(Tinmoi.vn) Trộm cắp diễn ra trong mọi xã hội, nhưng trong xã hội phong kiến Việt Nam vụ án được coi là nguy hiểm nhất là vụ án “bò béo, bò gầy”. Trộm cắp được coi là tội lớn trong xã hội xưa, người nặng tội có thể bị nhận án “xử chém”.
Vụ án “bò béo, bò gầy” là một vụ án cướp của giết người đặc biệt nghiêm trọng, kéo dài trên 20 năm, số người bị giết không thể tính hết, xảy ra tại hang Địch Lộng thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, được phá án vào triều vua Lê Hy Tông (1694). Sách Đại Nam nhất thống chí trong mục tỉnh Ninh Bình, phần "Sông núi" ghi: " Sau đời Lê Trung hưng, cạnh núi có bọn dân ác xã Đa Giá Thượng cùng nhau lập khoán ước riêng, đặt điếm tuần, giết hại hành khách, vứt xác vào hang núi lấy của, trải hơn 20 năm làm tai hại cho khách qua đường...".

Làng Đa Giá Thượng nằm ở phía nam bến đò Khuốt, trên đường thiên lý Bắc - Nam, ngay dưới chân dãy núi đá vôi trùng điệp, hiểm trở. Có một bọn trộm cướp hung đồ, khống chế được tất cả các chức sắc trong làng cùng theo, dần dần hình thành cả một làng ăn cướp, có quy định khoán ước với nhau rất chặt chẽ. Vì vậy, hoạt động phạm pháp của cả làng này kéo dài trên 20 năm mà không hề lọt ra ngoài. Chúng lập ra một nhà trạm trên đường thiên lý với "vỏ bọc" là một nghề kinh doanh ăn uống và nghỉ trọ. Chủ quán lúc nào cũng cung cấp đầy đủ rượu ngon có pha thuốc mê, chuốc cho khách no say. Khi khách đang ăn thì có người đi qua hỏi chủ quán:- Nhà hàng mai có bò không, cho chúng tôi mượn với nhé!- Có.- Bò béo hay bò gầy?- Bò béo!Khách nghe thế không ngờ rằng đó là ám hiệu của bọn cướp với nhau. Bò béo tức là khách giàu có. Bò gầy là khách nghèo. Bọn cướp căn cứ vào ám hiệu của chủ quán mà quyết định hành động hay không. Đêm đến, khách đang say giấc nồng thì chúng xông vào, trói giật cánh khuỷu, nhét giẻ vào miệng, lôi lên núi đá. Trên núi có một cái hang rất sâu gọi là Kẽm Trống, chúng xô khách xuống hang rồi về chia nhau tiền bạc.

Dưới thời vua Lê Hy Tông quyền hành nằm trong tay chúa Trịnh Căn. Hôm ấy xa giá của chúa đi qua cửa Đại Hưng thì gặp một người phụ nữ, đầu đội một lá đơn, sụp lạy trước kiệu, bị quân lính xua đuổi nhưng nhất quyết không chịu lùi. Chúa cho dừng kiệu rồi sai người dẫn người này tới hỏi chuyện thì mới biết chồng nàng đã bị bọn cướp giết, còn nàng bị bắt về làm vợ một tên tướng cướp rồi sau hai năm mới trốn ra được. Khi nghe xong câu chuyện và xem đơn của nàng, chúa lập tức sai Thạc quận công Lê Thì Hải đem 2.000 quân tiến thẳng về Gia Viễn, bí mật áp sát làng Đa Giá Thượng.

Chiều hôm ấy, có một thầy lang đi qua đò Khuốt rồi vào làng Đa Giá Thượng. Ăn xong, khách nằm lăn ra ngủ. Nửa đêm hôm đó, bọn cướp xông vào. Khách bị trói giật cánh khuỷu, nhét giẻ vào miệng rồi bị dẫn lên hang núi. Nhưng, bọn cướp chưa kịp ra tay thì những tiếng hô vang trong đêm tối làm trấn động cả núi rừng. Tiếng reo hò của 2.000 quân sĩ đồng loạt nổi lên, vây bọc toàn bộ làng Đa Giá Thượng. Gần 300 tên tội phạm đã bị bắt. Người ta xác định được 52 tên đầu sỏ, khép vào tội tử hình. Số còn lại là tòng phạm, bị bắt đày đi châu xa.

Hình phạt xưa cho tội trộm cắp

Theo Bộ luật Hồng Đức, tội trộm cắp tài sản là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cao trong các tội phạm xảy ra trong xă hội phong kiến. Người phạm tội trộm cắp tài sản trong một số trường hợp cụ thể bị đe doạ áp dụng hình phạt cao nhất là tử hình và được thực hiện bằng hình thức chém đầu.

Trong Chương “Đạo tặc” của Bộ luật Hồng Đức, tội trộm cắp tài sản được quy định sau các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm con người như các tội mưu làm phản, tội mưu đại nghịch, tội phản nước theo giặc, tội giết người, tội làm người bị thương, tội hiếp dâm. Như vậy, theo cách sắp xếp này tính chất và mức độ nguy hiểm cho xă hội của tội trộm cắp tài sản chỉ thấp hơn các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm con người.Trong các tội trộm cắp tài sản trên đây hành vi trộm cắp tài sản của vua có tính chất nguy hiểm cho xă hội cao nhất, người phạm các tội này bị xử chém. Đối với các tội trộm cắp tài sản khác, người phạm tội chỉ bị phạt khổ sai hoặc lưu đầy.


Xử chém là hình phạt nặng nhất cho tội trộm cắp

Nếu phạm nhân vi phạm ở mức độ phải chém đầu hay con gọi là chặt đầu thì phương tiện giết người hoặc tử hình, nó có thể được thực hiện bằng đao, rìu, kiếm, dao, dây, hoặc bằng các phương tiện tinh vi hơn ví dụ như một máy chém. Đến giờ hành hình, đao phủ sẽ dùng đao hoặc máy chém để thi hành án với tử tù.

So với các hình thức tử hình khác như lăng chì, tứ mã phân thân…thì chặt đầu là hình thức ít đau đớn nhất cho phạm nhân, sau khi khai đao, họ có thể chết ngay sau đó chứ không kéo dài sự sống trong đau đớn khi phải xẻo từng miếng thịt cho tới khi chết.

Nếu bị lưu đày, tuỳ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của tội phạm, phạt đi đày được chia là 3 bậc: Đày đi cận châu (châu gần) ở Nghệ An, phủ Hà Hoa, Vinh; Đày đi ngoại châu (châu ngoài) ở 2 xứ Bố Chính (tức là Quảng Bình) và đày đi viễn châu (châu xa) ở các xứ như Tân Bình (thuộc Thuận Hoá). Các hình phạt phụ đối với tội lưu đày thường là phạt đánh bằng gậy, thích chữ vào mặt, đeo xiềng và bắt làm việc nặng.


Tội phạm trộm cắp có thể bị lưu đày

Bị phạt khổ sai là mức độ nhẹ nhất đối với phạm nhân trộm cắp. Cũng tùy theo mức độ, tội đồ được chia làm 3 bậc khác nhau theo mức độ phạm tội:Thứ nhất là lao công (dịch đinh) định ra cho cả đàn ông và đàn bà. Hai là quét dọn chuồng voi đối với đàn ông (tượng phương binh), làm đầy tớ bếp núc trong nhà đối với đàn bà (suy thất tì). Ba là, làm lính đồn điền với đàn ông, làm đầy tớ giã gạo đối với đàn bà.


Khổ sai là một hình phạt khác cho tội trộm cắp

Ngoài ra, theo luật Gia Long quy định, chia tội đồ làm 5 bậc theo độ dài của thời gian , một bậc có thêm một hình phạt đánh bằng gậy (từ 60 đến 100 gậy): 1 năm - 60 trượng; 1 năm rưỡi - 70 trượng; 2 năm - 80 trượng; 2 năm ruoxi - 90 trượng; 3 năm - 100 trượng. Đến đời vua Thái Thành thứ 18, 5 bậc tội đồ đã được đổi làm khổ sai từ 1 - 5 năm.

Nguyệt San
Nguồn : Tin Mới.VN