Trang 1/2 12 CuốiCuối
Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 19

Chủ đề: Thiều gia giới thiệu: Giáo Trình Luyện Tập Khí Công Của Võ Phái Thiều Gia

  1. #1
    Administrator
    Tham gia ngày
    Dec 2011
    Bài gửi
    2.162
    Thanks
    156
    Thanked 334 Times in 280 Posts

    Thiều gia giới thiệu: Giáo Trình Luyện Tập Khí Công Của Võ Phái Thiều Gia

    GIÁO TRÌNH KHÍ CÔNG CỦA VÕ PHÁI THIỀU GIA
    韶家武派气功的教程


    TỰ LUYỆN TẬP KHÍ CÔNG KHÔNG CẦN THẦY
    气功自练不求师


    Võ thuật Thiều gia xin lưu ý:
    Đây là công trình nghiên cứu, giảng dạy về Khí Công do Võ sư Thiều Ngọc Sơn trực tiếp biên soạn và viết giáo trình. Võ thuật Thiều gia giữ bản quyền vì vậy chúng tôi cảnh báo và nghiêm cấm mọi hình thức in sao, tán phát mà không được sự đồng ý của võ thuật Thiều gia, của Võ sư Thiều Ngọc Sơn. Mọi hình thức in sao, tán phát sẽ phải chịu trách nhiệm theo qui định của pháp luật.
    Phần Dẫn nhập:

    Theo lý mà nói: Vào lúc bình minh của xã hội loài người, con người cũng như vạn vật chủ yếu sinh sống theo bản năng, hoàn toàn không có một mảy may nhận thức về sự tồn tại của chính mình, của thế giới vật chất xung quanh. Lúc này, họ chỉ biết đói, thì bạ gì ăn nấy; khát cũng thế thôi, gặp gì uống đó. Những hành vi mang tính bản năng và được coi là mông muội này chắc chắn đem lại cho người tiền sử nhiều bài học đau xót nhưng vô cùng hữu ích và quý báu cho chính bản thân họ và các thế hệ hậu sinh.


    Việc lấy săn bắt, hái lượm làm kế sinh nhai vào lúc bình minh của xã hội loài người dần dần đã làm cho lượng thức ăn ngày càng trở nên khan hiếm. Bên cạnh đó, do nhân khẩu ngày càng sinh sôi nảy nở, điều kiện sinh sống càng khó khăn, cộng với thời tiết khắc nghiệt, tật bệnh hoành hành… những điều đó đã tác động không nhỏ đến bộ óc của con người, buộc con người muốn tồn tại phải không ngừng tư duy, tìm hiểu về thế giới tự nhiên. Nhưng, làm thế nào để nhận thức được thế giới, hiểu được qui luật của tự nhiên? Làm thế nào giải thích được cái gì đang xảy ra xung quanh cuộc sống của con người? Phải chăng con người được sinh ra từ sự sắp đặt của Thượng đế v.v… tất cả những điều đó, đối với người thượng cổ quả là một thách thức, một câu hỏi không dễ có câu trả lời!


    Cùng với thời gian, đời sống kinh tế xã hội đã có những bước phát triển, nhận thức về thế giới tự nhiên tuy đã được nâng cao rõ rệt nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Những ý nghĩ làm thế nào giải mã được bí ẩn của trời đất, của vũ trụ vẫn luôn luôn ám ảnh con người. Việc thiên nhiên đối xử tệ bạc với con người như bắt con người phải chết non, chết yểu, rút ngắn thời gian sung sướng, bắt phải chịu tật bệnh, đau đớn mà không có thuốc thang đặc trị đã như “giọt nước tràn ly”, khiến con người nổi loạn!


    Con người đã công nhiên thách thức chống lại thiên nhiên, chống lại mệnh trời và cuộc binh biến do con người phát động nhằm chống lại thiên nhiên, chống lại mệnh trời ấy đã được tiến hành một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: từ Kinh tế, Chính trị, Quân sự, Văn hóa - Tư tưởng, Y học… với một sức mạnh tổng hợp và một niềm tin, ý chí sắt đá.

    Về Chính trị, con người chủ trương giành quyền lãnh đạo – xem ai làm chủ thiên nhiên, con người hay thượng đế?

    Về Kinh tế, con người đã không khoan nhượng khi tranh giành, cò cưa, trả giá với thiên nhiên từng tấc đất để trồng trọt, từng mét đất mặt biển, khi tiến hành cho quai đê lấn chiếm nhằm mở mang diện tích sống và sinh hoạt của con người… Không những thế, còn cho người lên thám hiểm các hành tinh để khảo sát tình hình đất đai và cắm mốc xác định chủ quyền (chắc là để phát triển kinh tế trang trại?).

    Về Quân sự, dám công nhiên phá bĩnh bằng cách dùng súng laser bắn tan mây không cho Đông Hải Long Vương làm mưa xuống địa giới theo lệnh của Ngọc Hoàng.

    Về Văn hóa – Tư tưởng, Văn học – Nghệ thuật thì không ngừng rêu rao, bôi xấu hình ảnh của trời (thông qua hình tượng Thượng đế và các vị trợ lý thần thánh của ngài), kêu gọi mọi người không tin vào số mệnh, vào sự sắp đặt của trời…


    Trong tất cả các cuộc chiến chống lại thiên nhiên, có lẽ cuộc chiến trên lĩnh vực Y học là cuộc chiến được con người đặc biệt coi trọng.

    Trên mặt trận Y học, con người tuy nhỏ bé và lẻ loi trước sự bao la rộng lớn của thế giới tự nhiên. Thế nhưng, con người lại không chịu khuất phục trước vũ trụ, trước thiên nhiên mà đã anh dũng quật cường chống lại bằng tất cả sức mạnh vốn có của mình. Trận chiến tuy không cân sức, không tiếng súng nhưng diễn ra cũng không kém phần ác liệt và đã kéo dài xuyên suốt quá trình phát triển lịch sử xã hội loài người. Do không cam chịu sự sắp đặt của thượng đế! Nhằm nâng cao sức khỏe, kéo dài tuổi thọ, con người đã tốn biết bao tâm huyết từ thực hành nếm lá tìm dược liệu , từ việc luyện linh đơn, bào chế Đông - Tây dược, phẫu thuật mổ xẻ cơ thể để tìm tác nhân gây bệnh, nghiên cứu và phát minh ra các loại hình vận động mang tính thể dục, các phương pháp tu tâm dưỡng tính, các phép dưỡng sinh như Khí công, Yoga, Võ thuật… cũng chỉ nhằm giành giật với thiên nhiên về quyền được sống, quyền có thuốc thang đặc trị. Mục đích cuối cùng mà con người nhắm đến là tìm cách thoát khỏi qui luật sinh tồn của trời đất, của thiên nhiên. Đây có thể được coi là một mặt trận vô cùng quan trọng trong cuộc chiến. Tất cả vì sức khỏe cộng đồng! Vì hạnh phúc nhân sinh!

    Còn nữa...

    Tp. Hồ Chí Minh Canh dần niên Đông tiết sơ tuần
    Võ sư: Thiều Ngọc Sơn
    Lần sửa cuối bởi thieugia; 31-12-2013 lúc 02:23 PM
    Shaojiazhuangzhu 韶家庄主 — 韶玉山

  2. The Following 2 Users Say Thank You to thieugia For This Useful Post:

    ngochai (02-01-2014), trai_xu_doai (31-12-2013)

  3. #2
    Administrator
    Tham gia ngày
    Dec 2011
    Bài gửi
    2.162
    Thanks
    156
    Thanked 334 Times in 280 Posts
    GIÁO TRÌNH KHÍ CÔNG CỦA VÕ PHÁI THIỀU GIA
    韶家武派气功的教程



    Tiếp theo...

    Tuy có lúc phải gánh chịu những tổn thất, những hy sinh mất mát nhưng việc con người tìm ra các cơ chế sản sinh ra bệnh tật, các phương dược trị bệnh nâng cao sức khỏe “chống lại mệnh trời” chính là những thắng lợi to lớn trước thiên nhiên. Trong những chiến công đó, việc sáng tạo ra các loại hình vận động mang tính thể dục, các phương pháp dưỡng sinh như Ngũ cầm hý, Bát đoạn cẩm, Dịch cân kinh, Thổ nạp tức, Đạo dẫn thuật, Yoga (tất cả các loại hình này về sau đều được gọi với danh từ thống nhất là Khí công)… nhằm cải thiện tình trạng sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống là những chiến công không kém phần quan trọng, thể hiện ý chí ngoan cường, óc sáng tạo của con người trong cuộc chiến chống lại thiên nhiên. Những chiến công đó có ý nghĩa và tác động rất lớn đến đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của con người.


    Lòng quả cảm của con người thật đáng khâm phục! Nhưng nói gì thì nói, con người vẫn có yếu điểm là sợ đau, sợ chết! Cuộc sống nhân gian không gì hạnh phúc hơn được sống trong tự do, được ăn sung mặc sướng, được trường sinh bất tử!
    Thiên hữu tứ thời Xuân vi thủ
    Nhân sinh ngũ phúc Thọ vi tiên
    天有四时春为首
    人生 五福寿为先

    Với con người thì chẳng có gì bằng “thọ” Ai cũng muốn thọ, cũng muốn được sống lâu. Con người dù giàu sang phú quý đến mấy đi chăng nữa nhưng không “thọ” thì được coi là vô phúc. “Thọ” nhưng không khỏe thì sao nhỉ? Chắc chắn cũng không ai thích, không ai thích sống “thọ” mà mai đau kia ốm, sống lay sống lắt rồi! Giàu sang mà sống bệnh tật, đau yếu thì liệu có vui vẻ không? Xét về mặt logic: con người muốn thọ thì trước tiên phải có sức khỏe, có sức khỏe thì mới có thể sống lâu (thọ); muốn sống lâu, sống khỏe mạnh thì phải làm việc (làm để có cái ăn), làm việc thì phải có chế độ nghỉ ngơi vui chơi giải trí giúp thư giản tinh thần, có chế độ tập luyện giúp lưu thông khí huyết, tăng cường khí lực, tăng sức đề kháng, sức bền, sự thích nghi, sức phục hồi. Và rồi lại phải ăn uống bồi bổ để khỏe để được sống lâu. Xem thế đủ biết, muốn “thọ” cũng không phải chuyện đơn giản, rất nhiêu khê, trong đó việc rèn luyện “tâm thể” có một vị trí vô cùng quan trọng. Vai trò, ý nghĩa của việc rèn luyện thân thể là vấn đề ai cũng hiểu, nhưng muốn rèn luyện thì rèn luyện như thế nào, muốn tập thì tập cái gì, tập luyện ra làm sao? Tập như thế nào thì mới “khỏe”, mới “thọ”?... thiển nghĩ lại là vấn đề không phải ai cũng nhận thức một cách tường tận.

    Trong thời buổi kinh tế thị trường, áp lực của đồng tiền luôn đè nặng lên đôi vai của bạn, luôn làm bạn phải thấp thỏm giật mình trong những giấc mơ đêm. Những lo toan làm khánh kiệt tinh thần! Bệnh viện thì xa, thuốc thang đắt đỏ! … việc tự mình rèn luyện thân thể nhằm nâng cao thể lực, sức đề kháng, khắc phục tình trạng khó khăn càng là một việc làm hết sức có ý nghĩa. Trong các bộ môn vận động thể dục giúp nâng cao sức khỏe hiện nay như Võ thuật, bơi lội, Cầu lông, Bóng đá… đến các loại hình vận động mang tính trị bệnh nhẹ nhàng như Yoga, Khí công, Thái cực quyền, Dưỡng sinh Suối nguồn tươi trẻ v.v. thì Khí công có lẽ là loại hình thích hợp, có nhiều tính ưu việt vượt trội và được nhiều người lựa chọn. “Khí công” không những là liệu pháp được nhiều người yêu thích bởi khả năng chữa trị bệnh, mà còn được yêu bởi nó có “năm Không”(Không yêu sách, tức không đòi hỏi về chiều cao cân nặng, già trẻ gái trai, tình trạng bệnh tật; Không tốn kém tiền bạc; Không cầu kỳ sân bãi, địa điểm luyện tập; Không cầu kỳ về thời gian, giờ giấc; Không cần thầy, chỉ cần có tài liệu hướng dẫn rõ ràng là tập luyện được), đây là một đặc tính ưu việt của bộ môn Y liệu - Khí công mà khó có một liệu pháp nào có thể sánh được, kể cả Trung y, Tây y. Khí công không những đem lại cho bạn một thân thể cường mạnh mà còn giúp bạn vững tin vượt mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống.


    Từ trước đến nay, có rất nhiều tài liệu nói về các phương pháp dưỡng sinh nói chung và phương pháp tập luyện Khí công nói riêng. Sách vở tuy nhiều, nội dung phong phú đa dạng, nhưng qua quan sát, người viết thấy ngoại trừ một số tài liệu diễn giải minh bạch, tường tận, chỉ rõ cách thức tập luyện của các tác giả uy tín như Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, Giáo sư - Bác sĩ Ngô Gia Hy (phần lớn các tài liệu này nay không thấy tái bản)… còn lại đa phần do cách trình bày không rõ ràng hoặc vì “giấu nghề” nên khiến cho độc giả như lâm vào… ma hồn trận. Tuy có sách trong tay cũng khó lòng thành công trong việc tự học, muốn học chỉ có cách… “tầm sư”! Ở Việt Nam, ngoài một số thành phố lớn, các trung tâm đô thị là nơi “Ngọa hổ tàng long”, việc kiếm thầy dạy học còn khả dĩ, còn lại đại đa là nơi thôn quê hoang dã, thâm sơn cùng cốc, việc “Tầm sư học đạo” được ví như “Mò kim đáy bể”. Sách thì nhiều, trong khi “sư” lại “ẩn”. Nhằm giúp các bạn khắc phục những hạn chế do điều kiện hoàn cảnh, đặc biệt là những người ở thôn quê, nơi không có điều kiện tiếp xúc với sách vở, với thầy; những người nơi đô thị nhưng vì lý do nào đó mà không thể đến lớp tập luyện… tuy không xuất thân trong “Danh môn quí phái”, chỉ bằng kinh nghiệm trên hai mươi năm giảng dạy Võ thuật, Thái cực quyền và tập luyện Khí công nhưng được sự cổ vũ, khích lệ của bạn bè, các huynh đệ đồng môn cùng chút kết quả thu hoạch được trong quá trình tập luyện. Nay xin mạnh dạn biên soạn, trình bày một số kỹ thuật, phương pháp luyện Khí công căn bản với những lập luận, giải thích dễ hiểu, chỉ mong giúp các bạn (nhất là những người bệnh nhưng có ý định dùng đến liệu pháp Khí công) rút ngắn thời gian luyện tập mà vẫn đạt được kết quả khả quan, góp phần nâng cao sức khỏe cộng đồng. Hy vọng sách sẽ là người bạn, người thầy đồng hành cùng bạn trong suốt quá trình tự luyện.
    Trong tập sách, người soạn có sử dụng rất nhiều những trích dẫn, tuy có tham khảo một số huynh đệ đồng môn và đã có huynh đệ phê phán người soạn là “lạm dụng từ ngữ”, “khoe chữ”, “rườm rà” và khuyên nên cắt bớt… Với suy nghĩ đã mất công biên soạn lẽ nào không “dẫn chứng”? Việc đưa ra những trích dẫn không nhằm mục đích “khoe chữ” mà chỉ cốt giúp những ai muốn đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu bộ môn Khí công “cùng biết” để dễ dàng trong việc tìm kiếm tư liệu, khỏi phải lục lọi, uổng phí thời giờ vàng bạc… vì vậy mà người soạn vẫn cố giữ nguyên, vẫn đưa ra những viện dẫn, vì cho rằng nó thật sự cần thiết. Trong tập sách này, người soạn chỉ trình bày những điều cốt yếu không đi sâu vào những chi tiết rườm rà (những vấn đề như tìm hiểu về cơ thể con người, hệ thống kinh lạc, huyệt vị và mối liên hệ giữa cơ thể với khí hậu bốn mùa sẽ không được trình bày trong tập sách), miễn sao ai đọc cũng hiểu, hiểu được lợi ích của việc luyện tập và ai tập cũng thấy có hiệu quả.


    Vẫn biết “Võ lâm như rừng, Anh hùng như lá”, tuy kiến thức còn thiển cận, công phu thô kệch ví như “Ếch ngồi đáy giếng” trong khi các “Cao nhân kỳ sĩ” lại như “Lá rụng mùa thu”… nhưng người soạn vẫn liều! Chỉ mong góp viên đá nhỏ, góp gió thành bão vì sức khỏe chung. Cái… sự liều của soạn giả rất mong được lượng thứ và chỉ giáo của các bậc “Chân sư”.

    Tự luyện tập Khí công “không cần thầy” mà vẫn đạt hiệu quả như mong muốn là mục đích của cuốn sách.

    Xin giới thiệu cùng bạn đọc và chúc các bạn tập luyện thành công!

    Còn nữa...
    ---------------------------------------------------------------
    (1)Thần Nông, theo truyền thuyết vì muốn tìm phương dược cứu người, ông đã bỏ ra 7. 749 ngày đêm để nếm tất cả các loại thảo mộc có trong thiên hạ. Từng bao phen trúng độc nhưng về sau ông đã phân biệt được đâu là ngũ cốc, đâu là dược liệu dùng chữa trị bệnh tật và đâu là loại dược độc… để truyền dạy cho dân chúng. Thần Nông được hậu thế tôn xưng là Thủy tổ của nghề Nông và nghề Dược.
    Lần sửa cuối bởi fangzi; 30-12-2013 lúc 09:15 AM
    Shaojiazhuangzhu 韶家庄主 — 韶玉山

  4. The Following 2 Users Say Thank You to thieugia For This Useful Post:

    ngochai (02-01-2014), trai_xu_doai (31-12-2013)

  5. #3
    Administrator
    Tham gia ngày
    Dec 2011
    Bài gửi
    2.162
    Thanks
    156
    Thanked 334 Times in 280 Posts
    TỰ LUYỆN TẬP KHÍ CÔNG KHÔNG CẦN THẦY
    气功自练不求师


    LÝ THUYẾT THIÊN


    I. GIẢN LUẬN

    1. Khí công giản giới

    Tại Trung Quốc, Khí công là một bộ môn thể dục vận động có lịch sử phát triển rất lâu đời, một công phu rèn luyện thân thể độc đáo và mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc Trung Hoa. Trong khi các bộ môn thể dục vận động khác coi trọng về kỹ thuật, nặng về hình thức và rất khắt khe trong việc kén chọn đối tượng tập luyện thì Khí công lại có một phương pháp luyện tập cực đơn giản dễ học, dễ hiểu, phù hợp với mọi đối tượng và điều quan trọng là tập luyện Khí công rất hiệu quả trong phòng, chữa trị bệnh tật. Khí công từ lâu đã được các giới Nho, Y, Đạo, Thích, Võ thuật và Dân gian triệt để áp dụng.

    Theo sử sách, Khí công có đến mấy ngàn năm phát triển. Các thư tịch cổ như Quản tử , Đạo đức kinh, Hoàng Đế Nội Kinh , Thần Nông Bản Thảo Kinh, Thương Hàn Luận, Kim Quĩ yếu Lược … đều có những nhận định xác đáng về Khí, về phương pháp tu luyện Khí. Thông qua công tác khảo cổ học, người ta đã phát hiện việc luyện tập Khí công đã có từ thờ cổ đại. Việc phát hiện “Hành khí ngọc bội minh” 行气玉佩 铭 (bài hướng dẫn cách luyện khí được khắc trên ngọc bội) được xác định là cổ vật thuộc thời Chiến quốc, trên đó khắc những hình ảnh mô tả sớm nhất về các phép thực hành tăng cường khí lực, cách để cho ảnh hưởng của thiên nhiên tác động vào cơ thể con người. Hay như việc phát hiện ra tấm thổ cẩm trong ngôi mộ số 3, có niên đại vào thời Tây Hán 西汉 tại đồi Mã Vương 马王(Trường Sa, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc) cũng là một minh chứng rõ nét nhất về phương pháp luyện tập Khí công. Trong tấm họa đồ có những hướng dẫn chi tiết về phương pháp tập thở (đạo dẫn), ngoài ra còn có một số động tác chỉ dẫn tập luyện mô phỏng theo hình thái, tư thế của các loài động vật.


    Thời Tam quốc, một nhân vật nổi tiếng trong lĩnh vực Y học tên là Hoa Đà đã sáng chế ra “Ngũ cầm hí”五禽戏, một phương pháp rèn luyện thân thể rất hữu hiệu, mô phỏng theo các động tác của 5 con vật: hổ hí虎戏, lộc hí鹿戏, hùng hí熊戏, viên hí猿戏, điểu hí 鸟戏, phương pháp tập luyện này đến nay vẫn còn được lưu truyền rộng rãi trong dân gian và nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng chính “ngũ cầm hý” của Hoa Đà mới là nền móng, là nguồn cảm hứng để sinh ra loại tượng hình quyền trong võ thuật sau này như ngũ hình quyền (long hình龙形, hổ hình虎形, xà hình蛇形, hạc hình鹤形, báo hình quyền豹形拳) cùng các loại hình như cẩu quyền狗拳, áp quyền鸭拳, hà mô quyền虾蟆拳, đường lang quyền螳螂拳, túy quyền醉拳, kê quyền鸡拳, lang nha bổng牙狼棒, hầu côn猴棍, ngũ hổ quần dương côn五虎群羊棍…


    Bản tính của con người vốn tham lam, bướng bỉnh, không chấp nhận sự sắp đặt “Nhân sinh hữu mệnh, phú quí tại thiên” (sống chết có số, giàu nghèo do trời) mà luôn luôn tìm cách “thiên phúc mãi hưởng”. Bởi vậy, hễ cứ đau là nhao nhao tìm thuốc uống (có bệnh nên vái tứ phương), âu cũng là cái điều dễ hiểu, cái lẽ tự nhiên vậy. Để kéo dài tuổi thọ chống lại tật bệnh, người xưa không những đề cao các phương pháp tập luyện mà còn hao tốn biết bao tâm lực cho việc tìm ra các phương dược nhằm chống lại mệnh trời. Người đầu tiên dám ngang nhiên công khai “chống lại mệnh trời” phải kể đó là Tần Vương Doanh Chính tức Tần Thủy Hoàng秦始皇 – một vị vua nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Hoa, người đã thôn tính lục quốc (Hàn, Ngụy, Sở, Yên, Triệu, Tề) chấm rứt thời kỳ Xuân thu chiến quốc kéo dài 500 năm (từ 722-221 tr.Cn) và lập nên một chính quyền trung ương thống nhất đầu tiên trong xã hội phong kiến – Tần Thủy Hoàng là người đầu tiên đại diện cho chính quyền có chủ trương tìm kiếm phương dược nhằm cải thiện sức khỏe (có hẳn chỉ dụ đàng hoàng). Sử sách ghi lại việc Tần Thủy Hoàng (259-210 tr.Cn) vì muốn sống lâu đã ra lệnh cho bọn Lư sinh, Hầu sinh tứ xứ tìm tiên dược để mong được trường sinh. Về sau, ông còn phái bọn Từ Phúc dẫn theo mấy ngàn đồng nam thiện nữ đi tìm thuốc trường sinh bất tử, tốn biết bao công quỹ mà chẳng có kết quả gì.

    Thời Nam – Bắc triều , vào năm 496 (tức năm Thái Hòa thứ 20 đời Hiếu Văn Đế nhà Bắc Ngụy), chùa Thiếu Lâm 少林(Shaolin) được xây dựng trên núi Thiếu Thất thuộc dãy Tung Sơn, huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam theo lệnh của Hiếu Văn Đế 孝文帝dành cho vị cao tăng Ấn Độ tên là Batuo (tức Bạt Đà) làm nơi tu hành. Năm 527 (năm Hiếu Xương thứ 3 đời Hiếu Minh Đế nhà Bắc Ngụy, Đại Thông nguyên niên nhà Lương), một nhà sư Ấn Độ tên là Bodhidharma (Bồ Đề Đạt Ma) đến thuyết pháp theo lời mời của Lương Võ Đế. Khi vào triều do nói chuyện không hợp ý nhà vua nên nhà sư lui về chùa Thiếu Lâm tu hành và tương truyền ngài đã quay mặt vào vách núi tĩnh tu chín năm liền . Trong quá trình tu luyện tại chùa Thiếu Lâm, Đạt Ma sư tổ đã truyền lại cho các sư tăng của chùa hai bộ chân kinh là Dịch Cân Kinh 易筋经và Tẩy Tủy Kinh洗髓经 . Dịch Cân Kinh là phương pháp rèn luyện thân thể nhằm gia tăng khí lực, là phép luyện thở tương tự như Yoga của văn minh Thiên Trúc – Dịch Cân Kinh đến nay vẫn được cho là phương pháp luyện khí hữu hiệu được nhiều người yêu thích.


    Lớp khí công của võ phái Thiều gia tại công viên Gia Định

    Tạo hóa xoay vần! Do xã hội ngày càng phát triển nên nhận thức của con người về thế giới tự nhiên cũng ngày được nâng lên. Cùng với Y thuật, việc nghiên cứu các phương thuật dưỡng sinh trị bệnh không những ngày càng hoàn thiện mà còn phát triển một cách mạnh mẽ. Đặc biệt dưới các triều Đường唐, Tống宋, Minh明, Thanh清, các phép tu luyện như Tọa thiền坐禅, Đạo dẫn thuật道 引术, Thổ nạp pháp吐纳法, Luyện đan thuật练丹术, Di tinh biến khí pháp移精变气法, Thăng giáng điều tức pháp升降调息法, Phục khí thành đan服气成丹, Chân khí vận hành pháp真气运行法, Phóng tung công放松功... không những như trăm hoa đua nở, phát triển một cách rực rỡ mà ngay các loại hình vận động có tính kiện thân tráng cốt như Tiên thiên quyền先天拳 (còn gọi là Thái cực công太极功 với những nhân vật đại diện như Hứa Tuyên Bình许宣平, Lý Đạo Tử李道子 đời Đường, Trình Linh Tẩy程零洗 người đời Hậu Lương); Hậu thiên quyền后宣拳 (với các vị đại diện như Hồ Tử Kính胡子镜, Trọng Thù重殊, An Lợi Hanh安利哼 đời nhà Tống); Nội gia quyền内家拳 của Trương Tam Phong张三丰 (cuối Nguyên đầu đời nhà Minh); Thái cực Quyền太 极拳… cũng có những phát triển vô cùng náo nhiệt.


    Khí công, phương pháp nâng cao sức khỏe, phòng ngừa tật bệnh hữu hiệu (Ảnh: Võ thuật Thiều gia)

    Ngày nay, tuy được sự trợ giúp đắc lực của khoa học kỹ thuật, sức khỏe của con người ngày càng được cải thiện, các dịch bệnh từng bước được đẩy lùi, tuổi thọ được nâng cao một cách rõ rệt. Thế nhưng, việc rèn luyện các loại hình vận động mang tính kiện thân tráng cốt phòng chống bệnh tật như bơi lội, chạy nhảy, bóng đá, cầu lông, võ thuật, các bộ môn như Khí công, Thái cực quyền (Khí công và Thái cực quyền là hai loại hình vận động có tính phòng, chống, chữa trị bệnh tật rất hiệu quả) vẫn rất thiết thực, thật sự hữu ích không những đối với cá nhân, con người cụ thể mà còn có vị trí đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa to lớn trong đời sống kinh tế, văn hóa tinh thần của con người.

    Còn nữa...
    ------------------------------------------------------------------
    Chú thích:
    (2) Tức Quản Trọng tự là Di Ngô (? – 645 Tr. CN) sống thời Xuân thu, người đất Dĩnh Thượng, bên bờ sông Dĩnh Thủy. Lúc trước nghèo hèn, đi buôn toàn độc chiếm phần hơn, về sau được Bão Thúc Nha hết lòng tiến cử nên được Tề Hoàn Công tin dùng, phong làm Tể Tướng, tôn là Trọng Phụ. Ông thi hành chính sách “phú quốc cường binh”, lại lấy 4 điều cốt yếu là Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ để chỉnh đốn quốc gia. Ông là người có công làm cho Tề trở thành một nước hùng mạnh dựa vào nhà Chu sai khiến chư hầu.
    (3) Hoàng Đế nội kinh, sách Y học, tương truyền do Hoàng Đế, Kỳ Bá thảo luận dưới hình thức vấn đáp mà thành. Nhưng theo nhiều nhà nghiên cứu Trung Quốc thì Hoàng Đế Nội Kinh là sản phẩm tổng kết kinh nghiệm của Y – Gia kéo dài từ thời Chiến Quốc tới thời Tây Hán thì hoàn thành còn danh xưng thì chẳng qua cũng chỉ là thác danh của các bậc tiền nhân cho thêm phần khả tín.
    (4) Thương Hàn Luận và Kim Quỹ Yếu Lược, trước đây là cùng một sách có tên Thương Hàn Tạp Bệnh Luận do Trương Trọng Cảnh nhà Y học vĩ đại đời Đông Hán soạn ra trên cơ sở lý luận của Nội Kinh mà phát triển thêm phép tắc “biện chứng trị luận”.
    (5) Nam Bắc Triều cách nay trên dưới khoảng 1600 năm. Nam Triều gồm: Tống (420 – 479), Tề (479 – 502), Lương (502 – 557), Trần (557 – 587); Bắc Triều gồm: Bắc Ngụy (386 – 534), Đông Ngụy (534 – 550), Bắc Tề (550 – 577), Tây Ngụy (535 – 556), Bắc Chu (557 – 581).
    (6) Bồ Đề Đạt Ma có tên thật là Sardili, xuất thân trong vương thất một tiểu quốc thuộc Nam Ấn. Tương truyền ngài đắc đạo nhưng chưa nhập Niết Bàn mà ở lại trần thế phổ độ chúng sinh. Là người sáng lập Thiền Tông Trung Quốc, ngài được hậu thế tôn xưng là tổ của nghề võ. Về năm sinh có nhiều cứ liệu khác nhau nhưng đại đa số cho rằng ngài sinh vào khoảng 483 (?), Đạt Ma sư tổ chủ trương “tĩnh tọa tịch tư”, ngài nhập thiền 9 năm và viên tịch vào năm 539.
    (7) Dịch Cân Kinh (Dịch = chuyển dịch; Cân = gân cốt; Kinh = sách) mới là phương pháp rèn luyện thân thể; Tẩy Tủy Kinh (Tẩy = trừ bỏ; Tủy = Cốt lõi, ý trừ bỏ tạp niệm) là phương pháp nhằm khai mở trí huệ bát nhã của Phật giáo.

    Lần sửa cuối bởi thieugia; 31-12-2013 lúc 02:34 PM
    Shaojiazhuangzhu 韶家庄主 — 韶玉山

  6. The Following 2 Users Say Thank You to thieugia For This Useful Post:

    ngochai (02-01-2014), trai_xu_doai (31-12-2013)

  7. #4
    Administrator
    Tham gia ngày
    Dec 2011
    Bài gửi
    2.162
    Thanks
    156
    Thanked 334 Times in 280 Posts
    TỰ LUYỆN TẬP KHÍ CÔNG KHÔNG CẦN THẦY
    气功自练不求师


    LÝ THUYẾT THIÊN


    I. GIẢN LUẬN

    1. Khí công giản giới

    Tại Trung Quốc, Khí công là một bộ môn thể dục vận động có lịch sử phát triển rất lâu đời, một công phu rèn luyện thân thể độc đáo và mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc Trung Hoa. Trong khi các bộ môn thể dục vận động khác coi trọng về kỹ thuật, nặng về hình thức và rất khắt khe trong việc kén chọn đối tượng tập luyện thì Khí công lại có một phương pháp luyện tập cực đơn giản dễ học, dễ hiểu, phù hợp với mọi đối tượng và điều quan trọng là tập luyện Khí công rất hiệu quả trong phòng, chữa trị bệnh tật. Khí công từ lâu đã được các giới Nho, Y, Đạo, Thích, Võ thuật và Dân gian triệt để áp dụng.


    Theo sử sách, Khí công có đến mấy ngàn năm phát triển. Các thư tịch cổ như Quản tử , Đạo đức kinh, Hoàng Đế Nội Kinh , Thần Nông Bản Thảo Kinh, Thương Hàn Luận, Kim Quĩ yếu Lược … đều có những nhận định xác đáng về Khí, về phương pháp tu luyện Khí. Thông qua công tác khảo cổ học, người ta đã phát hiện việc luyện tập Khí công đã có từ thờ cổ đại. Việc phát hiện “Hành khí ngọc bội minh” 行气玉佩 铭 (bài hướng dẫn cách luyện khí được khắc trên ngọc bội) được xác định là cổ vật thuộc thời Chiến quốc, trên đó khắc những hình ảnh mô tả sớm nhất về các phép thực hành tăng cường khí lực, cách để cho ảnh hưởng của thiên nhiên tác động vào cơ thể con người. Hay như việc phát hiện ra tấm thổ cẩm trong ngôi mộ số 3, có niên đại vào thời Tây Hán 西汉 tại đồi Mã Vương 马王 (Trường Sa, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc) cũng là một minh chứng rõ nét nhất về phương pháp luyện tập Khí công. Trong tấm họa đồ có những hướng dẫn chi tiết về phương pháp tập thở (đạo dẫn), ngoài ra còn có một số động tác chỉ dẫn tập luyện mô phỏng theo hình thái, tư thế của các loài động vật.


    Thời Tam quốc, một nhân vật nổi tiếng trong lĩnh vực Y học tên là Hoa Đà đã sáng chế ra “Ngũ cầm hí” 五禽戏, một phương pháp rèn luyện thân thể rất hữu hiệu, mô phỏng theo các động tác của 5 con vật: hổ hí 虎戏, lộc hí 鹿戏, hùng hí 熊戏, viên hí 猿戏, điểu hí 鸟戏, phương pháp tập luyện này đến nay vẫn còn được lưu truyền rộng rãi trong dân gian và nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng chính “ngũ cầm hý” của Hoa Đà mới là nền móng, là nguồn cảm hứng để sinh ra loại tượng hình quyền trong võ thuật sau này như ngũ hình quyền (long hình 龙形, hổ hình 虎形, xà hình 蛇形, hạc hình 鹤形, báo hình quyền 豹形拳) cùng các loại hình như cẩu quyền 狗拳, áp quyền 鸭拳, hà mô quyền 虾蟆拳, đường lang quyền 螳螂拳, túy quyền 醉拳, kê quyền 鸡拳, lang nha bổng 牙狼棒, hầu côn 猴棍, ngũ hổ quần dương côn 五虎群羊棍…


    Bản tính của con người vốn tham lam, bướng bỉnh, không chấp nhận sự sắp đặt “Nhân sinh hữu mệnh, phú quí tại thiên” (sống chết có số, giàu nghèo do trời) mà luôn luôn tìm cách “thiên phúc mãi hưởng”. Bởi vậy, hễ cứ đau là nhao nhao tìm thuốc uống (có bệnh nên vái tứ phương), âu cũng là cái điều dễ hiểu, cái lẽ tự nhiên vậy. Để kéo dài tuổi thọ chống lại tật bệnh, người xưa không những đề cao các phương pháp tập luyện mà còn hao tốn biết bao tâm lực cho việc tìm ra các phương dược nhằm chống lại mệnh trời. Người đầu tiên dám ngang nhiên công khai “chống lại mệnh trời” phải kể đó là Tần Vương Doanh Chính tức Tần Thủy Hoàng 秦始皇 – một vị vua nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Hoa, người đã thôn tính lục quốc (Hàn, Ngụy, Sở, Yên, Triệu, Tề) chấm rứt thời kỳ Xuân thu chiến quốc kéo dài 500 năm (từ 722-221 tr.Cn) và lập nên một chính quyền trung ương thống nhất đầu tiên trong xã hội phong kiến – Tần Thủy Hoàng là người đầu tiên đại diện cho chính quyền có chủ trương tìm kiếm phương dược nhằm cải thiện sức khỏe (có hẳn chỉ dụ đàng hoàng). Sử sách ghi lại việc Tần Thủy Hoàng (259-210 tr.Cn) vì muốn sống lâu đã ra lệnh cho bọn Lư sinh, Hầu sinh tứ xứ tìm tiên dược để mong được trường sinh. Về sau, ông còn phái bọn Từ Phúc dẫn theo mấy ngàn đồng nam thiện nữ đi tìm thuốc trường sinh bất tử, tốn biết bao công quỹ mà chẳng có kết quả gì.

    Thời Nam – Bắc triều , vào năm 496 (tức năm Thái Hòa thứ 20 đời Hiếu Văn Đế nhà Bắc Ngụy), chùa Thiếu Lâm 少林 (Shaolin) được xây dựng trên núi Thiếu Thất thuộc dãy Tung Sơn, huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam theo lệnh của Hiếu Văn Đế 孝文帝 dành cho vị cao tăng Ấn Độ tên là Batuo (tức Bạt Đà) làm nơi tu hành. Năm 527 (năm Hiếu Xương thứ 3 đời Hiếu Minh Đế nhà Bắc Ngụy, Đại Thông nguyên niên nhà Lương), một nhà sư Ấn Độ tên là Bodhidharma (Bồ Đề Đạt Ma) đến thuyết pháp theo lời mời của Lương Võ Đế. Khi vào triều do nói chuyện không hợp ý nhà vua nên nhà sư lui về chùa Thiếu Lâm tu hành và tương truyền ngài đã quay mặt vào vách núi tĩnh tu chín năm liền . Trong quá trình tu luyện tại chùa Thiếu Lâm, Đạt Ma sư tổ đã truyền lại cho các sư tăng của chùa hai bộ chân kinh là Dịch Cân Kinh 易筋经 và Tẩy Tủy Kinh 洗髓经 . Dịch Cân Kinh là phương pháp rèn luyện thân thể nhằm gia tăng khí lực, là phép luyện thở tương tự như Yoga của văn minh Thiên Trúc – Dịch Cân Kinh đến nay vẫn được cho là phương pháp luyện khí hữu hiệu được nhiều người yêu thích.


    Tạo hóa xoay vần! Do xã hội ngày càng phát triển nên nhận thức của con người về thế giới tự nhiên cũng ngày được nâng lên. Cùng với Y thuật, việc nghiên cứu các phương thuật dưỡng sinh trị bệnh không những ngày càng hoàn thiện mà còn phát triển một cách mạnh mẽ. Đặc biệt dưới các triều Đường 唐, Tống 宋, Minh明, Thanh 清, các phép tu luyện như Tọa thiền 坐禅, Đạo dẫn thuật 道 引术, Thổ nạp pháp 吐纳法, Luyện đan thuật 练丹术, Di tinh biến khí pháp 移精变气法, Thăng giáng điều tức pháp 升降调息法, Phục khí thành đan 服气成丹, Chân khí vận hành pháp 真气运行法, Phóng tung công 放松功... không những như trăm hoa đua nở, phát triển một cách rực rỡ mà ngay các loại hình vận động có tính kiện thân tráng cốt như Tiên thiên quyền 先天拳 (còn gọi là Thái cực công 太极功 với những nhân vật đại diện như Hứa Tuyên Bình 许宣平, Lý Đạo Tử 李道子 đời Đường, Trình Linh Tẩy 程零洗 người đời Hậu Lương); Hậu thiên quyền 后宣拳 (với các vị đại diện như Hồ Tử Kính 胡子镜, Trọng Thù 重殊, An Lợi Hanh 安利哼 đời nhà Tống); Nội gia quyền 内家拳 của Trương Tam Phong 张三丰 (cuối Nguyên đầu đời nhà Minh); Thái cực Quyền 太 极拳… cũng có những phát triển vô cùng náo nhiệt.


    Ngày nay, tuy được sự trợ giúp đắc lực của khoa học kỹ thuật, sức khỏe của con người ngày càng được cải thiện, các dịch bệnh từng bước được đẩy lùi, tuổi thọ được nâng cao một cách rõ rệt. Thế nhưng, việc rèn luyện các loại hình vận động mang tính kiện thân tráng cốt phòng chống bệnh tật như bơi lội, chạy nhảy, bóng đá, cầu lông, võ thuật, các bộ môn như Khí công, Thái cực quyền (Khí công và Thái cực quyền là hai loại hình vận động có tính phòng, chống, chữa trị bệnh tật rất hiệu quả) vẫn rất thiết thực, thật sự hữu ích không những đối với cá nhân, con người cụ thể mà còn có vị trí đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa to lớn trong đời sống kinh tế, văn hóa tinh thần của con người.

    Còn nữa...
    ------------------------------------------------------------------
    Chú thích:
    (2) Tức Quản Trọng tự là Di Ngô (? – 645 Tr. CN) sống thời Xuân thu, người đất Dĩnh Thượng, bên bờ sông Dĩnh Thủy. Lúc trước nghèo hèn, đi buôn toàn độc chiếm phần hơn, về sau được Bão Thúc Nha hết lòng tiến cử nên được Tề Hoàn Công tin dùng, phong làm Tể Tướng, tôn là Trọng Phụ. Ông thi hành chính sách “phú quốc cường binh”, lại lấy 4 điều cốt yếu là Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ để chỉnh đốn quốc gia. Ông là người có công làm cho Tề trở thành một nước hùng mạnh dựa vào nhà Chu sai khiến chư hầu.
    (3) Hoàng Đế nội kinh, sách Y học, tương truyền do Hoàng Đế, Kỳ Bá thảo luận dưới hình thức vấn đáp mà thành. Nhưng theo nhiều nhà nghiên cứu Trung Quốc thì Hoàng Đế Nội Kinh là sản phẩm tổng kết kinh nghiệm của Y – Gia kéo dài từ thời Chiến Quốc tới thời Tây Hán thì hoàn thành còn danh xưng thì chẳng qua cũng chỉ là thác danh của các bậc tiền nhân cho thêm phần khả tín.
    (4) Thương Hàn Luận và Kim Quỹ Yếu Lược, trước đây là cùng một sách có tên Thương Hàn Tạp Bệnh Luận do Trương Trọng Cảnh nhà Y học vĩ đại đời Đông Hán soạn ra trên cơ sở lý luận của Nội Kinh mà phát triển thêm phép tắc “biện chứng trị luận”.
    (5) Nam Bắc Triều cách nay trên dưới khoảng 1600 năm. Nam Triều gồm: Tống (420 – 479), Tề (479 – 502), Lương (502 – 557), Trần (557 – 587); Bắc Triều gồm: Bắc Ngụy (386 – 534), Đông Ngụy (534 – 550), Bắc Tề (550 – 577), Tây Ngụy (535 – 556), Bắc Chu (557 – 581).
    (6) Bồ Đề Đạt Ma có tên thật là Sardili, xuất thân trong vương thất một tiểu quốc thuộc Nam Ấn. Tương truyền ngài đắc đạo nhưng chưa nhập Niết Bàn mà ở lại trần thế phổ độ chúng sinh. Là người sáng lập Thiền Tông Trung Quốc, ngài được hậu thế tôn xưng là tổ của nghề võ. Về năm sinh có nhiều cứ liệu khác nhau nhưng đại đa số cho rằng ngài sinh vào khoảng 483 (?), Đạt Ma sư tổ chủ trương “tĩnh tọa tịch tư”, ngài nhập thiền 9 năm và viên tịch vào năm 539.
    (7) Dịch Cân Kinh (Dịch = chuyển dịch; Cân = gân cốt; Kinh = sách) mới là phương pháp rèn luyện thân thể; Tẩy Tủy Kinh (Tẩy = trừ bỏ; Tủy = Cốt lõi, ý trừ bỏ tạp niệm) là phương pháp nhằm khai mở trí huệ bát nhã của Phật giáo.

    Lần sửa cuối bởi thieugia; 31-12-2013 lúc 02:35 PM
    Shaojiazhuangzhu 韶家庄主 — 韶玉山

  8. The Following 2 Users Say Thank You to thieugia For This Useful Post:

    ngochai (02-01-2014), trai_xu_doai (31-12-2013)

  9. #5
    Senior Member
    Tham gia ngày
    Dec 2012
    Bài gửi
    200
    Thanks
    91
    Thanked 23 Times in 19 Posts
    Cảm ơn thầy Thiều, nhưng cho em hỏi có đúng là tự tập được không ? Em thấy mấy anh nói dứt khoát phải có thầy mới tập được đấy ạ.

  10. The Following User Says Thank You to trai_xu_doai For This Useful Post:

    ngochai (02-01-2014)

  11. #6
    Administrator
    Tham gia ngày
    Dec 2011
    Bài gửi
    2.162
    Thanks
    156
    Thanked 334 Times in 280 Posts
    Nói một cách ngắn gọn thì khí công chẳng qua chỉ là công fu luyện khí tức là kỹ thuật hít hít thở thở. Mà hít thở thì ai chả phải làm, không làm có mà toi sớm... đúng không nào. Cái quan trọng ở đây chính là thở như thế nào? Phải biết thở....... đúng lúc, đúng chỗ, đúng cách... thì sẽ phát huy được tác dụng cao nhất, nhằm nâng cao sức khỏe và phòng ngừa bệnh tật. Vậy đó em.
    Thân !
    Shaojiazhuangzhu 韶家庄主 — 韶玉山

  12. The Following User Says Thank You to thieugia For This Useful Post:

    ngochai (02-01-2014)

  13. #7
    Administrator
    Tham gia ngày
    Dec 2011
    Bài gửi
    2.162
    Thanks
    156
    Thanked 334 Times in 280 Posts
    TỰ LUYỆN TẬP KHÍ CÔNG KHÔNG CẦN THẦY
    气功自练不求师



    2. Nhận thức chung về khí

    a. Giải thích từ ngữ:

    “Khí” 气 là một danh từ gốc Hán có nhiều nghĩa và là danh từ được dùng để chỉ về nhiều lĩnh vực khác nhau như hiện tượng thiên nhiên, thời tiết, khí hậu, khí tượng, khí huyết, khí hư, khí cụ, khí quản, khí áp, khí giới, khí quyển, khí còn để chỉ tâm tính con người v.v… chữ “Khí” được đề cập dưới đây là chữ khí trong thiên nhiên và khí trong Khí công气功.


    b. Các quan niệm về khí trong thiên nhiên:

    Không phải đợi đến khi khoa học kỹ thuật phát triển, con người mới có thể nhận biết đích xác về khí, các thành phần của khí, công năng, tác dụng của nó trong thiên nhiên. Ngay từ thời thượng cổ, người xưa đã có những nhận định rất xác đáng về khí, tầm quan trọng của khí đối với sự sinh trưởng, tồn tại của vạn vật. Điều mà cho đến nay, khi xã hội phát triển cũng còn không ít người có nhận thức đầy đủ về khí. Đặc biệt là tác dụng của chúng đối với môi trường và cuộc sống của muôn vật ra sao? Thiển nghĩ, số lượng người không nhận thức, hiểu biết một cách đầy đủ về vấn đề này cũng không phải là nhỏ(!). Dưới đây, chúng ta cùng lần lượt tìm hiểu các quan niệm của người xưa khi nhận định về khí trong thiên nhiên, khí trong vũ trụ.


    Khí công Dịch Cân Kinh

    Từ xa xưa, con người đã biết đến Khí hay Parana (cách gọi khác của khí trong ngôn ngữ Ấn Độ). Ngay từ thời Xuân Thu – Chiến quốc (Xuân thu 722 – 481; Chiến quốc 481 – 221 Tr.CN), các Nhà tư tưởng, các Triết gia có ảnh hưởng to lớn trong lịch sử cổ đại Trung Hoa như Quản Tử管子 (tức Quản Trọng), Lão Tử老子, Trang Tử壮子, Mạnh Tử孟子... thông qua các tác phẩm, các học thuyết của mình đều đề cập đến tính năng của Khí.


    Dương Bá Phủ

    - Người đầu tiên dùng khái niệm “Khí” để giải thích hiện tượng động đất là Dương Bá Phủ杨伯府, quan Thái sử nhà Chu. Theo sách “Quốc ngữ”, năm thứ ba đời Chu U Vương (779 tr.Cn) xảy ra một trận động đất và quan Thái sử nhà Chu đã giải thích về hiện tượng này: “Do khí Dương bị nén không thoát ra được, khí Âm bị nén không bốc lên được mà xảy ra hiện tượng động đất”. Nhưng cái gì sinh ra hai động lực thiên nhiên ấy thì không thấy ông nói đến. Về sau, khi xuất hiện hệ Dịch truyện, người xưa đã thêm quan niệm về Thái cực, Lưỡng nghi để diễn giải quá trình biến hóa của các hiện tượng, sự vật trong vũ trụ.

    - Lão Tử老子, người sáng lập ra Đạo giáo và được hậu thế tôn xưng là Đạo gia Giáo chủ. Ông là nhà Tư tưởng, Triết gia có ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử Trung Quốc (Lão Tử họ Lý tên Nhĩ, tự là Bá Dương quê tại Khúc Nhân, làng Lệ, huyện Khổ, nước Sở, làm quan Thái sử nhà Chu). Ông cho rằng: Có một cái gì đó còn được sinh ra trước cả trời đất “hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh”有物混成先天地生, và “cái gì đó” đó được ông gọi là “Đạo”道. Theo ông: “Đạo (cái gì đó) nhìn thì không thấy, nghe không được mà nắm bắt cũng không. Ba cái đó (tức vô thanh, vô sắc, vô hình) truy cứu đến cùng cũng không biết được gì, chỉ thấy chộn rộn làm một. Ở trên thì không sáng, ở dưới thì không tối, thâm viễn bất tuyệt, không thể gọi tên. Nó lại trở về cõi vô vật, cho nên bảo là cái trạng không có hình trạng, cái tượng không có vật thể. Nó thấp thoáng, mập mờ. Đón nó thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi” (Đạo đức Kinh/Chương 14). Tại chương 21, ông lại viết: “Đạo là cái gì chỉ mập mờ thấp thoáng, thấp thoáng mập mờ mà bên trong có hình tượng; mập mờ thấp thoáng, mà bên trong có vạn vật; nó thâm viễn, tối tăm mà bên trong có cái tinh túy; tinh túy đó rất xác thực và rất đáng tin” 道 之为物惟恍惟惚。惚兮恍兮,其中有 ;恍兮惚兮,其中有物。窈兮冥兮, 中有精;其精甚真,其中甚信。(Đạ o chi vi vật, duy hoảng duy hốt。hốt hề hoảng hề, kỳ trung hữu tượng; hoảng hề hốt hề, kỳ trung hữu vật. Yểu hề, minh hề, kỳ trung hữu tinh; kỳ tinh thậm chân, kỳ trung hữu tín. Đạo đức kinh/Chương 21). Ở đoạn đầu chương 14, Lão Tử gọi Đạo (bản nguyên của vũ trụ) là “cái gì đó” không thể hiểu biết được, nó mơ mơ hồ hồ; nhưng ở lần sau (Chương 21) ông lại bảo nó có hình tượng, có vật, hơn nữa ông còn tin chắc rằng trong nó có cái “tinh” và cái “tinh” đó rất rõ ràng và chân thật. Chữ “tinh” mà ông mô tả được người sau cho rằng đó chính là “khí” là nguồn của sự sống, bản nguyên của vũ trụ và là mẹ của vạn vật...


    Lão tử

    - Trang Tử 壮子(365 – 290? tr.Cn), người kế tục học thuyết vô vi của Lão Tử. Sống vào thời Chiến quốc trong tác phẩm của mình, Trang Tử đã đưa ra nhận định: "Toàn bộ thế giới tự nhiên chẳng qua cũng chỉ là khí mà thôi"通天下,一气矣/知北游 (Thông thiên hạ, nhất khí hĩ/ Tri Bắc Du).
    - Đổng Trọng Thư 董仲舒 (179 – 104 tr.Cn), nhà Triết học duy tâm nổi tiếng thời Tây Hán. Ông theo quan điểm “Thiên nhân hợp nhất”天人合一. Trong tác phẩm “Xuân Thu Phồn Lộ”春秋繁露, Đổng Trọng Thư cho rằng: Trong vũ trụ chỉ có Âm và Dương là hai thái cực đối lập 天地之间,有阴有阳 (Thiên địa chi gián, hữu âm hữu dương/ Xuân Thu Phồn Lộ) và nhấn mạnh: “Khí trong trời đất là do Thiên khí và Địa khí hợp lại mà thành, được chia làm hai gọi là khí Dương và khí Âm rồi từ khí Âm Dương mới phân ra khí của bốn mùa, khí của ngũ hành” 天地之气合而为一分为阴阳别为四时 为五行/春秋繁露 (Thiên địa chi khí, hợp nhi vi nhất, phân vi âm dương, biệt vi tứ thời, liệt vi ngũ hành/Xuân thu phồn lộ).

    - Vương Sung王充, người thời Đông Hán (27 – 100) tự là Trọng Nhiệm. Vương Sung theo học thuyết “Nguyên khí tự nhiên” 原气自然 ông khẳng định: “Thế giới này là do nguyên khí tự nhiên mà hợp thành”天地涵气之自然也 (Thiên Địa hàm khí chi tự nhiên dã/ Đàm Thiên). Cũng theo Vương Sung: Sở dĩ có muôn vật, đa dạng chủng loại cũng là tự nhiên mà thôi. Bởi vì, muôn loài tiếp thu nguyên khí khác nhau, nhiều ít dày mỏng khác nhau v.v... nên sinh ra chủng loại khác nhau 人气而生种类相产 (Nhân khí nhi sinh, chủng loại tương sản/ Vật Thế).

    - Trong lịch sử tư tưởng Triết học Trung Hoa, người đề xướng rõ ràng tư tưởng lấy khí làm “Bản nguyên của vạn vật” là Hà Hưu何休, sống vào đời Đông Hán (129 – 182) tự là Thiệu Công, người đất Phàn, Nhiệm Thành - nay thuộc Tây Nam Duyện Châu, tỉnh Sơn Đông. Ông viết: “Cái nguyên thủy là khí. Khí khởi đầu từ vô hình, khi hữu hình thì phân mà tạo nên trời đất. Nó là cái khởi đầu của trời đất vậy”. (Xuân Thu Công Dương Giải Hỗ).

    - Kê Khang 稽康 (225 – 264), nhà Triết học duy vật, nhà dưỡng sinh nổi tiếng sống vào cuối thời Tam quốc, ông kế thừa quan điểm duy vật học thuyết “Nguyên khí nhất nguyên luận” của người đi trước. Là một trong bảy người hiền của Trúc Lâm 竹林七贤 (Trúc Lâm thất hiền). Khi nhận định về sự tồn tại của thế giới, ông bàn: “Thế giới tồn tại quanh ta không phải được sinh ra từ cõi hư vô nào, mà từ khí của trời đất hợp lại nên vạn vật sinh sôi nảy nở, nóng lạnh thay nhau, ngũ hành xuất hiện” 天地合德,万物滋生寒来暑往五行以 (Thiên Địa hợp đức, vạn vật tư sinh, hàn thử lai vãng, ngũ hành dĩ thành). Về sau, Kê Khang bị Tư Mã Chiêu giết vì ghen ghét. Tác phẩm để lại có Kê Trung Tán tập稽中散集, Dưỡng sinh luận养生论. Tính ông ngông cuồng, phóng khoáng, giỏi về âm nhạc, ca khúc nổi tiếng của ông là Quảng Lăng Tán. Để ca ngợi tài trí của ông, Đại Thi hào Nguyễn Du trong tác phẩm Kiều cũng đã tả cảnh Kiều khi gẩy khúc Quảng Lăng Tán của Kê Khang:

    Kê Khang này khúc Quảng Lăng,
    Một rằng lưu thủy, hai là hành vân

    - Theo Trương Tái张再, một học giả về “khí” trong Tống học: “Khí là cái cơ bản nhất, khí là gốc tạo ra muôn vật, khí tức là Đạo”. Ông đưa ra bốn luận điểm sau: “khí” là cái gốc của vạn vật; “khí” là bản nguyên của vũ trụ; “khí” là căn nguyên của nhân cách; “khí” có chức năng biến động cố hữu.

    - Hoàng đế Nội kinh 皇帝内经, một trong bốn tác phẩm kinh điển về Y- thuật Trung Quốc, sách bao gồm 18 quyển (Tố Vấn 9, Linh Khu 9) là sản phẩm tổng kết kinh nghiệm của Y gia kéo dài nhiều thế kỷ bắt đầu từ thời Chiến quốc đến thời Tây Hán. Hoàng đế Nội kinh cho rằng: Trời đất là do khí Âm Dương tạo thành, Âm Dương là giềng mối của vạn vật, là phụ mẫu của mọi sự tồn vong trong vũ trụ 阴阳者, 天地之道也, 万物之纲技, 变化之父母, 生刹之本始. 素问/阴阳应象大纲 (Âm Dương giả, Thiên Địa chi đạo dã, vạn vật chi cương kỹ, biến hóa chi phụ mẫu, sinh sát chi bản thủy (Tố Vấn/ Âm Dương Ứng Tượng Đại Cương). Và nhận định:

    Vạn vật được sinh ra từ quá trình vận động, biến hóa của thế giới vật chất, được trời đất che chở và dung dưỡng 覆天载地万物方生“Phúc thiên tải địa, vạn vật phương sinh” (Tố vấn/Âm Dương ly hợp luận). Theo Hoàng đế Nội kinh: “khí” là bản nguyên của vạn vật, mọi biến đổi trong vũ trụ đều do “khí” tác động mà thành; “khí” là nguyên tố cơ bản tạo nên con người và duy trì cuộc sống của con người, đồng thời đặt tên cho nó là “Nguyên khí” 原气hay còn gọi là “Chân khí”真气.


    Lớp Khí công của võ thuật Thiều gia tại công viên Gia Định

    Kết luận: Thông qua một loạt các quan niệm, nhận định về “khí” của tất cả các nhà tư tưởng, Triết học, các nhà Dưỡng sinh, chúng ta thấy họ đều công nhận có sự tồn tại khách quan của “khí” và xem:

    - Khí là một thực thể tồn tại khách quan.
    - Khí là cái gốc của vạn vật, là bản nguyên của vũ trụ (có khí thì sống, không khí thì chết).
    - Khí luôn luân chuyển và biến hóa.
    - Khí còn chỉ tính mệnh của con người như tính khí, khí sắc, thần khí (khí tuyệt thân vong...).

    Còn nữa...
    Shaojiazhuangzhu 韶家庄主 — 韶玉山

  14. The Following 2 Users Say Thank You to thieugia For This Useful Post:

    ngochai (02-01-2014), nha_que (03-01-2014)

  15. #8
    Administrator
    Tham gia ngày
    Dec 2011
    Bài gửi
    2.162
    Thanks
    156
    Thanked 334 Times in 280 Posts
    Thiều gia: Do phông chữ Hán bị lỗi, dù đã cố gắng nhưng vẫn không sao tránh khỏi sai sót. Do vậy, bốn chữ Hán trên kia sẽ có thứ tự là:

    Chữ Tượng = 象
    Chữ Kỳ = 其
    Chữ Liệt = 列
    Chữ Thành = 成
    Shaojiazhuangzhu 韶家庄主 — 韶玉山

  16. The Following 2 Users Say Thank You to thieugia For This Useful Post:

    bach_djen (04-01-2014), ngochai (02-01-2014)

  17. #9
    Senior Member
    Tham gia ngày
    Jul 2012
    Bài gửi
    202
    Thanks
    71
    Thanked 13 Times in 12 Posts
    Từ trước đến nay, có rất nhiều tài liệu nói về các phương pháp dưỡng sinh nói chung và phương pháp tập luyện Khí công nói riêng. Sách vở tuy nhiều, nội dung phong phú đa dạng, nhưng qua quan sát, người viết thấy ngoại trừ một số tài liệu diễn giải minh bạch, tường tận, chỉ rõ cách thức tập luyện của các tác giả uy tín như Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, Giáo sư - Bác sĩ Ngô Gia Hy (phần lớn các tài liệu này nay không thấy tái bản)… còn lại đa phần do cách trình bày không rõ ràng hoặc vì “giấu nghề” nên khiến cho độc giả như lâm vào… ma hồn trận. Tuy có sách trong tay cũng khó lòng thành công trong việc tự học, muốn học chỉ có cách… “tầm sư”! Ở Việt Nam, ngoài một số thành phố lớn, các trung tâm đô thị là nơi “Ngọa hổ tàng long”, việc kiếm thầy dạy học còn khả dĩ, còn lại đại đa là nơi thôn quê hoang dã, thâm sơn cùng cốc, việc “Tầm sư học đạo” được ví như “Mò kim đáy bể”. Sách thì nhiều, trong khi “sư” lại “ẩn”. Nhằm giúp các bạn khắc phục những hạn chế do điều kiện hoàn cảnh, đặc biệt là những người ở thôn quê, nơi không có điều kiện tiếp xúc với sách vở, với thầy; những người nơi đô thị nhưng vì lý do nào đó mà không thể đến lớp tập luyện… tuy không xuất thân trong “Danh môn quí phái”, chỉ bằng kinh nghiệm trên hai mươi năm giảng dạy Võ thuật, Thái cực quyền và tập luyện Khí công nhưng được sự cổ vũ, khích lệ của bạn bè, các huynh đệ đồng môn cùng chút kết quả thu hoạch được trong quá trình tập luyện. Nay xin mạnh dạn biên soạn, trình bày một số kỹ thuật, phương pháp luyện Khí công căn bản với những lập luận, giải thích dễ hiểu, chỉ mong giúp các bạn (nhất là những người bệnh nhưng có ý định dùng đến liệu pháp Khí công) rút ngắn thời gian luyện tập mà vẫn đạt được kết quả khả quan, góp phần nâng cao sức khỏe cộng đồng. Hy vọng sách sẽ là người bạn, người thầy đồng hành cùng bạn trong suốt quá trình tự luyện.
    Trong tập sách, người soạn có sử dụng rất nhiều những trích dẫn, tuy có tham khảo một số huynh đệ đồng môn và đã có huynh đệ phê phán người soạn là “lạm dụng từ ngữ”, “khoe chữ”, “rườm rà” và khuyên nên cắt bớt… Với suy nghĩ đã mất công biên soạn lẽ nào không “dẫn chứng”? Việc đưa ra những trích dẫn không nhằm mục đích “khoe chữ” mà chỉ cốt giúp những ai muốn đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu bộ môn Khí công “cùng biết” để dễ dàng trong việc tìm kiếm tư liệu, khỏi phải lục lọi, uổng phí thời giờ vàng bạc… vì vậy mà người soạn vẫn cố giữ nguyên, vẫn đưa ra những viện dẫn, vì cho rằng nó thật sự cần thiết. Trong tập sách này, người soạn chỉ trình bày những điều cốt yếu không đi sâu vào những chi tiết rườm rà (những vấn đề như tìm hiểu về cơ thể con người, hệ thống kinh lạc, huyệt vị và mối liên hệ giữa cơ thể với khí hậu bốn mùa sẽ không được trình bày trong tập sách), miễn sao ai đọc cũng hiểu, hiểu được lợi ích của việc luyện tập và ai tập cũng thấy có hiệu quả.



    Vẫn biết “Võ lâm như rừng, Anh hùng như lá”, tuy kiến thức còn thiển cận, công phu thô kệch ví như “Ếch ngồi đáy giếng” trong khi các “Cao nhân kỳ sĩ” lại như “Lá rụng mùa thu”… nhưng người soạn vẫn liều! Chỉ mong góp viên đá nhỏ, góp gió thành bão vì sức khỏe chung. Cái… sự liều của soạn giả rất mong được lượng thứ và chỉ giáo của các bậc “Chân sư”.

    Tự luyện tập Khí công “không cần thầy” mà vẫn đạt hiệu quả như mong muốn là mục đích của cuốn sách.

    Xin giới thiệu cùng bạn đọc và chúc các bạn tập luyện thành công!
    Con rất thích đoạn dẫn nhập này của thầy Thiều

  18. #10
    Administrator
    Tham gia ngày
    Dec 2011
    Bài gửi
    2.162
    Thanks
    156
    Thanked 334 Times in 280 Posts
    TỰ LUYỆN TẬP KHÍ CÔNG KHÔNG CẦN THẦY
    气功自练不求师


    Tiếp theo...

    c. Quan niệm về khí trong Khí công

    Khí là bản nguyên của vũ trụ, là vật chất tối căn bản cấu thành vạn vật và vạn vật trong vũ trụ đều sinh ra từ sự vận động biến hóa của khí. Khí sản sinh ra con người, nuôi dưỡng và duy trì sự sống của con người. Vậy khí trong khí công là khí gì?

    Khí trong Khí công được hình thành bởi khí trong không khí tự nhiên tức khí trời và khí trong cơ thể.

    Khí trong cơ thể (tức Nguyên khí, Chân khí hay Chính khí theo như cách gọi của Hoàng đế nội kinh) là thứ khí được hình thành bởi khí Tiên thiên và khí Hậu thiên.


    Danh y Hoa Đà, một bậc thầy về Khí công - cha đẻ của Bát Đoạn Cẩm

    - Khí tiên thiên:

    Khí Tiên thiên (hay còn được gọi là Chân khí, Nguyên khí theo cách gọi, cách phân loại của Trung y), là thứ khí mà con người có được từ trước khi sinh ra đời. Giải thích theo khoa học thì khí Tiên thiên chính là thứ khí trời, khí đất tức khí đã tạo nên sự sống (chỉ có ở hành tinh của chúng ta); khí Tiên thiên còn là “Tinh khí” của cha và “Noãn khí” của người mẹ thông qua quá trình giao hợp mà tạo thành. Khí Tiên thiên đủ, khỏe mạnh, về cơ bản đứa trẻ được sinh ra sẽ khỏe mạnh và ngược lại, nếu khí Tiên thiên bất túc, yếu thì đứa trẻ được sinh ra cũng sẽ yếu ớt, còi cọc, sức đề kháng thường kém và rất dễ nhiễm bệnh tật. Trong trường hợp nguồn Khí Tiên thiên nếu thiếu hụt có thể được bù đắp bằng nguồn khí Hậu thiên và đây cũng chính là trọng tâm tu luyện, là mục đích sự hình thành và phát triển của bộ môn Khí công nói riêng và các phương pháp Dưỡng sinh, các loại hình vận động Thể dục rèn luyện thân thể nói chung.

    - Khí hậu thiên:


    Hình. 1: Sự tiếp thụ, trao đổi Khí hậu thiên giữa cơ thể với môi trường.

    Khí Hậu thiên là thứ khí trong thiên nhiên tức khí trời (thành phần chủ yếu là Nitơ và Oxy chiếm đến 99%). Tất cả vạn vật trong vũ trụ đều phải dựa vào nó để mà tồn tại và phát triển. Với con người, khí Hậu thiên lại càng có sự đóng góp hết sức to lớn đối với sự sống, sự tồn tại phát triển và quá trình tìm hiểu, khai sáng thế giới tự nhiên. Khí Hậu thiên là thứ khí mà ngay từ lúc đứa trẻ vừa ra đời đã hít những hơi thở đầu tiên để bắt đầu cho một cuộc sống mới. Và cũng chính là thứ khí mà mỗi sinh linh (kể cả những người không có khả năng nhận thức) buộc phải tiếp nhận không ngừng nghỉ trong suốt cuộc đời nếu muốn duy trì cuộc sống cũng như các hoạt động tư duy của mình. Con người chỉ ngừng tiếp nhận khí Hậu thiên khi tất cả các hoạt động sống đã bị ngừng trệ và điều đó cũng đồng nghĩa với việc người đó đã đi về với đất, về với cõi vĩnh hằng. Việc tiếp thụ khí Hậu thiên nhằm bổ xung năng lượng cho cơ thể hoạt động được tiến hành không những thông qua ngũ quan cửu khiếu mà còn bằng nhiều cách, nhiều con đường khác nhau như thông qua các lớp mao bì, qua ẩm thực (tiếp thụ tinh vi của ngũ cốc, thủy cốc chuyển hóa mà thành. Hình minh họa. 1), thông qua việc tu luyện...


    Khí tiên thiên có thể được bổ xung thông qua việc thực dưỡng hàng ngày...

    Trong Trung – Y , ngoài việc chia khí thành khí Tiên thiên, Hậu thiên, còn có rất nhiều loại khí như: Dinh khí, Tông khí, Vệ khí, Chân khí và Tà khí. Lại có cả lục khí: Phong khí, Hỏa khí, Hàn khí, Thử khí, Thấp khí, Táo khí v.v…


    Thường xuyên bổ xung nguồn khí Hậu thiên...


    Tóm lại: Khí trong Khí công là thứ khí vô hình mà mỗi cá nhân chỉ có thể cảm nhận được bằng trực giác của mình hay một Y – sư có thể nhận biết qua sắc mặt, cử chỉ của bệnh nhân hoặc thông qua việc bắt mạch mà nhận biết được thần khí của người bệnh thịnh suy thế nào, từ đó đưa ra những phương sách chữa trị cho thật phù hợp và đạt hiệu quả cao nhất. Trong chẩn bệnh, khí có thể được xem là hữu hình (có câu: nhìn sắc biết bệnh, nhìn mắt thấy thần là vậy). Như vậy, nói đến khí trong Khí công chính là nói đến khí Tiên thiên và khí Hậu thiên.

    d. Định nghĩa về Khí công

    Khí công là một bộ môn thể dục vận động rất độc đáo và đậm bản sắc văn hóa của dân tộc Trung Hoa. Khí công là môn Dưỡng sinh có quá trình đúc kết, hấp thụ các tinh hoa văn hóa xuyên suốt mấy ngàn năm phát triển của lịch sử Trung Quốc, từ nền văn minh Hoa Hạ cổ đại, tinh hoa Triết học cổ đại (thuyết âm dương ngũ hành), Y thuật (học thuyết Tạng phủ, Khí huyết tân dịch, Kỳ kinh bát mạch trong Trung – Y, và đây cũng là cơ sở lý luận của phép trị bệnh bằng Khí công), Dưỡng sinh thuật (chủ yếu của Thích gia và Đạo gia), Võ thuật cùng Binh pháp (Đặc dị khí công, Thái cực quyền...). Ngày nay, Khí công được Chính phủ Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa đặc biệt coi trọng và được đánh giá là di sản phi vật thể, là Quốc hồn Quốc túy, là báu vật của Quốc gia.


    Đạt Ma Khí công "Dịch Cân Kinh".

    Khoa học đã chứng minh Khí công rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội nói chung và sức khỏe của cộng đồng nói riêng. Việc thường xuyên tiến hành các biện pháp như tụ khí, dưỡng khí, điều khí, phóng khí… rất có lợi cho việc cải thiện sức khỏe, trong phòng chống bệnh tật (bổ xung phần khí Tiên thiên bất túc) và kéo dài tuổi thọ. Tất cả các loại hình như: Tọa thiền, Đạo dẫn thuật, Yoga (còn gọi là Khí công Ấn độ), Thổ nạp pháp, luyện Đan thuật, Di tinh biến khí pháp, Thăng giáng điều tức pháp, Phục khí thành đan, Chân khí vận hành pháp, Phóng tung công, Bát đoạn cẩm, Ngũ cầm hý, Dịch cân tẩy tủy kinh, Khí công Thái cực quyền, v.v… tuy có khác nhau về tên gọi, cách thức tập luyện nhưng đều chung mục đích: rèn luyện thân thể, tăng cường trí lực, kéo dài tuổi thọ và đều được gọi với danh từ thống nhất là “Khí công”. Vậy hiểu như thế nào là Khí công?

    Xét về mặt từ ngữ: Khí công là phương pháp luyện “khí”. Vì chữ “khí” là chỉ Nguyên khí tức khí trong cơ thể (bao gồm khí Tiên thiên và khí Hậu thiên), còn chữ “công” là chỉ công phu trong quá trình luyện tập (tức công sức, ý chỉ về sự kiên trì, sự bền bỉ, trong đó bao gồm cả phương diện về thời gian, tiền bạc... ví như người Họa sĩ sau khi hoàn thành bức tranh được mọi người đánh giá là vẽ rất đẹp, rất tỉ mỉ và rất công phu).

    Xét về phương diện công năng: Khí công là phương pháp tập luyện nhằm tăng cường và phát huy tính năng động chủ quan của Nội lực, một phương pháp trị liệu đặc biệt hiệu quả đối với công tác phòng và tự chữa bệnh.


    Khí công là phương pháp tập luyện nhằm tăng cường và phát huy tính năng động chủ quan của Nội lực...

    Nói đến khí trong Khí công chính là nói đến “khí trong cơ thể” và “khí trong không khí tự nhiên”. Việc con ng¬ười thông qua các hoạt động hô hấp, ẩm thực hấp thụ khí ngoài tự nhiên vào trong cơ thể một cách chủ động nhằm giúp cho quá trình chuyển hóa năng lượng bên trong cơ thể diễn ra đ¬ược thuận lợi, tạo cho cơ thể có một sinh lực dồi dào, trí lực thông tuệ, giúp cơ thể thích nghi và đáp ứng mọi điều kiện trong suốt quá trình sống của mình. Sự kết hợp của hai thứ khí trên đã tạo ra một thứ khí mới (Khí lực, Trí lực), một sức sống mới có khả năng cải tạo và làm thay đổi hẳn diện mạo ban đầu. Thứ khí mới đó chính là thứ khí mà các nhà Dưỡng sinh xưa nay vẫn thường gọi bằng thuật ngữ “Khí công”.

    Như vậy, ta có thể định nghĩa về Khí công như sau:

    “Khí công” là loại hình vận động được kết hợp một cách chặt chẽ bởi các động tác, tư thức của cơ thể với hơi thở thông qua tam điều (điều Thân, điều Tức và điều Tâm) nhằm phát huy những nội lực tiềm tàng bên trong cơ thể vào mục đích kiện thân tráng cốt, phòng chống, chữa trị tật bệnh và kéo dài tuổi thọ.

    Còn nữa...
    Lần sửa cuối bởi thieugia; 13-01-2014 lúc 11:24 AM
    Shaojiazhuangzhu 韶家庄主 — 韶玉山

  19. The Following User Says Thank You to thieugia For This Useful Post:

    trai_xu_doai (30-07-2015)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •