía Việt Nam được chính thức công bố gần đây nhất là:
    • 1,1 triệu quân nhân chết; trong số đó có 300.000 quân nhân vẫn mất tích (chưa tìm được xác)
    • 600.000 quân nhân bị thương hoặc bị bệnh.
    Theo tư liệu giải mã của Chính phủ Việt Nam năm 1995 cũng như sự xác nhận của các viên chức chính phủ từng tham gia vào cuộc chiến. Trong một phim tài liệu trình chiếu trên kênh truyền hình The History Channel, có rất nhiều viên chức của Việt Nam trong các cuộc phỏng vấn đã xác nhận con số gần đây từ tài liệu giải mã, và số chiến binh tử trận của Quân đội Nhân dân Việt Nam (hay còn gọi là quân Giải phóng Miền Nam) vào khoảng 1,1 triệu, bao gồm 300.000 mất tích. Cần lưu ý, số thiệt mạng không chỉ bao gồm số thiệt mạng trong chiến đấu, mà còn bao gồm số thiệt mạng do bệnh tật, tai nạn, kiệt sức..., và cũng không chỉ gồm lính chiến đấu mà còn gồm bộ phận không tham gia chiến đấu như cán bộ dân chính, cơ sở chính trị ngầm, tổ chức dân vận...
    Quân đội Mỹ trước đây ước đoán hành động quân sự của họ đã giết chết khoảng 500.000 quân đối phương , trong lúc 400.000 bị tiêu diệt bởi các lực lượng đồng minh (900.000 tổng số). Trong các báo cáo sau trận đánh, quân đội Mỹ thường dùng tỉ lệ "1 đổi 10" (1 lính Mỹ thương vong đổi 10 lính Quân đội Nhân dân Việt Nam). Tuy nhiên, tỉ lệ này là phi lý vì nó còn vượt quá tổng quân số của QĐNDVN. Số liệu toàn cuộc chiến cho thấy thương vong của hai bên khá tương đương. Do đó, tỷ lệ này hiện nay được các nhà sử học xác định là phóng đại nhiều lần so với thực tế, cả vì vô tình lẫn cố ý, ví dụ như:
    • Để đơn vị và bản thân được khen thưởng, các sĩ quan Mỹ thường cố ý khai khống số thi thể đối phương đếm được vì dù sao cũng chẳng có ai kiểm chứng lại báo cáo của họ.
    • Khi ném bom hoặc pháo kích, nhiều thi thể không còn nguyên vẹn, thi thể của một người có thể bị tưởng là của nhiều người.
    • Mặt khác, trong nhiều trường hợp lính Mỹ còn tính luôn xác thường dân vào đối phương vì không phân biệt được.
    Các tài liệu mới do Quân đội Nhân dân Việt Nam công bố về thương vong trong các trận đánh cũng thấp hơn khá nhiều so với ước tính của Mỹ. Một số ví dụ khác về tài liệu Mỹ tịch thu được cho thấy con số thương vong thực của Quân đội Nhân dân Việt Nam thường thấp hơn tới 50% so với con số Hoa Kỳ công bố. Thực tế tổng kết số liệu toàn cuộc chiến, thương vong của hai bên khá tương đương (tuy rằng tỉ lệ chết của lính Mỹ và đồng minh thấp hơn do được hỗ trợ quân y tốt hơn).
    Một tỉ lệ khá lớn số binh sĩ thiệt mạng của Quân đội Nhân dân Việt Nam (có thể lên tới 40%) không phải trong chiến đấu mà bởi các nguyên nhân diễn ra trong hoàn cảnh chiến đấu khó khăn (như tai nạn, rắn cắn, thú dữ, bệnh tật...), đặc biệt với những đoàn quân hành quân qua những chặng đường gian khổ của Đường mòn Hồ Chí Minh. Tính trung bình, trong giai đoạn nửa đầu (trước 1968), khi quân Mỹ đánh phá ác liệt và hệ thống quân y viện chưa phổ biến, cứ 10 lính Quân đội Nhân dân Việt Nam vào Nam chiến đấu thì chỉ 5-6 người tới đích, còn lại hầu hết bị ốm hoặc tử vong dọc đường do sốt rét, rắn cắn, kiệt sức hoặc tai nạn. Hiện Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn là nghĩa trang liệt sĩ lớn nhất Việt Nam với hơn 7 vạn mộ, song cũng chỉ chiếm một phần số bộ đội hi sinh khi hành quân trên tuyến đường này.
    Trong 1,1 triệu quân nhân thiệt mạng, có khoảng 300 ngàn mất tích. Công tác tìm kiếm hài cốt liệt sĩ được tiến hành liên tục, nên đã giảm con số mất tích xuống còn khoảng 216 ngàn (năm 2012).
    Con số bị thương cũng mập mờ bởi nhiều chiến binh bị thương nhiều lần, nhiều người khác lại không bị thương mà bị mất sức chiến đấu do bệnh tật, và khó lần tìm bằng cách xem sổ sách lưu giữ, nhất là đối với lực lượng du kích ở miền Nam. Hơn nữa việc cấp cứu y tế khó khăn và thiếu thốn thuốc men cho lực lượng du kích đồng nghĩa với tỷ lệ chết của thương binh cao hơn nhiều so với của lực lượng Hoa Kỳ và đồng minh ở miền Nam (thông thường cứ 2 lính quân Giải phóng bị thương thì có 1 chết vì không đủ phương tiện cứu chữa, trong khi cứ 6 lính Mỹ và đồng minh bị thương thì mới có 1 chết do có hệ thống quân y hiện đại).

    Việt Nam Cộng hòa

    Quân lực Việt Nam Cộng hòa
    • ~250.000-316.000 tử trận hoặc mất tích
    • ~1.170.000 bị thương


    Con số 220.357 tử trận được Lewy dẫn từ tài liệu lưu trữ của Bộ quốc phòng Mỹ, tính từ năm 1965 đến năm 1974. Cộng thêm con số tử trận trong giai đoạn 1974-1975 và trước đó cho ra ước tính khoảng hơn 250.000 tử trận. Nhà sử học R.J. Rummel đưa ra con số ước tính cao nhất có thể lên tới 316.000 tử trận.
    Tổn thất dân sự
    • ~900.000 đến 4.000.000 chết: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Việt Nam đưa ra con số này vào ngày 3 tháng 4 năm 1995, hai triệu thường dân tại miền Bắc và hai triệu tại miền Nam đã chết khoảng giữa năm 1954 và 1975. Con số tổn thất dân sự của miền Bắc có thể là hậu quả của các chiến dịch không quân của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
    • ~3.000.000 ảnh hưởng bởi chất độc da cam
    • Số liệu chính thức về thuơng vong của phía Việt Nam được chính thức công bố gần đây nhất:
    - Gần 2 triệu thường dân chết;
    - Hơn 2 triệu thuờng dân mang thuơng tật suốt đời;
    - Khoảng 2 triệu người (gồm cả quân nhân) phơi nhiễm các loại hóa chất độc hại.

    Hoa Kỳ

    • 58.209 tử trận và chết vì lý do khác
    • Hơn 305.000 bị thương. Trong đó 153.303 bị thương nặng hoặc tàn phế
    • 1.948 mất tích

    Tổng thương vong của Hoa Kỳ lên tới hơn 362 ngàn lính, còn cao hơn cả tổn thất trong chiến tranh Thái Bình Dương (khoảng 354.500 lính) và thế chiến thứ nhất (khoảng 320 ngàn lính), và là số thương vong cao thứ 2 trong một cuộc chiến tranh đối với Hoa Kỳ. Tuy nhiên tỷ lệ lính Mỹ thiệt mạng được so với các cuộc chiến trước được giảm xuống khá thấp. Tại Việt Nam, lần đầu tiên Hoa Kỳ trang bị rộng rãi các phương tiện cơ giới như xe bọc thép và nhất là trực thăng. Điều này cho phép quân Mỹ khi bị thương nặng có thể được vận chuyển đến trạm phẫu thuật rất nhanh chóng (chỉ dưới 15 phút), cho phép hạn chế tỉ lệ tử vong của thương binh xuống đáng kể. Nếu như trong Thế chiến thứ hai và Chiến tranh Triều Tiên, trung bình cứ 3 lính Mỹ bị thương thì có 1 chết, thì tỉ lệ này ở Việt Nam là 6 lính Mỹ bị thương mới có 1 chết (tức giảm 1 nửa số lính thiệt mạng so với trước)

    Tổn thất đầu và cuối của Hoa Kỳ

    • Dân sự Hoa Kỳ:

    o 6 tháng 5 năm 1954 — James 'Earthquake McGoon' McGovern và phi công phụ Wallace Buford chết tại Lào (bị pháo cao xạ Việt Minh bắn rơi tại trận Điện Biên Phủ.
    • Quân sự Hoa Kỳ:
    o 12–15 tháng 5 năm 1975 — 41 quân nhân Hoa Kỳ chết và 41 quân nhân khác bị thương trong "Biến cố Mayaguez" tại "Kampuchia Dân chủ".
    Tù binh chiến tranh
    • Tù binh chiến tranh đầu tiên bị bắt



    Tù binh Mỹ bị Bắc Việt bắt sống
    o 26 tháng 12 năm 1961 - George F. Fryett là tù binh đầu tiên bị bắt và được phóng thích vào tháng 6 năm 1962.
    • Tù binh chiến tranh cuối cùng bị bắt
    o 27 tháng 1 năm 1973 - Phillip A. Kientzler là tù binh cuối cùng bị bắt và được phóng thích vào ngày 27 tháng 3 năm 1973.
    • Tù binh chiến tranh bị giữ lâu nhất
    o 8 năm, 355 ngày- Floyd James Thompson bị bắt ngày 26 tháng 3 năm 1964 và được phóng thích ngày 16 tháng 3 năm 1973. Chỉ thiếu 10 ngày là đủ 9 năm làm tù binh chiến tranh, ông bị bắt giữ làm tù binh lâu nhất trong Chiến tranh Việt Nam và là tù binh Hoa Kỳ bị bắt giữ lâu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.

    Lần sửa cuối bởi thieugia; 25-03-2013 lúc 08:54 PM

  3. #3
    Senior Member
    Tham gia ngày
    May 2012
    Bài gửi
    270
    Thanks
    32
    Thanked 22 Times in 20 Posts
    Tổn thất nhân mạng trong Chiến tranh Việt Nam


    Hàn Quốc

    5.099 tử trận
    11.232 bị thương
    4 mất tích trong chiến đấu[10]

    CHDCND Triều Tiên


    14 phi công chết, 2 cố vấn bị thương.
    Trung Quốc

    1.446 công binh bị chết[cần dẫn nguồn]

    Liên Xô

    Khoảng 6.000 quân nhân Xô Viết tham gia vào Chiến tranh Việt Nam với vai trò cố vấn kỹ thuật và huấn luyện; 16 trong số đó thiệt mạng do bệnh tật hoặc tai nạn (không có ghi nhận thiệt mạng trong chiến đấu)[cần dẫn nguồn].

    Philippines

    552 tử trận[cần dẫn nguồn]

    Thái Lan

    351 tử trận[10]
    1.358 bị thương

    Úc

    426 tử trận, 74 chết vì những nguyên nhân khác[11]
    2.940 bị thương[10]
    6 mất tích (tất cả đều đã được tìm thấy hài cốt và đưa về nước)[12]

    New Zealand

    55 tử trận + 2 dân thường
    212 bị thương[10]

    Campuchia


    Thường dân Campuchia

    70.000

    Lào

    Thường dân Lào

    ~50.000 chết

  4. #4
    Administrator
    Tham gia ngày
    Dec 2011
    Bài gửi
    2.162
    Thanks
    156
    Thanked 334 Times in 280 Posts
    Những tổn thất của nước Mỹ trong chiến tranh Việt Nam (1954-1975)


    Chủ tịch Hồ Chí Minh đang làm việc trong chiến khu

    Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam (1954 – 1975) hay còn gọi là “chiến tranh Đông Dương lần thứ hai” là sự tiếp tục và cao nhất chính sách bành trướng của đế quốc Mỹ. Chính sách này bắt đầu từ thời kì Mỹ thực hiện “học thuyết Tờ-ru-man” (1947) nhằm đảm bảo “an ninh quốc gia” và “bao vây chủ nghĩa cộng sản”. Để thực hiện âm mưu, dã tâm xâm lược của mình, đế quốc Mỹ đã sử dụng bạo lực phản cách mạng đến cao độ, tiến hành một cuộc chiến tranh lớn nhất từ sau thế chiến thứ hai. Tuy nhiên, điều mà Mỹ không bao giờ có thể ngờ tới là cuộc chiến tranh Việt Nam của chúng không những không đạt được mục đích ban đầu mà còn vấp phải những thất bại to lớn cả về sinh mạng lẫn tiền của. Vậy những tổn thất đó lớn đến mức nào và để lại những hậu quả tai hại gì cho cường quốc số 1 thế giới này?

    1. Những tổn thất về sinh mạng

    Tiến hành cuộc chiến xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ đã huy động một bộ máy chiến tranh với quy mô khổng lồ. Một lực lượng lớn gồm các nước đồng minh và phụ thuộc đã được Mỹ sử dụng cho mục đích tham chiến của mình. Trong đó có tới 5 nước tham gia trực tiếp và 29 nước tham gia gián tiếp [4; 55]. Bên cạnh đó, Mỹ đã huy động tới 6.000.000 lượt binh sĩ (riêng lính Mỹ chiếm khoảng 3 triệu người) chiếm 68% bộ binh, 60% lính thủy đánh bộ, 32% không quân chiến thuật, 50% không quân chiến lược, 40% hải quân,… chỉ để phục vụ cho riêng chiến tranh Việt Nam [6; 48].


    Phái đài bay B.52 được huy động trong chiến trường Việt Nam

    Như vậy, có thể thấy chưa bao giờ nước Mỹ sử dụng lực lượng quân đội đông và mạnh để tham chiến như trong chiến tranh Việt Nam. Tập trung cao độ nguồn nhân lực như vậy, ý đồ của Mỹ là nhanh chóng dẹp yên quân lực “cộng sản”, giành thắng lợi áp đảo. Song, trái với tham vọng đó, chiến tranh Việt Nam không những không mang lại lợi nhuận gì mà còn gây ra nỗi đau dài cho nhân dân Mỹ. Theo thú nhận chính thức của chính phủ Mỹ, con số thương vong của lính Mỹ ở Việt Nam đã cao hơn tất cả các cuộc chiến tranh trong lịch sử nước này, trừ cuộc thế chiến thứ hai. Đó thực sự là món thuế máu nặng nề đối với nhân dân Mỹ.


    Hậu quả đầu tiên là số người chết trong chiến tranh ngày một tăng. Tính chung cả cuộc chiến tranh, con số thống kê công khai cho biết từ 1961 đến 1974 có tới 57.259 người Mỹ đã chết ở Việt Nam trong đó có gần 37.000 người (64%) không quá 21 tuổi. Riêng năm 1970, gần 70% số thương vong là những lính quân dịch trẻ. [6; 98]

    Tuy nhiên, cái chết chưa phải là tất cả, chiến tranh Việt Nam còn để lại những hậu quả khôn lường cho những binh lính Mỹ sống sót trở về. Nó đã “mở ra” một thời kì “sau Việt Nam” đầy đen tối cho nước Mỹ.

    Đầu tiên có thể thấy, đi liền với chết chóc là thương vong, bệnh tật. Cũng theo con số chính thức, có 303.704 người đã bị thương trong chiến đấu. Trong số này có 153.329 người bị thương nặng phải nằm bệnh viện dài ngày còn 150.343 người mang những vết thương đã được chữa khỏi. Lầu Năm Góc cũng thừa nhận có đến 20.000 người Mỹ chắc chắn đã nhiễm chất da cam ở Việt Nam [5; 35]. Ngoài ra còn có gần 350.000 cựu binh khác (15% tổng số) bị giải ngũ một cách không vinh dự [8; 52] không được bảo đảm việc làm, không được tôn trọng và tin cậy sau khi về nước.

    Đi liền với cái chết, thương tật và những di chứng, binh lính Mỹ còn gặp phải nỗi ám ảnh mang tên “hội chứng Việt Nam”. Đó là những chấn động lớn về tâm lý và tình cảm của người Mỹ nói chung và các cựu chiến binh Mỹ nói riêng. Nó khiến cho hầu hết lính Mỹ tham chiến ở Việt Nam đều nghiện một chất gì đó ví dụ: rượu, thuốc lá,… thậm chí cả heroin. Theo số liệu thống kê có khoảng 1/5 số lính Mỹ từng tham gia chiến tranh Việt Nam trong những năm 70 đã nghiện ma túy. [3; 49]. Bên cạnh đó, những tổn thương về tâm lý ở họ còn biểu hiện rõ ràng là thường xuyên trong trạng thái lo lắng, căng thẳng. Hàng chục năm sau chiến tranh Việt Nam, những triệu chứng bệnh đó vẫn còn tồn tại. Đó là cái giá quá đắt mà nước Mỹ phải trả cho cuộc chiến “định mệnh” của chúng ở Việt Nam.

    2. Những tổn thất về tài chính và sự suy yếu về địa vị kinh tế
    Đối với bất cứ cuộc chiến tranh nào, kinh tế - tài chính bao giờ cũng là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu. Đặc biệt, “trong điều kiện bọn đế quốc tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa… khả năng đeo đuổi chiến tranh phụ thuộc phần lớn ở việc tập trung tài chính vào tay chính phủ đế quốc” [11; 84].

    Khi mới mở rộng chiến tranh xâm lược Việt Nam, các nhà thống kê tài chính của Mỹ cho rằng: tỉ lệ chi phí cho chiến tranh Việt Nam chỉ chiếm khoảng 3%. Và theo cách tính toán đó, cuộc chiến tranh Việt Nam không thấm vào đâu so với sức mạnh kinh tế vô địch của Mỹ. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh cái gọi là “cuộc chiến tranh ba phần trăm” đã gây ra cho nước Mỹ những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội gay go, phức tạp hơn tất cả những cuộc chiến tranh lớn mà Mỹ đã từng tham gia trước kia.

    Cái gay go, phức tạp ấy thể hiện rõ nét nhất qua khoản chi phí khổng lồ mà nước Mỹ phải hứng chịu. Những nguồn thông tin và cách tính khác nhau đã đưa đến những số liệu khá đa dạng cơ bản dao động từ 515 tỷ đến 1647 tỷ đôla [4; 55 - 56]. Những con số đó dù không trùng khít nhưng đã chững tỏ chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến vô cùng hao người tốn của, nó đã “rút ruột” từ ngân sách Mỹ một khoản tiền khổng lồ. Khoản tiền ấy lớn hơn bất kì cuộc chiến tranh nào trong lịch sử nước Mỹ trừ cuộc đại chiến thế giới thứ hai.

    Có thể nói chính chi phí khổng lồ trên đã làm suy yếu đế quốc Mỹ. Tham vọng ban đầu của chúng là dựa vào tiềm lực mạnh để thống trị thế giới. Tuy nhiên, chính chiến tranh Việt Nam đã làm tiêu cực hóa nền kinh tế của chúng. Bởi lẽ, để có thể nuôi dưỡng bộ máy chiến tranh, đầu tư cho các khoản chi kể cả trực tiếp lẫn gián tiếp, Mỹ đều phải “bòn rút” từ ngân khố quốc gia, “bóp nặn” từng đồng xu của nhân dân Mỹ. Đồng thời để huy động mọi nguồn lực cho chiến tranh Việt Nam, Mỹ còn buộc phải tiết giảm các khoản đầu tư chính đáng khác. Theo tính toán của Lầu Năm Góc, chi phí cho chiến tranh Việt Nam gấp 2,6 lần giá trị toàn bộ hệ thống đường sá giữa các bang Hoa Kỳ (số liệu năm 1972), gấp 2,5 lần tiền Mỹ viện trợ cho tất cả các nước kém phát triển trong 25 năm, ngốn 70% tiền chuẩn chi cho quốc phòng Mỹ từ 1967 đến 1972. [2, 798] Như vậy, có thể thấy chi phí cho chiến tranh Việt Nam là một con số “rợn người” và chính nó đã đẩy nền kinh tế Mỹ lâm vào một cuộc khủng hoảng tài chính sâu sắc.

    Biểu hiện của cuộc khủng hoảng tài chính trước hết là ngân sách. Để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh, chính phủ Johnson đã yêu cầu Quốc hội chuẩn chi ngày càng cao, nhanh chóng đạt tới rồi vượt 10% ngân sách toàn liên bang: từ 10 tỷ đô-la năm 1966 đã lên đến 26 tỷ năm 1968. [5]
    Thậm chí có năm Mỹ phải chi đến 30 tỷ đô-la (nếu chỉ tính theo các khoản chi mà Bộ Quốc phòng Mỹ phải gánh chịu) và lên tới 50 tỷ đô-la (nếu tính cả các khoản chi phí khác) để phục vụ cho cuộc chiến này. Đến năm 1967, chiến tranh Việt Nam đã ngốn của nước Mỹ trung bình 25 tỷ đô-la một năm. Khoản tiền này đã tạo ra sự thâm hụt ngân sách khổng lồ cho kinh tế Mỹ. [7; 1089]

    Tiếp đó, chiến tranh Việt Nam còn làm cho kinh tế Mỹ lâm vào cảnh lạm phát nặng nề. Trong những năm 1966 – 1969, thời kì Mỹ tăng cường chiến tranh Việt Nam, lạm phát tăng nhanh từ 2.8% lên 4.8% (1969) [4; 58 ].Các nhà sử học đã tính được rằng “lạm phát của 5 năm sau những năm 60 tăng gấp ba lần lạm phát của 5 năm đầu những năm 60” (1; 38). Nhìn chung trong suốt thời kì Mỹ tham chiến tại Việt Nam tỉ lệ lạm phát tăng mức 12,2% hàng năm . Đây được coi là nạn lạm phát lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ.

    Quy luật kinh tế dễ nhận thấy là, lạm phát cao sẽ thúc đẩy nhập siêu và nhập siêu lại gây ra lạm phát cao. Chính lạm phát và thâm hụt ngoại tệ trầm trọng, kéo dài của Mỹ đã đưa đến cuộc khủng hoảng về đồng đô-la và khủng hoảng vàng bắt đầu từ tháng 3 năm 1968. Trước tình hình này, ngày 15/08/1971, tổng thống Mỹ quyết định hủy bỏ chế độ chuyển đổi đồng đô-la với tỷ giá cố định sang thả nổi. Quyết định này đã làm sụp đổ hệ thống tiền tệ thế giới lập ra năm 1944 ở Bretton Woods. Có thể nói rằng cuộc chiến tranh Việt Nam đã “kết liễu” hệ thống tiền tệ thế giới do Mỹ thống trị gần 30 năm. [1; 35]

    Bên cạnh đó, chiến tranh Việt Nam còn làm suy giảm vị trí siêu cường Mỹ trên trường quốc tế. Nếu vào năm 1945, thế giới chỉ có một trung tâm kinh tế duy nhất đó là Mỹ (lúc đó nền kinh tế Mỹ chiếm 52% nền kinh tế thế giới lớn hơn tất cả các nước khác cộng lại) thì tới năm 1971, chính Nixon phải thừa nhận rằng, trên thế giới lúc này có tới 5 trung tâm kinh tế lớn: Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc. [1; 36]



    Như vậy, có thể thấy chiến tranh Việt Nam đã gây ra một cuộc khủng hoảng trầm trọng đối với kinh tế Mỹ. Và để cứu vớt nền kinh tế này, đế quốc Mỹ đã không ngần ngại trút “gánh nặng” lên vai nhân dân mình.

    Trước hết, để bù đắp nạn lạm phát, thâm hụt ngân sách, những người đứng đầu Nhà Trắng đã đẩy giá sinh hoạt lên cao chưa từng thấy. Từ 1966 đến 1972, giá sinh hoạt ở Mỹ tăng 32%, năm 1974, giá tiêu dùng tăng 12,2%. Riêng giá lương thực tăng 21%. Một số mặt hàng như đường và dầu tăng 400%. Các nhà kinh tế Mỹ đã chỉ ra rằng, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, kể cả thời kì sau chiến tranh Triều Tiên, chưa bao giờ giá sinh hoạt Mỹ lại tăng nhanh như giai đoạn 1960 – 1975. [11; 203].
    Shaojiazhuangzhu 韶家庄主 — 韶玉山

  5. #5
    Administrator
    Tham gia ngày
    Dec 2011
    Bài gửi
    2.162
    Thanks
    156
    Thanked 334 Times in 280 Posts
    Những tổn thất của nước Mỹ trong chiến tranh Việt Nam (1954-1975)

    Tiếp theo...

    Chủ tịch Hồ Chí Minh


    Những nạn nhân chủ yếu của nạn sinh hoạt đắt đỏ không ai khác chính giai cấp công nhân, nhân dân lao động Mỹ. Giá sinh hoạt tăng cao đã ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống hàng ngày của họ. Do vậy, tâm trạng lo lắng và thái độ bất bình ngày càng gia tăng trong nhân dân Mỹ. Và đó cũng là lí do những giai cấp, tầng lớp đáy của xã hội Mỹ đã kết hợp cuộc đấu tranh mạnh mẽ bảo vệ quyền lợi của mình với cuộc đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.

    Đồng hành với việc tăng giá sinh hoạt, giới cầm quyền Mỹ còn tìm cách cắt xén tiền lương của giai cấp công nhân song lại bắt họ đóng thuế cao hơn một cách phi lí. Tính chung, số tiền thuế mà người dân Mỹ phải đóng đã tăng 60% so với trước khi Mỹ đưa quân vào xâm lược Việt Nam. Trước tình cảnh này, báo “Tin Mỹ và thế giới” đã bình luận: “Người dân phải chịu thuế ở Mỹ đang phải chịu đựng sức ép từ tất cả mọi phía. Một đợt tăng thuế mới đang tràn qua các bang, các thành phố và các quận ở Mỹ” [11; 98].


    Như vậy, để phục vụ chiến tranh Việt Nam, đế quốc Mỹ đã ra sức bòn rút ngân sách, tạo ra tình trạng lạm phát, tăng thuế để “thò tay móc túi” nhân dân. Điều đó càng làm sâu sắc thêm mâu thuẫn gay gắt giữa chính quyền và nhân dân Mỹ. Đồng thời đó cũng là lí do làm xuất hiện các cuộc đình công của công nhân đòi tăng lương, giảm giá hàng và các quyền lợi sống còn hàng ngày khác.
    Bên cạnh đó, chiến tranh Việt Nam còn tác động tới các chính sách xã hội khác và làm rối loạn tình hình chính trị, xã hội nước Mỹ.

    Năm 1965, khi mới lên nắm quyền, chính quyền Johnson cam kết tiến hành hai cuộc chiến tranh cùng một lúc: chiến tranh Việt Nam và chiến tranh chống nghèo khó. Tuy nhiên trên thực tế, chính sách đó bị biến thành một ảo tưởng. Gánh nặng tài chính của chiến tranh đã làm cho chương trình “xã hội vĩ đại” của Johnson hiện nguyên hình là một lời hứa rỗng tuếch. Và chính sách “cả đại bác lẫn bơ” về cơ bản chỉ còn là “chính sách đại bác”.


    Phòng không của Bắc Việt sẵn sàng đáp trả mọi sự tấn công của kẻ thù

    Nếu vào năm 1964, theo số liệu chính thức của nước Mỹ có 36,4 triệu người nghèo khổ (bằng 20% dân số) thì đến năm 1968, số người nghèo đói kinh niên vẫn còn ở mức 10 – 14 triệu người [1; 393]. Quả thực, cuộc chiến tranh Việt Nam không khác gì một thanh gươm ác nghiệt đã chặt phăng cái đầu của chương trình “xã hội vĩ đại”.

    Đi liền với đói nghèo là tình trạng thất nghiệp. Thực tế đã cho thấy, Mỹ càng đẩy nhanh tốc độ chiến tranh xâm lược Việt Nam thì số người thất nghiệp càng tăng. Nếu vào tháng 9 năm 1960 cả nước Mỹ mới có 3.232 người thất nghiệp thì tới tháng 12 năm 1974, số người thất nghiệp đã lên tới 5.079 người gấp 2,3 lần. [10; 243]

    Mặc dù chính phủ Mỹ đã cố tình làm giảm ý nghĩa của sự tổn thất to lớn về tài nguyên của nước Mỹ bằng cách biện bạch trắng trợn rằng: chi phí cho chiến tranh chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tổng sản lượng quốc gia. Nhưng điều mà họ không giải thích được hoặc cố tình lảng tránh là tại sao cái “tỉ lệ nhỏ” ấy lại làm đảo lộn hoàn toàn đời sống kinh tế nước Mỹ? Tại sao nhiều chương trình trong nước của Mỹ buộc phải gác lại hoặc bị cắt xén “đến xương tủy”? Thủ đoạn biện bạch quanh có đó cuối cùng đã bị hàng triệu người Mỹ đập lại. Chẳng hạn, thượng nghị sĩ Venxo Hác-cơ tuyên bố: “Nếu nói với nhân dân Mỹ tổn phí trong cuộc chiến tranh Việt Nam không đáng kể thì là nói láo” [11; 368].


    Trả giá trên bầu trời Hà Nội


    Từ thực tế ấy, nhân dân Mỹ nhận thức rõ rằng việc chống nghèo đói, thoát khỏi cảnh bị áp bức, bóc lột nói chung không thể tách khỏi cuộc đấu tranh chống chính quyền Mỹ xâm lược Việt Nam.

    Đó là lí do tại sao phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đã trở thành khẩu hiệu đấu tranh nhằm bảo vệ sinh mạng và lợi ích trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân Mỹ. Nó giống như tiếng kèn thôi thúc, tập hợp đại đa số nhân dân Mỹ không phân biệt màu da, tôn giáo, nghề nghiệp, chính kiến, ngoài xã hội cũng như trong giới cầm quyền với nhiều hình thức đấu tranh đa dạng mà nước Mỹ chưa hề chứng kiến.
    Shaojiazhuangzhu 韶家庄主 — 韶玉山

  6. #6
    bach_djen
    Guest
    Bài tập hợp thực sự hữu ích, giúp chúng ta có cái nhìn lại lịch sử đấu tranh của dân tộc, sự khắc nghiệt của chiến tranh và cảm nhận được sự may mắn, hạnh phúc của chính mình trước những mất mát, thương đau vô cùng lớn lao mà lớp người đi trước đã phải hứng chịu.
    Cảm ơn thieugia.

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •