Trang 3/7 ĐầuĐầu 12345 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 21 tới 30 của 68

Chủ đề: Lão Tử Đạo Đức Kinh - Triết lý và Ứng dụng

  1. #21
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Lightbulb TỤC BẠC- Lão Tử Đạo Đức Kinh

    Lời bạt

    Chúng ta vẫn thấy có câu cửa miệng: “thuần phong mỹ tục”. Ở đây chúng ta thấy Lão Tử nói đến “Tục bạc”, tuy nhiên từ này mang tính triết lý nhân sinh quan sâu sắc. Chương trước Lão Tử đã nói về Thuần Phong, phần này nói về Tục, nhưng không phải “Mỹ Tục” mà là “Tục Bạc”.

    ngochai

    ---------------------------------------------------------

    Nguyên văn Hán tự

    大 道 廢 , 有 仁 義 ; 智 慧 出 , 有 大 僞 ;

    六 親 不 和 , 有 孝 慈 ; 國 家 昏 亂 , 有 忠 臣.


    Dịch Hán Việt

    Đại đạo phế, hữu nhân nghĩa; trí tuệ xuất, hữu đại ngụy;

    Lục thân bất hoà, hữu hiếu từ; quốc gia hôn loạn, hữu trung thần.

    Dịch nghĩa

    Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa; trí xảo xuất hiện rồi mới có trá ngụy;

    Gia đình (cha mẹ, anh em, vợ chồng) bất hòa rồi mới sinh ra hiếu, từ; nước nhà rối loạn mới có tôi trung.


    Luận giải

    Đạo lớn thì tự nhiên, vô tâm, coi vạn vật như nhau; nhân nghĩa thì hữu tâm yêu vạn vật mà có sự suy tính, phân biệt. Sáu chữ “đại đạo phế, hữu nhân nghĩa”, nghĩa cũng như câu: “Thất đạo nhi hậu đức, thất đức nhi nhậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  2. #22
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Lightbulb HOÀN THUẦN- Lão Tử Đạo Đức Kinh

    Lời bạt

    Phải trở về cái Thuần phác, trở về gốc của Đạo. Nhân-Nghĩa-Trí-Hiếu cần trở về cái gốc của Đạo thuần phác-Hoàn Thuần.

    ngochai
    ---------------------------------------------------------

    Nguyên văn Hán tự


    絕 聖 棄 智, 民 利 百 倍 ; 絕 仁 棄 義 民 復 孝 慈 ; 絕 巧 棄 利 , 盜 賊 無 有 .

    此 三 者 以 爲 文 不 足 , 故 令 有 所 屬 : 見 素 抱 樸 , 少 思 寡 欲 .



    Dịch Hán Việt

    Tuyệt thánh khí trí, dân lợi bách bội; tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ; tuyệt xảo khí lợi, đạo tặc vô hữu.

    Thử tam giả dĩ vi văn bất túc, cố linh hữu sở thuộc : hiện tố bão phác, thiểu tư quả dục.

    Dịch nghĩa

    Dứt thánh (thánh hiểu theo quan niệm Khổng, Mặc) bỏ trí, dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại hiếu từ; dứt (trí) xảo bỏ lợi, không có trộm giặc.

    Ba cái đó (thánh trí, nhân nghĩa, xảo lợi) vì là cái văn vẻ (trang sức bề ngoài) không đủ (để trị dân) cho nên (phải bỏ mà) khiến cho dân qui (hoặc chuyên chú) về điều này: ngoài thì biểu hiện sự mộc mạc, trong thì giữ sự chất phác, giảm tư tâm, bớt dục vọng.


    Luận giải

    Trong câu nhì, chữ văn trái với chữ phác. Bỏ ba cái “văn” đó mới chỉ là tiêu cực; phải mộc mạc, chất phác, giảm tư tâm, bớt dục mới là tích cực.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  3. #23
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Lightbulb DỊ TỤC - Lão Tử Đạo Đức Kinh

    Lời bạt

    Dứt bỏ mọi tục học. Sự khác nhau giữa con người theo tục học và bậc Chân nhân theo đạo học.

    ngochai
    ---------------------------------------------------------

    Nguyên văn Hán tự

    絕 學 無 憂 . 唯 之 與 阿 , 相 去 幾 何 ? 善 之 與 惡 , 相 去 若 何 ?

    人 之 所 畏 , 不 可 不 畏 . 荒 兮 其 未 央 哉 !

    眾 人 熙 熙 , 如 享 太 牢 , 如 春 登 臺 ; 我 獨 泊 兮 其 未 兆 , 如 嬰 兒 之 未 孩 , 儽 儽 兮 若 無 所 歸 . 眾 人 皆 有 餘 , 而 我 獨 若 遺 ; 我 愚 人 之 心 也 哉 , 沌 沌 兮 !

    俗人昭昭, 我獨昏昏; 俗人察察 , 我獨悶悶, 澹兮其若海, 飂兮若無止.

    眾人皆有以, 而我獨頑且鄙. 我獨異於人 , 而貴食母.


    Dịch Hán Việt

    Tuyệt học vô ưu. Duy chi dữ a, tương khứ kỉ hà? Thiện chi dữ ác, tương khứ nhược hà?

    Nhân chi sở úy, bất khả bất úy. Hoang hề kì vị ương tai!

    Chúng nhân hi hi, như hưởng thái lao, như xuân đăng đài; ngã độc bạc hề kì vị triệu; như anh nhi chi vị hài; luy luy hề nhược vô sở qui.

    Chúng nhân giai hữu dư, nhi ngã độc nhược di; ngã ngu nhân chi tâm dã tai, độn độn hề!

    Tục nhân chiêu chiêu, ngã độc hôn hôn; tục nhân sát sát, ngã độc muộn muộn, đạm hề kì nhược hải, liêu hề nhược vô chỉ.

    Chúng nhân giai hữu dĩ, nhi ngã độc ngoan thả bỉ. Ngã độc dị ư nhân, nhi quí thực mẫu.

    Dịch nghĩa

    Dứt học thì không lo. Dạ (giọng kính trọng) với ơi (giọng coi thường) khác nhau bao nhiêu? Thiện với ác khác nhau thế nào?

    Cái người ta sợ, ta không thể không sợ. Rộng lớn thay, không sao hết được!

    Mọi người hớn hở như hưởng bữa tiệc lớn, như mùa xuân lên đài; riêng ta điềm tĩnh, không lộ chút tình ý gì như đứa trẻ mới sinh, chưa biết cười; rũ rượi mà đi như không có nhà để về.

    Mọi người đều có thừa, riêng ta như thiếu thốn; lòng ta ngu muội, đần độn thay!

    Người đời sáng rõ, riêng ta tối tăm; người đời trong trẻo, riêng ta hỗn độn, như sóng biển nhấp nhô, như gió vèo vèo không ngừng.

    Mọi người đều có chỗ dùng, riêng ta ngoan cố mà bỉ lậu. Riêng ta khác người, mà quí mẹ nuôi muôn loài (tức Đạo).

    Luận giải

    Chương này có nhiều bản, nếu dẫn hết những chỗ khác nhau thì quá rườm.
    Bốn chữ đầu “tuyệt học vô ưu”, Trần Trụ bảo nên để ở đầu chương trên, Hồ Thích bảo nên để ở cuối chương trên. Để ở đâu cũng khó ổn.

    Rồi cả đoạn đầu, ý nghĩa cũng tối tăm, cơ hồ không liên lạc gì với đoạn dưới. “Cái người ta sợ” là cái gì? Và cái gì “rộng lớn thay”?

    Mỗi nhà ráng đưa ra một thuyết. Có người bảo là sợ cái học vì nó mênh mông, không sao hết được. Giảng như vậy thì bốn chữ “tuyệt học vô ưu” không chơi vơi nữa. Nhưng có nhà lại bảo: sợ đây là sợ để lộ cái sáng suốt, tài năng của mình ra, mà sẽ bị người đời đố kị; còn rộng lớn là cái đạo rộng lớn, người đời không sao hiểu hết được.

    Cả hai giả thuyết đó đều không dựa vào cái gì chắc chắn cả.

    Đoạn dưới tả chân dung một người đắc Đạo: cực sáng suốt thì như ngu độn.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  4. #24
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Lightbulb HƯ TÂM - Lão Tử Đạo Đức Kinh

    Lời bạt

    Phần này Lão Tử mô tả Đạo thể. Đạo là nguyên lý đầu tiên, sinh ra hết thảy, là nguyên thủy của muôn loài trong vũ trụ.

    ngochai

    ---------------------------------------------------------

    Nguyên văn Hán tự

    孔 德 之 容 , 惟 道 是 從 .

    道 之 爲 物 , 惟 恍 惟 惚 ; 惚 兮 恍 兮, 其 中 有 象 ; 恍 兮 惚 兮 , 其 中 有 物 .

    窈 兮 冥 兮, 其 中 有 精 ; 其 精 甚 眞 , 其 中 有 信 .

    自 古 及 今 , 其 名 不 去 , 以 閱 眾 甫 .

    吾 何 以 知 眾 甫 之 狀 哉 ? 以 此 .



    Dịch Hán Việt

    Khổng đức chi dung, duy đạo thị tòng.

    Đạo chi vi vật, duy hoảng duy hốt; hốt hề hoảng hề, kì trung hữu tượng; hoảng hề hốt hề, kì trung hữu vật.

    Yểu hề minh hề, kì trung hữu tinh; kì tinh thậm chân, kì trung hữu tín.

    Tự cổ cập kim, kì danh bất khứ, dĩ duyệt chúng phủ.

    Ngô hà dĩ tri chúng phủ chi trạng tai. Dĩ thử.

    Dịch nghĩa

    Những biểu hiện của Đức lớn đều tùy theo Đạo (vì đạo là bản thể của đức, đức là tác dụng của đạo).

    Đạo là cái gì chỉ mập mờ, thấp thoáng; thấp thoáng mập mờ mà bên trong có hình tượng; mập mờ, thấp thoáng mà bên trong có vật; nó thâm viễn, tối tăm mà bên trong có cái tinh túy; tinh túy đó rất xác thực, và rất đáng tin.

    Từ xưa đến nay, đạo tồn tại hoài, nó sáng tạo vạn vật.

    Chúng ta do đâu mà biết được bản nguyên của vạn vật? Do cái đó (tức Đạo).


    Luận giải

    Câu đầu, có người hiểu là: ngôn ngữ, cử động của người có Đức lớn đều tùy theo Đạo.

    Chữ tinh (kì trung hữu tinh) trong đoạn thứ nhì có thể hiểu là nguyên lí và nguyên chất của mọi vật. Chữ tín ở sau, có người dịch là hiệu năng, diệu dụng.

    Đoạn cuối: chữ danh (tên) có người cho là trỏ bản thể của đạo.

    Chương này cho ta biết thêm về đạo. Quan trọng nhất là những chữ “kì trung hữu tinh, kì tinh thậm chân, kì trung hữu tín”. Nhờ cái tinh đó mà đạo sinh ra vạn vật.

    Nhưng cái tinh đó hữu hình hay vô hình?

    Không có gì cho chúng ta biết chắc được. Có lẽ nó vừa là nguyên lí, vừa là nguyên chất.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  5. #25
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Lightbulb ÍCH KHIÊM - Lão Tử Đạo Đức Kinh

    Lời bạt

    Phần này Lão Tử luận rất hay về đức Khiêm-Nhu.

    “Đạo vốn Khiêm, Nhu, người giữ đạo cũng phải khiêm nhu: cong, queo, tức là Nhu; trũng, cũ, ít tức là Khiêm.”


    ngochai

    ---------------------------------------------------------

    Nguyên văn Hán tự

    曲 則 全 , 枉 則 直 , 窪 則 盈 , 敝 則 新 , 少 則 得 , 多 則 惑 .

    是 以 聖 人 抱 一 爲 天 下 式 .

    不 自 見 故 明 不 自 是 故 彰 ; 不 自 伐 , 故 有 功 ; 不 自 矜 故 長 .

    夫 唯 不 爭 故 天 下 莫 能 與 之 爭 .

    古 之 所 謂 曲 則 全 者 , 豈 虛 言 哉 ! 誠 全 而 歸 之 .



    Dịch Hán Việt

    Khúc tắc toàn, uổng tắc trực, oa tắc doanh, tệ tắc tân, thiểu tắc đắc, đa tắc hoặc.

    Thị dĩ thánh nhân bão nhất vi thiên hạ thức.

    Bất tự hiện cố minh bất tự thị cố chương; bất tự phạt, cố hữu công; bất tự căng cố trướng (hoặc trưởng).

    Phù duy bất tranh cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh.

    Cổ chi sở vị khúc tắc toàn giả, khởi hư ngôn tai! Thành toàn nhi qui chi.

    Dịch nghĩa

    Cong (chịu khuất) thì sẽ được bảo toàn, queo thì sẽ thẳng ra, trũng thì sẽ đầy, cũ nát thì sẽ mới, ít thì sẽ được thêm, nhiều thì sẽ hóa mê.

    Vì vậy mà thánh nhân (thánh ở đây hiểu theo quan niệm của Lão) ôm giữ lấy Đạo (nhất đây là đạo) làm phép tắc cho thiên hạ.

    Không tự biểu hiện cho nên mới sáng tỏ, không tự cho là phải cho nên mới chói lọi, không tự kể công cho nên mới có công, không tự phụ cho nên mới trường cửu (hoặc hơn người).

    Chỉ vì không tranh với ai cho nên không ai tranh giành với mình được.

    Người xưa bảo: “Cong thì sẽ được bảo toàn”, đâu phải hư ngôn! Nên chân thành giữ vẹn cái đạo mà về với nó.


    Luận giải

    Câu cuối, “Thành toàn nhi qui chi” có người dịch là:

    - Thực vẹn đủ nên theo về.

    - Nếu thành thật hoàn toàn thì ai cũng về với mình.

    - Do đó mà mình giữ được toàn vẹn.

    - Thực giữ được vẹn cái đạo chuyên đạo cũng giữ được vẹn cho mình mà mình về với đạo.

    Các nhà bình giải đều cho rằng bốn hoặc cả sáu châm ngôn trong câu đầu: khúc tắc toàn, uổng tắc trực, oa tắc doanh, tệ tắc tân, thiểu tắc đắc, đa tắc hoặc đều là thành ngữ trong dân gian đã có từ xưa. Họ bảo rằng: Lão tử thích chủ trương thuyết tương đối, nên thường nói ngược với người đời, “nhu tri kì hùng, thủ kì thư, tri kì bạch, thủ kì hắc, tri kì vinh, thủ kì nhục.”

    Ở đây cũng vậy. Người ta ai cũng muốn được toàn vẹn, thẳng, đầy, mới, có nhiều, riêng ông, cái gì người ta bỏ: cong, queo, trũng, cũ nhát, ít, thì ông lại coi trọng”.

    Đạo vốn Khiêm, Nhu, người giữ đạo cũng phải khiêm nhu: cong, queo, tức là Nhu; trũng, cũ, ít tức là Khiêm. Khiêm Nhu thắng được tự phụ cương cường. Đó là một lẽ. Còn lẽ nữa là trong vũ trụ không có cái gì bất di bất dịch, thịnh rồi suy, đầy rồi vơi, cho nên bây giờ ở vào trạng thái cong queo thì sau sẽ bảo toàn được sẽ thẳng ra; bây giờ ở vào trạng thái thấp trũng, cũ nát, ít thì sau sẽ được đầy, mới, nhiều.

    Những kinh nghiệm đó thuộc vào cái túi khôn chung của nhân loại, chẳng riêng của Trung Hoa. Lão tử chỉ có công nhấn mạnh và coi trọng nó hơn những người khác và sắp đặt thành một hệ thống mà dùng đạo, tức luật thiên nhiên làm cơ sở.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  6. #26
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Lightbulb HƯ VÔ - Lão Tử Đạo Đức Kinh

    Lời bạt

    Chương này, xét từng câu thì nghĩa dễ hiểu. Nhưng tìm liên lạc giữa các ý thì rất khó. Nhìn chung là phải học Đạo và rèn Đức thì mới là con đường đúng đắn.

    ngochai

    ---------------------------------------------------------

    Nguyên văn Hán tự

    希言自然. 故飄風不終朝, 驟雨不終日.

    孰爲此者? 天地. 天地尚不能久, 而況於人乎?

    故從事於道者, 同於道; 德者, 同於德; 失者, 同於失.

    同於道者, 道亦樂得之; 同於德者, 德亦樂得之; 同於失者, 失亦樂得之.

    信不足焉, 有不信焉.


    Dịch Hán Việt

    Hi ngôn tự nhiên. Cố phiêu phong bất chung triêu, sậu vũ bất chung nhật.

    Thục vi thử giả? Thiên địa. Thiên địa thượng bất năng cửu, nhi huống ư nhân hồ?

    Cố tòng sự ư đạo giả, đồng ư đạo; đức giả, đồng ư đức; thất giả, đồng ư thất.

    Đồng ư đạo giả, đạo diệc lạc đắc chi; đồng ư đức giả, đức diệc lạc đắc chi; đồng ư thất giả, thất diệc lạc đắc chi.

    Tín bất túc yên, hữu bất tín yên.

    Dịch nghĩa

    Ít nói thì hợp với tự nhiên (với đạo).Cho nên gió lốc không hết buổi sáng, mưa rào không suốt ngày.

    Ai làm nên những cái ấy? Trời đất. Trời đất còn không thể lâu được, huống hồ là người?

    Cho nên theo đạo thì sẽ hòa đồng với đạo; theo đức thì sẽ hòa đồng với đức; theo sự mất đạo mất đức thì sẽ là một với “mất”.

    Hòa đồng với đạo thì sẽ vui được đạo; hòa đồng với đức thì sẽ vui được đức; là một với “mất” thì sẽ vui với “mất”.

    Vua không đủ thành tín thì dân không tin.



    Luận giải

    Chữ Thất (mất) trong đoạn nhì có lẽ là chữ Thất trong chương sau: thất đạo nhi hậu đức, thất đức nhi hậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa, thất nghĩa nhi hậu lễ; và có thể hiểu là sự mất Đạo, mất Đức. Theo sự mất đạo mất đức tức là theo Nhân, Nghĩa, Lễ, theo cách trị dân của Khổng Giáo. Lão tử cho cách đó là thấp.

    Câu “đồng ư đạo giả, đạo diệc lạc đắc chi”, có thể hiểu là hòa đồng với đạo thì đạo cũng vui được ta mà hòa đồng với ta. Như vậy là nhân cách hóa đạo. Hai câu sau cũng vậy. Hiểu theo cách này với hiểu như chúng tôi đã dịch, chung qui cũng không khác nhau.

    Câu cuối, ở đây vì không chắc là nói về việc trị dân, cho nên có thể dịch là:

    - Lòng tin ở đạo không đủ, cho nên có sự không tin, - Hoặc mình không tin mình thì người không tin mình, dẫu có nói nhiều cũng vô ích; như vậy ứng với câu đầu: nên ít nói để hợp với đạo.

    Chương này, xét từng câu thì nghĩa dễ hiểu. Nhưng tìm liên lạc giữa các ý thì rất khó, mỗi người đưa ra một cách giảng; cách nào cũng không xuôi. Chẳng hạn có người giảng:

    - Người học đạo phải hòa đồng với đạo mà đạo tức thiên nhiên không nói (trời đất nói gì đâu mà mọi vật đều thành tựu), vậy ta cũng nên ít nói, đừng để “nổi” lên những cơn mưa bão trong lòng” (!). Hòa đồng với đạo thì sẽ vui được đạo; muốn vậy phải dốc lòng tin đạo.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  7. #27
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Lightbulb KHỔ ÂN - Lão Tử Đạo Đức Kinh

    Lời bạt

    Phần này Lão Tử luận hay và dễ hiểu, Quả thật không dám bình luận thêm gì cả.

    Đối với Đạo thì những thái độ đó là “những đồ ăn thừa, những cục bướu, ai cũng ghét”.


    ngochai
    ---------------------------------------------------------

    Nguyên văn Hán tự

    企 者 不 立 , 跨 者 不 行 . 自 見 者 不 明 , 自 是 者 不 彰 , 自 伐 者 不 功 , 自 誇 者 不 長 .


    其 於 道 也 曰 : 餘 食 贅 行, 物 或 惡 之 , 故 有 道 者 不 處 .

    Dịch Hán Việt

    Xí giả bất lập, khoá giả bất hành. Tự hiện giả bất minh, tự thị giả bất chương, tự phạt giả bất công, tự khoa giả bất trường.

    Kì ư đạo dã viết: dư thực chuế hành, vật hoặc ố chi, cố hữu đạo giả bất xử.

    Dịch nghĩa

    Kẻ kiễng chân không đứng được (vững), kẻ xoạc cẳng không đi được (lâu), kẻ tự biểu hiện thì không sáng tỏ, kẻ tự cho là phải thì không chói lọi, kẻ tự kể công thì không có công, kẻ tự phụ thì không trường cửu.

    Đối với Đạo thì những thái độ đó là “những đồ ăn thừa, những cục bướu, ai cũng ghét”. Cho nên kẻ theo đạo không làm như vậy.


    Luận giải

    Ý trong câu thứ nhì: “Tự hiện giả minh... tự khoa giả bất trường” đã được diễn trong chương trước.

    Câu thứ ba, nhiều nhà cho chữ hành 行 với chữ hình 形 đọc giống nhau, dùng thay cho nhau được. Ta theo chủ trương đó. Có người dịch là việc làm, chuế hành là việc làm thừa, như kiểu vẽ rắn thêm chân.

    Phần này luận hay và dễ hiểu, Quả thật không dám bình luận thêm gì cả.
    Lần sửa cuối bởi ngochai; 12-05-2012 lúc 09:03 AM
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  8. #28
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Lightbulb TƯỢNG NGUYÊN- Lão Tử Đạo Đức Kinh

    Lời bạt

    Người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên.

    ngochai
    ---------------------------------------------------------

    Nguyên văn Hán tự

    有 物 混 成 , 先 天 地 生 .

    寂 兮 , 寥 兮, 獨 立 而 不 改 , 周 行 而 不 殆 , 可 以 爲 天 地 母 .

    吾 不 知 其 名 , 字 之 曰 道 , 强 爲 之 名 曰 大 .

    大 曰 逝, 逝 曰 遠 , 遠 曰 反 .

    故 道 大 , 天 大 , 地 大 , 人 亦 大 .

    域 中 有 四 大 , 而 人 居 其 一 焉 .

    人 法 地 , 地 法 天 , 天 法 道 , 道 法 自 然 .

    Dịch Hán Việt

    Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh.

    Tịch hề, liêu hề, độc lập nhi bất cải, chu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên địa mẫu.

    Ngô bất tri kì danh, tự chi viết đạo, cưỡng vị chi danh viết đại.

    Đại viết thệ, thệ viết viễn, viễn viết phản.

    Cố đạo đại, thiên đại, địa đại, nhân diệc đại.

    Vực trung hữu tứ đại, nhi nhân cư kì nhất yên.

    Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên.

    Dịch nghĩa

    Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất.

    Nó yên lặng (vô thanh) trống không (vô hình), đứng một mình mà không thay đổi (vĩnh viễn bất biến), vận hành khắp vũ trụ mà không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ.

    Ta không biết nó là gì, tạm đặt tên nó là Đạo, miễn cưỡng gọi nó là lớn (vô cùng).

    Lớn (vô cùng) thì lưu hành (không ngừng), lưu hành (không ngừng) thì đi xa, đi xa thì trở về (qui căn).

    Cho nên đạo lớn, trời lớn, đất lớn, người cũng lớn.

    Trong vũ trụ có bốn cái lớn mà người là một.

    Người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên.


    Luận giải

    Cuối đoạn đầu, “tự chi viết đạo”, “danh chi viết đại”, có người dịch “đặt tên tự là đạo”, “gọi tên là lớn”. Dư Bồi Lâm bảo chữ danh ở đây có nghĩa là “hình dung”, như chữ dung trong “cưỡng vị chi dung” ở chương trước; vậy nên dịch là “miễn cưỡng tả nó là lớn”.

    Đoạn sau, ba chữ “nhân diệc đại”, bản cổ nhất chép là “vương (vua) diệc đại”, nhưng dù vương hay nhân, nghĩa cũng không khác: vua là chúa của loài người, đại biểu cho loài người, vậy vua lớn, tức là loài người lớn.

    Câu cuối “đạo pháp tự nhiên”, dịch sát là: đạo bắt chước tự nhiên, nhưng phải hiểu: đạo tức là tự nhiên, đạo với tự nhiên là một, vì ngoài đạo ra không có gì khác nữa.

    Đạo là tự nhiên.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  9. #29
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Lightbulb TRỌNG ĐỨC - Lão Tử Đạo Đức Kinh

    Lời bạt

    Đức của bậc Thánh nhân, bậc nhân chủ: phải giữ vững gốc Đạo, không được kiêu căng, khinh bạc, để đến nỗi lìa Đạo, hại nước, hại người, mất ngôi.

    ngochai
    ---------------------------------------------------------

    Nguyên văn Hán tự

    重 爲 輕 根 , 靜 爲 躁 君 .

    是 以 聖 人 終 日 行 不 離 輜 重 .

    雖 有 榮 觀 , 燕 處 超 然 .

    奈 何 萬 乘 之 主 , 而 以 身 輕 天 下 ?

    輕 則 失 根 , 躁 則 失 君 .



    Dịch Hán Việt

    Trọng vi khinh căn, tĩnh vi táo quân.

    Thị dĩ thánh nhân chung nhật hành bất li tri trọng.

    Tuy hữu vinh quan, yến xử siêu nhiên.

    Nại hà vạn thặng chi chủ, nhi dĩ thân khinh thiên hạ?

    Khinh tắc thất căn, táo tắc thất quân.

    Dịch nghĩa

    Nặng là gốc rễ của nhẹ, tĩnh là chủ của náo động.

    Cho nên thánh nhân (tức vua) suốt ngày đi không lìa xe chở đồ dùng (nặng) tuy được sự sang đẹp mà lòng nhàn tĩnh vượt lên cả (coi thường ngoại vật).

    Ông vua một nước có vạn cỗ xe (một nước lớn) sao lại có thể lấy thân coi nhẹ thiên hạ?

    Nhẹ thì mất gốc rễ, náo động thì mất chủ.


    Luận giải

    Chữ quan trong câu nhì có thể đọc là quán; vinh quán là chỗ ở sang trọng.

    Cái gì nặng thì chế ngự được cái nhẹ; cái gì tĩnh thì chế ngự được cái náo động. Nặng, tĩnh là “thường” (trái với biến); nhẹ, náo động là biến. Người theo đạo giữ “thường” mà bỏ biến.

    Lão tử khuyên các nhà cầm quyền phải dè dặt, thận trọng, và đừng để cho ngoại vật, vinh hoa phú quí làm động lòng.

    Suy rộng ra người thường trong cuộc sống cũng vậy.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  10. #30
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Lightbulb XẢO DỤNG - Lão Tử Đạo Đức Kinh

    Lời bạt

    Chương này Lão Tử luận thật hay. Những yếu tố Xảo Dụng thật thâm sâu và uyển chuyển làm sao.

    “Không trọng Thầy, không yêu của dùng thì dù cho khôn cũng là lầm lẫn lớn.”


    ngochai

    ---------------------------------------------------------

    Nguyên Văn Hán Tự


    善 行 無 轍 跡 , 善 言 無 瑕 謫 , 善 數 不 用 籌 策 , 善 閉 無 關 楗 而 不 可 開 , 善 結無繩約而不可解 .

    是 以 聖 人 常 善 救 人 , 故 無 棄 人 ; 常 善 救 物 , 故 無 棄 物 .

    是 謂 襲 明 . 故 善 人 者 , 不 善 人 之 師 ; 不 善 人 者 , 善 人 之 資 .

    不 貴 其 師 , 不 愛 其 資 , 雖 智 大 迷 . 是 謂 要 妙 .


    Dịch Hán Việt

    Thiện hành vô triệt tích, thiện ngôn vô hà trích, thiện số bất dụng trù sách, thiện bế vô quan kiện nhi bất khả khai, thiện kết vô thằng ước nhi bất khả giải.

    Thị dĩ thánh nhân thường thiện cứu nhân, cố vô khí nhân; thường thiện cứu vật, cố vô khí vật, thị vị tập minh.

    Cố thiện nhân giả, bất thiện nhân chi sư; bất thiện nhân giả, thiện nhân chi tư.

    Bất quí kì sư, bất ái kì tư, tuy trí đại mê. Thị vị yếu diệu.

    Dịch nghĩa

    Khéo đi thì không để lại dấu xe, vết chân; khéo nói thì không có lỗi lầm; khéo tính thì không dùng thẻ; khéo đóng thì không dùng then, róng mà mở không được; khéo buộc thì không dùng dây mà cởi không được.

    Cho nên thánh nhân giỏi cứu người mà không ai bị bỏ; giỏi cứu vật mà không vật nào bị bỏ. Như vậy là sáng lòng (Đức của mình và của người và vật cùng nhau sáng tỏ).

    Cho nên người thiện (người đắc Đạo) là thầy của người không thiện (người không đắc đạo, người thường); người không thiện là của dùng để người thiện mượn.

    Không trọng Thầy, không yêu của dùng thì dù cho khôn cũng là lầm lẫn lớn. Thế gọi là cốt yếu, nhiệm màu.

    Luận giải

    Đoạn đầu có thể hiểu là: khéo xử sự thì (thuận tự nhiên nên) không lưu lại dấu vết; khéo nói thì (trầm mặc, ít nói, nên) không lỗi lầm, khéo tính toán thì (vô tâm, vô trí nên) không dùng mưu lược; khéo lung lạc người khác thì (thành thực với người nên) không cần giam hãm người, người cũng không bỏ mình mà đi; khéo kết nạp nhân tâm thì không cần trói buộc người, người cũng không bỏ mình mà đi.

    Đại ý của chương là: cứ thuận tự nhiên, đừng có tư ý, mưu mô thì dùng được mọi người, không phải bỏ ai, mình dạy cho người, người giúp đỡ lại mình mà đức mình càng thêm tỏ.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

Tags for this Thread

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •