Hiện kết quả từ 1 tới 6 của 6

Chủ đề: Tìm Hiểu Về Võ Thuật Cổ Truyền Bình Định

  1. #1
    Administrator
    Tham gia ngày
    Jun 2011
    Bài gửi
    227
    Thanks
    15
    Thanked 19 Times in 18 Posts

    Tìm Hiểu Về Võ Thuật Cổ Truyền Bình Định

    BÌNH ĐỊNH - MỘT VÙNG ĐẤT VÕ


    1- Đôi nét về nguồn gốc của võ Bình Định

    Bình Định xưa thuộc đất Việt Thường Thị, sau đổi ra tên đất Lâm Ấp. Thời Chiêm Thành đây là châu Thi-bị. Học giả G.Maspéro cho rằng địa danh Thi-bị được dịch tắt chữ Cri –Vi(Jaya). Châu Vijaya có thành Đồ Bàn là kinh đô Chiêm Thành từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XV. Năm 1470, vua Chiêm Trà Toàn đem quân đánh lấn vùng biên thuỳ phía Nam nước ta là châu Hoá, vua Lê Thánh Tông phải đích thân cầm binh đánh dẹp. Sau chiến thắng của vua Lê Thánh Tông, vùng đất Vijaya sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt năm 1471 với tên gọi là phủ Hoài Nhân thuộc đạo Quảng Nam, bao gồm các huyện Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Năm 1605, chúa Tiên Nguyễn Hoàng đổi tên phủ Hoài Nhân thành phủ Quy Nhơn. Vào năm 1771, nhà Tây Sơn khởi nghĩa, năm 1778 Nguyễn Nhạc xưng đế, xây thành Hoàng Đế trên nền cũ của thành Đồ Bàn, lấy phủ Quy Nhơn làm kinh đô của triều Tây Sơn. Năm 1799 Nguyễn Ánh chiếm Quy Nhơn đổi tên thành Bình Định. Năm 1802 triều Nguyễn (Gia Long) đổi thành làm dinh, đến 1808 đổi dinh làm trấn. Năm 1832, Minh Mạng đổi trấn làm tỉnh - gọi là tỉnh Bình Định.

    Như vậy, Bình Định từng kinh qua vai trò của kinh đô của vương quốc Chiêm rồi mới trở thành vùng biên viễn Đại Việt. Sau khi người Chiêm dời vào Nam, ở đây vẫn còn các sắc dân bản địa: Bana, Chăm H’roi, H’re. Theo sự điều động của triều đình nhà Lê, một số võ quan và các cánh quân được triều đình cắt cử đến đây trấn nhậm, đương nhiên phải là những đơn vị được huấn luyện võ bị kỹ càng. Bình Định trở thành nơi hội tụ của nhiều luồng cư dân mới bao gồm dân nghèo từ miền ngoài, chủ yếu là Thanh - Nghệ - Tĩnh di cư; những dòng họ người Việt hoặc người Hoa rời nơi chôn nhau cắt rốn đến đây lập làng tổng mới; những phạm nhân lãnh án lưu đày. Và đây cũng là nơi những người phiêu tán giang hồ chọn làm đất dừng chân. Họ không chỉ mang theo hành lý, của cải, mà còn mang theo cả những ký ức sâu thẳm trong hội hè đình đám, trong lời ca tiếng hát, trong cách đối nhân xử thế, trong miếng võ phòng thân.

    Với đặc điểm lịch sử, địa lý và dân cư như vậy, đời sống của người Bình Định xưa đã diễn ra trong sự nâng đỡ đầy hào phóng và cả sự thử thách lớn lao của Đất Mới. Suốt một thời kỳ dài trong lịch sử, Bình Định là đất phên giậu, là chốn biên thùy phía Nam của Tổ quốc, một miền đất đầu sóng ngọn gió với vô vàn thử thách, hoang vu và bất trắc. Hiện thực ấy buộc những lớp cư dân Việt đầu tiên của Bình Định phải căng mình ra để tồn tại, hơn thế nữa, để xác lập tư thế chủ nhân, không chỉ là người chủ của số phận mình, mà còn là người chủ đất nước. Trong công cuộc khẩn hoang đối mặt với thiên nhiên và dã thú hay trong những cuộc chạm trán giữa các lực lượng đối kháng, giữa người lương thiện và kẻ cướp, giữa chính nghĩa và phi nghĩa, võ đã hình thành. Tích hợp từ nhiều nguồn, võ Bình Định đã xác lập qua hàng trăm năm chọn lọc, lưu truyền, chảy trong dòng chảy của lịch sử và trở thành một trong những hệ giá trị đặc trưng cho vùng đất.

    2- Một số võ nhân nổi tiếng vinh danh võ cổ truyền Bình Định qua các thời kỳ:
    Một nền võ học được xác lập không chỉ bằng hệ thống lý thuyết và các bộ môn, các chiêu thức thực hành, mà phải nói đến các võ nhân mà tên tuổi đã vượt khỏi đường viền của một tiểu vùng văn hoá, được giới võ học trong nước biết đến như những đại diện của võ cổ truyền Bình Định.
    Tương ứng với các thời kỳ lịch sử là các giai đoạn phát triển của võ Bình Định. Chúng tôi tạm chia: Thời kỳ trước Tây Sơn, thời kỳ Tây Sơn, thời kỳ nhà Nguyễn, thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, thời kỳ sau 1975 đến nay.

    2.1- Thời kỳ trước Tây Sơn:
    Giai đoạn từ 1471 đến 1558 (thế kỷ XV-XVI): nơi đây có nhiều võ tướng được triều đình cử đến trấn nhậm, nhưng không thấy sử sách lưu danh. Năm 1558, Nguyễn Hoàng theo lời sấm “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” của Trạng Trình vào Nam, bắt đầu thời Trịnh - Nguyễn phân tranh. Các chúa Nguyễn rất chăm lo chính sự, thu phục nhân tâm, củng cố binh lực tạo thế đối đầu với chúa Trịnh nên nhiều nhân tài văn võ có cơ hội cống hiến. Đất Việt mở rộng dần về phương Nam. Phủ Quy Nhơn đã thành một vùng trù phú. Hồi bấy giờ ở đây nổi danh võ nghiệp có Khám lý quận công Trần Đức Hoà, Nguyễn Hữu Tiến, Trương Đức Thường... Họ không chỉ giỏi võ, mà còn là các danh nhân rường cột của một thời, Trần Đức Hoà là một nhà cai trị giỏi, biết trọng hiền tài. Chính ông là người tiến cử Đào Duy Từ cho chúa Sãi.

    Sang thế kỷ XVII, sự phân hoá mạnh mẽ trong xã hội phong kiến phân quyền cùng với chiến tranh liên miên đã dẫn đến tình trạng ngân khố suy cạn, sản xuất đình đốn. Một số quan trên vơ vét bóc lột, nhân dân đói rách lầm than. Giặc giã, trộm cướp nổi lên khắp nơi. Cuộc khởi nghĩa nông dân do Chàng Lía lãnh đạo là một trong các cuộc nổi dậy sớm nhất của nhân dân chống áp bức bóc lột trong lịch sử nước ta. Chàng Lía tên thật là Võ Văn Doan, quê ở huyện Phù Ly: “ Có người ở phủ Quy Nhơn, ở Phù Ly huyện gần miền Bích Khê” (Vè Chàng Lía). Cha mất sớm, mẹ đưa Lía về quê ngoại ở làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn- tức thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn bây giờ.

    Dưới con mắt của triều đình phong kiến, cuộc nổi dậy này bị coi là “giặc”, và nghĩa quân bị coi là một đám cướp. Nhưng trong thực tế, Lía và những người cộng sự của ông đã hoạt động với tinh thần hiệp sĩ: chỉ tấn công và trừng trị những quan tham và nhà giàu độc ác sách nhiễu dân chúng, thực hiện phương châm “Lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo”. Vì vậy, dân nghèo, đặc biệt là nông dân, theo Lía rất đông. Bằng võ công thượng thặng, Lía đã thu phục được đảng trưởng đảng cướp Truông Mây là Cha Hồ, Chú Nhẫn. Nghĩa quân của Lía ngoài căn cứ ở Bá Bích (Tây Sơn), có thêm căn cứ Truông Mây (Hoài Ân), mở mang thanh thế, làm chủ một vùng rừng núi liên mảng phía tây phủ Quy Nhơn, khiến cho bọn tham ô lại phấp phỏng, quân triều đình ăn không ngon ngủ không yên.

    - Giai đoạn chuẩn bị cho phong trào Tây Sơn (Đầu thế kỷ XVIII): Chính quyền phong kiến càng lúc càng bộc lộ sự thối nát. Ở Đàng Ngoài chúa Trịnh lấn hiếp vua Lê, ăn chơi xa xỉ. Ở Đàng Trong chúa Nguyễn bị quyền thần Trương Phúc Loan thao túng, chính sự tan nát. Trung thần bị bức hại, liên lụy người thân. Dân tình khổ sở, lòng người ly tán. Một vài người mẫn cảm với thời cuộc đã tiên đoán và kỳ vọng về một cuộc thay đổi long trời lở đất. Họ không quay lưng che mặt mà tích cực nhập thế, đem hết tâm huyết đào tạo nhân tài cho vận hội mới, được người đời xưng tụng là Tây Sơn tứ danh sư: Đinh Văn Nhưng, Diệp Đình Tòng, Trương Văn Hiến, Trần Kim Hùng.

    Tổ tiên Đinh Văn Nhưng người miền ngoài, từng theo vua Lê cầm quân trấn giữ phương Nam, khi cáo lão bèn đưa gia quyến vào đây khai khẩn đất hoang, ruộng đất của cải nhiều vô kể, nhưng không rõ uẩn khúc gì, lập lời nguyền không cho con cháu bước chân vào chốn quan trường. Buổi đầu Hồ Phi Tiễn- nội tổ của Tây Sơn tam kiệt- từ Nghệ An vào Quy Nhơn lập nghiệp, đã nhận được sự giúp đỡ của họ Đinh. Đinh Văn Nhưng là thầy dạy võ đầu tiên của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Tây Sơn tam kiệt dựng cờ khởi nghĩa, ông đem rất nhiều thóc lúa, tiền bạc và cả trường ngựa Bằng Châu hiến tặng.

    Diệp Đình Tòng nguyên là một võ quan triều Lê, chán cảnh chúa Trịnh lấn bức vua Lê, giũ áo từ quan, vân du qua nhiều ngọn núi. Về già ông trú ngụ vùng núi thượng nguồn sông Kim Sơn thuộc phủ Quy Nhơn, thu nhận Trần Quang Diệu làm đồ đệ, truyền dạy võ nghệ, sở trường môn đại đao.

    Trương Văn Hiến, quê ở Hoan châu (Nghệ An), là em họ quan đại thần Trương Văn Hạnh- một trung thần chống đối Trương Phúc Loan, bị tên này bắt giết cả nhà. Trương Văn Hiến phải cải trang đi trốn. Trên đường lưu lạc, ông đã chọn đất An Thái làm nơi dừng chân và mở trường đào tạo cả văn lẫn võ. Học trò ông là những người xuất chúng, hoặc trở thành lãnh tụ hoặc trở thành danh tướng, danh sĩ Tây Sơn: Tây Sơn tam kiệt Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ - Nguyễn Lữ, Đại tư đồ Võ Văn Dũng, Đại đô đốc Đặng Văn Long, Đô đốc Phan Văn Lân, Phò mã Trương Văn Đa, anh em Nguyễn Văn Huấn, Nguyễn Văn Danh quê Quảng Ngãi (tác giả bộ sử Tây Sơn thư hùng ký) , Huỳnh Văn Thuận quê Mộ Đức (tác giả bộ Binh pháp Tây Sơn)…

    Võ sư Trần Kim Hùng, võ nghệ tuyệt luân, về già lập gánh mãi võ để tìm hiền đồ. Trước khi gặp ông, Nguyễn Văn Tuyết là một tay anh chị hoạt động ở chợ Gò Chàm. Ông đã cứu vớt Nguyễn Văn Tuyết khỏi cuộc sống bụi lầm vô lại, đào tạo Nguyễn thành một trang võ hiệp. Nguyễn Văn Tuyết sau theo giúp Nguyễn Huệ, thành đại đô đốc Tây Sơn, có công đại phá quân Thanh.

    Ngoài ra còn có thể kể hai thầy học của nữ tướng Bùi Thị Xuân: Một là Ngô Mãnh người Thanh Hoá, nguyên Đô thống triều Lê, biết chúa Trịnh ghét và có ý muốn trừ mình, bèn mang theo cháu trai là Ngô Văn Sở vượt biển vào Nam. Trong những ngày du thực lang thang hai ông cháu được Bùi Công (cha Bùi Thị Xuân) ở Tây Sơn cho tá túc. Cảm ơn tri ngộ, Ngô Mãnh đem hết sở học truyền dạy cho Bùi Thị Xuân. Hai là một bà lão họ Nguyễn ở An Vinh, đêm đêm đến dạy nữ tướng Bùi Thị Xuân luyện kiếm.

    Còn nữa...

  2. #2
    Administrator
    Tham gia ngày
    Jun 2011
    Bài gửi
    227
    Thanks
    15
    Thanked 19 Times in 18 Posts
    Tìm Hiểu Về Võ Thuật Cổ Truyền Bình Định



    Tiếp theo...


    2.2- Thời kỳ Tây Sơn:
    Dưới ngọn cờ khởi nghĩa của Tây Sơn tam kiệt - Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, là sự quần tụ của những anh tài võ học gánh vác sứ mệnh cứu nước, được người đời tôn vinh bằng các danh xưng: Tây Sơn thất hổ tướng, Tây Sơn lương tướng, Tây Sơn ngũ phụng thư.

    - Tây Sơn thất hổ tướng: Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Tuyết, Lý Văn Bưu, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Lộc.- Tây Sơn lương tướng: Đặng Văn Long, Đặng Xuân Phong, Ngô Văn Sở, Nguyễn Quang Thuỳ, Trương Văn Đa, Phan Văn Lân, tù trưởng Bok Kiơm, Cô Hầu (vợ Nguyễn Nhạc), Nguyễn Bảo, Lê Trung, Nhưng Huy, Tư Linh, Phạm Cần Chính…- Tây Sơn ngũ phụng thư: Bùi Thị Xuân, Huỳnh Thị Cúc, Trần Thị Lan, Bùi Thị Nhạn, Nguyễn Thị Dung.Thiết tưởng cũng cần nói thêm rằng thời bấy giờ, Nguyễn Ánh trong thế đối kháng với Nhà Tây Sơn, cũng đã chiêu tập một số anh tài trong làng võ Bình Định như Châu Văn Tiếp, Phạm Văn Sĩ, Lê Chất... Và họ cũng trở thành các tướng lĩnh rường cột của Nhà Nguyễn.
    Thời kỳ Tây Sơn võ thuật đạt đến cao trào trong ý nghĩa quật cường và chính khí của một phong trào lịch sử bão táp, thực hiện sứ mệnh cứu dân cứu nước. Sự xuất hiện của hàng loạt võ nhân xuất sắc ở cương vị tướng lĩnh lãnh đạo nghĩa quân Tây Sơn lập nên những chiến công vang dội, lật đổ các tập đoàn phong kiến thối nát Trịnh - Nguyễn, đánh tan 5 vạn quân Xiêm, 29 vạn quân Thanh. Tên tuổi các võ nhân anh hùng của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn mà tiêu biểu là vị anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ đã đi vào lịch sử. Nội hàm mấy chữ võ Tây Sơn không khép kín như một địa danh cụ thể mà được hiểu là võ thuật của một vùng đất, một phong trào vĩ đại, một triều đại huy hoàng trong lịch sử Việt Nam.

    2.3- Thời kỳ nhà Nguyễn:
    Giai đoạn đầu, các đời vua Gia Long, Minh Mạng chủ trương tận diệt Nhà Tây Sơn và trấn áp các phong trào yêu nước liên quan đến Tây Sơn, do đó võ thuật ở Bình Định nói chung và ở đất Tây Sơn nói riêng bị bóp nghẹt. Những người liên quan đến vua tôi, tướng lĩnh, nghĩa quân Tây Sơn đều bị bắt giết theo nghĩa “làm cỏ”. Sử sách Tây Sơn, trong đó bao gồm nhiều pho võ kinh, võ lý bị đốt sạch. Ngục văn tự đè nặng hàng mấy chục năm ròng. Nhưng trong lòng người Bình Định nói chung, người Tây Sơn nói riêng, ánh hào quang rực rỡ của một triều đại anh hùng vẫn không tắt. Đại tư đồ Võ Văn Dũng sau khi vượt ngục đã tìm hai con trai nhỏ của Nguyễn Nhạc là Nguyễn Văn Đức và Nguyễn Văn Đẩu, đưa lên Tây Sơn thượng sống trong các buôn làng của đồng bào dân tộc, tập hợp lực lượng, truyền dạy võ nghệ với hy vọng khôi phục Nhà Tây Sơn. Quan quân triều Nguyễn dò biết nhưng lần nào đem quân truy bắt cũng đều bị thất bại. Chúng bèn dùng kế ly gián, cho bọn gian trà trộn vào hàng ngũ nghĩa quân, tìm chỗ hở gây sự hiểu lầm sâu sắc giữa đồng bào với nghĩa quân. Một hôm Võ Văn Dũng có việc đi vắng, bọn gian thừa cơ bắt trói hai con trai Nguyễn Nhạc nộp cho quân Nguyễn. Nghĩa quân phần sợ Võ Văn Dũng về hỏi tội, phần lo quân Nguyễn tấn công, tự rã ngũ. Buồn vì mưu sự không thành, Võ Văn Dũng bỏ lên Núi Xanh biệt tích. Sự đỗ vỡ đau đớn này được người đời sau gói ghém trong mấy vần ca dao cổ:

    Củ lang Đồng Phó,
    Đỗ phộng Hà Nhung,
    Chàng bòn thiếp mót đổ chung một gùi
    .
    Chẳng qua duyên nợ sụt sùi,
    Chàng giận chàng đá cái gùi chàng đi.
    Chim kêu dưới suối Từ Bi,
    Nghĩa nhân còn bỏ, tiếc chi cái gùi
    .

    Không riêng gì Võ Văn Dũng, nhiều tướng sĩ Tây Sơn vẫn ôm lòng nhớ thời oanh liệt cũ, nhưng tự lượng không đủ sức để xoay chuyển thời cuộc, nên họ đành mai danh ẩn tích. Đô đốc Đặng Văn Long, Đô đốc Nguyễn Văn Lộc tâm niệm đi theo cờ nghĩa Tây Sơn chính là để thực hiện sứ mệnh cứu nước, chứ không phải phục vụ mưu đồ thâu tóm thiên hạ cho một dòng họ, nay thời vận Nhà Tây Sơn đã hết, mọi cố gắng làm cho dài cơn binh lửa chỉ khiến nhân dân thêm khổ. Vì vậy hai ông đã từ chối lời mời hợp tác của Võ Văn Dũng. Có điều, làm thân hạc nội mây ngàn, nhưng khí tiết con nhà võ không hề mất. Và những thế võ huyền diệu mang linh khí Tây Sơn vẫn chập chờn trong trăng trong gió, trên đồi cuối vực. Những cuộc hạnh ngộ sư đệ và lưu truyền tâm pháp, võ thuật vẫn diễn ra khi thì bên khe núi vắng, khi thì dưới một mái hiên chiều hay một vườn chùa u tịch. Ở Bình Định trong những năm dài nặng nề u uẩn ấy, việc dạy võ và truyền khẩu quyết trong buồng kín là chuyện có thật.

    Võ Bình Định được lưu giữ bằng tim óc, bằng hồn vía, là ngọn lửa ngầm âm ỉ trong dân gian.
    Nhờ vậy mà đến giai đoạn sau, Bình Định vẫn có người thi đỗ tạo sĩ võ (tương đương tiến sĩ bên văn).

    Thời Cần Vương, có người mặc áo quan văn nhưng khi cần, thoắt một cái đã cầm lấy cung kiếm đao thương, giơ roi giục ngựa cứu nước hộ dân. Đào Doãn Địch, Mai Xuân Thưởng, Lê Thượng Nghĩa, Đặng Đề, Nguyễn Trọng Trì... là những trường hợp như vậy. Riêng Lê Thượng Nghĩa đã dẫn hàng trăm môn đồ của mình đầu quân dưới cờ Mai Xuân Thưởng. Hiện tượng một lò võ trở thành lực lượng nòng cốt của một phong trào như vậy không phải là hiếm ở Bình Định. Lãnh tụ của các phong trào yêu nước chống Pháp tại Bình Định, Phú Yên và một số tỉnh Nam Bộ cũng là các võ nhân quê Bình Định: Võ Trứ , Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương...
    Cuối thời Nguyễn, các võ nhân Bình Định xuất sắc còn lưu danh tiếng có thể kể: Phạm Văn Lý, Võ Văn Trừ, Lê Đình Lý, Trần Trực, Trần Tân, Trần Diệu ... Mỗi người, dù mặc áo vải hay áo giáp, đi giày cỏ hay giày da, đều thực hiện cái lý cao nhất của võ đạo là đánh giặc cứu nước cứu dân.

    Còn nữa...

  3. #3
    Administrator
    Tham gia ngày
    Jun 2011
    Bài gửi
    227
    Thanks
    15
    Thanked 19 Times in 18 Posts
    Tìm Hiểu Về Võ Thuật Cổ Truyền Bình Định



    Tiếp theo...

    2.4- Thời kỳ cận – hiện đại:

    Đây là thời kỳ hưng thịnh trở lại của võ Bình Định, hình thành các dòng võ lớn nổi tiếng về đặc trưng chuyên môn riêng. Tiền đề của các dòng võ, phải kể đến các danh sư như Bầu Đê ở Tuy Phước chuyên đánh trường tiên (roi dài), Đội Sẻ ở An Thái nổi danh về quyền cước, Lê Thị Huỳnh Hà ở Tây Sơn sở trường roi Kinh. Cũng cần nói thêm rằng đây là thời kỳ gia tài võ thuật Bình Định không ngừng được bổ sung bởi các một số nhân vật từ phương xa vì một lý do nào đó đã chọn Bình Định làm chốn nương thân dưới lốt thương nhân, thầy đồ. Đó là trường hợp Khách Bút ở Kiểng Hàng - một người lầm lũi hiền lành nhưng đã từng khua đòn gánh, ném mâm đồng vượt vòng vây hàng trăm võ sĩ một cách ngoạn mục. Đó là Hồ Khiêm với đường roi Lạc côn danh bất hư truyền. Đó là trường hợp một người bạn của Hồ Đức Phổ vốn là tạo sĩ võ, tham gia phong trào Cần Vương, bị triều đình truy nã, đã tìm tới Thuận Truyền ẩn náu như môn khách của Hồ gia.
    Lịch sử với những khúc quanh bất ngờ và những cuộc hội ngộ kỳ lạ đã ban cho Bình Định những bậc chân tài võ học. Họ đã đem hết tâm huyết truyền nghề và đào tạo nên một lớp võ nhân xuất sắc: Lê Công Trì (tức Hương lễ Nghè), Ba Đề, Năm Nghĩa, Lâm Đình Thọ (tức Hương kiểm Lài), Đoàn Phong, Mười Kinh, Nguyễn Ngạc (tức Hương mục Ngạc) và Hồ Nhu (tức Chín Ngạnh). Trong thế hệ thứ hai này không thể không kể tới một võ nhân kiệt xuất nữa làDiệp Trường Phát (Tàu Sáu), người Việt gốc Hoa, được cha mẹ gửi về Trung Quốc học võ rồi mới về lại An Thái.Thế hệ thứ ba của thời kỳ này là những đại danh như Bảy Lụt, Tám Cảng, Chín Giác (tức Hương kiểm Cáo), Hương kiểm Mỹ, Hai Tửu, Mười Đậu, Bầu Năm, hương kiểm Cương, Xã Nung, Lê Bá Cừu, Lê Thành Phiên, Tạ Thức, Dư Trốn, Hồ Tiền,...Truyền thống võ học Bình Định tiếp tục được duy trì bởi các võ sư Phan Thọ, Văn Xuân Ngọc, Trần Dần của An Vinh; Sáu Được, Dương Công Đạo, Hồ Sừng, Phan Canh, Bộ Trọng, Mai Xuân Thiện của Thuận Truyền; Hà Trọng Sơn, Phi Long Vịnh, Hàm Hữu Nghĩa của Tuy Phước; Lâm Đình Phú của An Thái, Lý Thành Nhân của Phương Danh (An Nhơn). Tiếp theo đó là Lý Xuân Hỷ, Đinh Văn Tuấn, Hồ Sơn Kỳ, Kim Dũng, Phan Sơn, Hồ Cương, Kim Thanh, Phan Trường Hận,... và miền đất võ vẫn còn là bệ phóng của muôn vàn người lớp sau.Tính từ 1471 đến nay, hơn năm thế kỷ trôi qua, giới võ học Bình Định đã lần lượt xuất hiện hàng vạn người làm vinh danh các làng võ cội nguồn bằng tấm lòng son sắt và chân tài thực học. Họ đi qua thế gian này, kẻ thoáng chốc, người lâu dài nhưng tiếng thơm còn lan truyền mãi. Cũng có thể hình dung nền võ học Bình Định là một cánh rừng nhiều thế hệ, mà võ nhân đông đúc tựa những lứa cây bám rễ vượt lên và toả bóng trên mặt đất. Cánh rừng – võ lâm Bình Định tàng ẩn trong nó trùng trùng huyền thoại.

    Còn nữa...

  4. #4
    Administrator
    Tham gia ngày
    Jun 2011
    Bài gửi
    227
    Thanks
    15
    Thanked 19 Times in 18 Posts
    Binh Khí & Các Loại Hình Võ Thuật của Võ cổ truyền Bình Định


    1- Võ có vũ khí

    Giống như những bộ môn võ thuật cồ truyền khác, võ thuật cổ truyền Bình Định ngoài kỹ năng quyền cước còn đặc biệt chú trọng đến việc sử dụng binh khí. Võ thuật cổ truyền Bình Định cũng gồm Thập Bát Ban Võ nghệ tương ứng với 18 món binh khí như: côn, kiếm, đao, thương, giáo, kích, xà mâu, đinh ba, bồ cào, thiết bản, song tô, song xỉ, song câu, bút, phủ (búa), chuỳ, cung tên, lăn khiên.

    1. Roi: làm bằng gỗ, tre, mây, cũng có khi làm bằng kim loại, chia làm trường côn và đoản côn. Trường côn là roi dài gồm hai thứ là roi đấu (trường tiên) dài khoảng 3m và roi chiến (trung bình tiên) dài khoảng 1,5m. Roi đấu dùng để đánh trên ngựa. Roi chiến dùng để đánh dưới đất. Đoản côn là roi ngắn. Còn có một loại côn nữa là côn nhị khúc, làm bằng hai thanh gỗ cứng hoặc kim loại dài bằng nhau, nối với nhau bởi một sợi dây dài tết bằng tóc người hoặc bằng lông đuôi ngựa. Loại côn này gọn, mạnh, thích hợp cho lối đánh gần, có thể đổi tay phải tay trái tùy ý. Khi đánh dùng một thanh làm trụ, đánh bằng thanh kia, phóng ra thu về, biến hoá linh hoạt.


    2. Kiếm: gồm chuôi kiếm, lưỡi kiếm và bao kiếm. Phần lưỡi dài, phiến dẹt, bề rộng chừng 3 - 4cm, cạnh mảnh và cực bén, rèn bằng kim loại tốt như sắt, thép, hợp kim. Phần chuôi bằng gỗ, có khi cán cũng được đúc bằng kim loại hoặc mạ vàng, chạm trỗ rất đẹp. Vỏ kiếm được chế tạo cũng bằng kim loại mỏng và cứng, dùng để bao ngoài lưỡi kiếm, một đầu kín một đầu hở khi gài vào ăn khớp với cổ chuôi kiếm. Kiếm thuộc hàng vũ khí thanh nhã, sang trọng, được rèn theo yêu cầu của người sử dụng. Thường phải đảm bảo ba yếu tố: sắc bén, đẹp, có độ nặng, độ dài phù hợp với sức vóc người cầm.

    Kiếm lệnh là kiếm chỉ huy, lược trận, phân biệt với kiếm trận ở chỗ kiếm lệnh lưỡi cong, còn kiếm trận lưỡi thẳng. Lại tùy theo độ dài ngắn mà phân thành trường kiếm và đoản kiếm. Trường kiếm độ dài xê dịch trong khoảng 1,2m - 1,5m, có thể giao tranh trên mặt đất hoặc trên ngựa đều tiện lợi. Đoản kiếm là kiếm ngắn, từ chuôi đến ngọn dài chừng năm, bảy tấc, thích hợp với lối đánh cận chiến, giáp chiến. Thường con nhà võ chỉ tuốt kiếm khỏi bao khi giao đấu. Trong giao đấu, vỏ kiếm cũng là một vũ khí để đánh, đỡ, gạt, hất rất lợi hại. Tuy vậy, cũng có không ít những thanh kiếm để trần.



    Thời chống Pháp trở về trước, kiếm là môn binh khí rất phổ biến trong võ thuật Bình Định. Nữ tướng Bùi Thị Xuân chuyên đánh song kiếm. Ở Bảo tàng Quang Trung hiện còn lưu bức tranh Bà cưỡi voi trận, tay cầm song kiếm, uy phong lẫm liệt.

    3. Đao: có cán bằng gỗ cứng, lưỡi đao càng về phía trước càng to bản, được vát hơi cong dần về phía mũi. Về chủng loại có đơn đao, song đao, đại đao, phác đao. Đại đao là vũ khí nặng, cán dài. Người sử dụng đại đao phải có sức vóc hơn người. Triều Tây Sơn có bốn người nổi tiếng về đại đao là Nguyễn Huệ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu và Đặng Văn Long. Đặc biệt là Võ Văn Dũng, tài sử đao của ông được Nguyễn Nhạc khen ngợi: “Phá sơn trung tặc dị, thắng Văn Dũng đao nan” nghĩa là Phá giặc trong núi dễ, thắng ngọn đao Văn Dũng mới khó.

    4. Thương: là vũ khí dài, cán làm bằng gỗ cứng, ở đầu có mũi hình thoi nhọn ở đầu đúc bằng sắt. Cách dùng côn và thương về căn bản giống nhau, nhưng côn thiên về đả, tức đánh xuống, còn thương thiên về đâm.

    5. Giáo: là loại vũ khí dài khoảng 2 - 2,5m bằng một loại tre đực đặc ruột có đầu vót nhọn bịt kim loại, dùng trong trận mạc. Cách đánh như côn, nhưng lợi thế hơn ở chỗ có mũi nhọn để đâm. Tương truyền đây là vũ khí đắc dụng của nghĩa binh Mai Xuân Thưởng, vì vùng nông thôn Bình Định rất sẵn tre.

    6. Kích: là vũ khí dài, cán bằng gỗ cứng hoặc đúc bằng kim loại nặng. Phương thiên hoạ kích có một mũi nhọn ở giữa giống ngọn giáo, hai bên là hai vành đao lưỡi liềm day lưng vào nhau. Bán thiên kích thì chỉ có mũi nhọn với một vành đao lưỡi liềm. Kích nặng ở đầu nên sử dụng không được linh động như thương.

    7. Xà mâu: là loại vũ khí dài, nhọn, phần trên cùng đúc kim loại uốn khúc như hình rắn.

    8. Đinh ba: Là loại vũ khí cán dài, một đầu tra lưỡi sắt có ba răng nhọn xỉa thẳng về trước. Đinh ba vận dụng các chiêu thức của côn, thiên về phóng, đâm, xóc.

    9. Bồ cào: Cũng là vũ khí cán dài, một đầu tra lưỡi sắt hình răng lược, giống như cái cào cỏ ở nông thôn Bình Định. Bồ cào cũng vận dụng chiêu thức của côn nhưng lại thiên về đập, giật.

    10. Thiết bản: là một thanh kim loại vuông cạnh, dài chừng 1m, tiện dụng ở chỗ gọn gàng, con nhà võ có thể giắt bên hông hoặc sau lưng khi di chuyển.

    11. Song tô: là hai lưỡi dao thép to bản, ở cán cầm có phần bảo vệ tay. Thích hợp đánh cận chiến.

    12. Song xỉ: Song xỉ là vũ khí dùng cho hai tay, gồm hai thanh sắt dài, hai đầu nhọn như lưỡi dao găm, phần thân bo theo cánh tay từ chỏ ra bàn tay, phía chỏ có dây da quấn vào bắp tay, phía trước có đai sắt để luồn bàn tay vào cầm cho chắc. Đặc điểm riêng của song xỉ là gọn, sắc, mạnh, thích hợp lối đánh gần, đòi hỏi người sử dụng phải tinh mắt, giỏi quyền cước, di chuyển mau lẹ.

    13- Song câu: là vũ khí đôi gồm các phần câu, phần hộ thủ, phần lưỡi được đúc liền nhau. Phần câu cong như rựa quéo, để móc, hãm vũ khí hoặc một số vùng trên cơ thể địch thủ như cổ, vai, cổ tay, cổ chân, bắp đùi, hông... Phần thân giống như lưỡi kiếm. Chuôi cầm được bọc vải, da hoặc gỗ, có một lưỡi liềm để bảo vệ tay, gọi là phần hộ thủ. Song câu được sử dụng biến ảo linh hoạt, thích hợp lối đánh vừa công vừa thủ.

    14. Bút: Đúc bằng kim loại nặng, dài khoảng 5-7 tấc, phần cán tròn, đặc ruột, phần ngọn hình búp sen, cuối cán có sợi dây để buộc vào cổ tay người sử dụng, sau khi phóng ra có thể thu về. Dùng đôi gọi là song bút, dùng đơn gọi là độc bút.

    15- Búa (phủ): Búa là loại vũ khí gần giống với rìu chặt cây của tiều phu. Cán búa làm bằng gỗ cứng dài chừng một cánh tay. Lưỡi búa đúc hoặc rèn bằng sắt, thép tốt, rất nặng. Búa đơn gọi là độc phủ, búa đôi gọi là song phủ. Những chiếc búa đặc biệt trên sống còn được chạm đầu hổ hay đầu rồng rất tinh vi, gọi là hổ đầu phủ hoặc long đầu phủ. Chiêu thức của búa gồm các đòn ngắn, mạnh, trực diện, khả năng sát thương kẻ địch rất lớn, thích hợp với lối đánh thấp, cận chiến, trên bộ. Người sử dụng búa phải có sức lực hơn người, thân pháp cực kỳ mau lẹ.

    16- Chuỳ: là loại vũ khí có tay cầm ở giữa là một thanh gỗ cứng hoặc kim loại, hai đầu là hai khối kim loại (sắt, thép, đồng) đặc ruột hình thuẫn hoặc hình tròn, ngoài mặt đúc nổi gai lục giác hoặc xẻ cạnh khế. Bề ngang có đường kính chừng 10 – 15cm. Chuỳ cũng có chùy đơn và chuỳ đôi.

    17. Cung: Cung đầu tiên là công cụ săn bắn, sau mới thành vũ khí chiến đấu. Thân cung và hai cánh cung làm bằng gỗ cứng, có khi là gốc tre lâu năm. Giữa thân cung có rãnh lắp tên. Đầu hai cánh cung được khoét lỗ tròn hoặc đính khuy sắt để căng dây cung. Dây cung thường làm bằng gân trâu hoặc một loại sợi đặc biệt dẻo và cứng, có tính đàn hồi cao, khi kéo mạnh sẽ làm cánh cung cong lại, tạo sức bật đẩy mũi tên bay xa. Tên làm bằng gỗ cứng hoặc tre già, mũi vót nhọn. Về sau, người ta bịt kim loại ở đầu mũi tên hoặc đúc tên sắt, tên đồng để tăng hiệu lực, xuyên thủng được vật cứng.


    Môn bắn cung phải qua nhiều giai đoạn tập luyện: giương cung, nhắm đích, quỳ bắn, đứng bắn, dưới đất, trên ngựa. Mục tiêu bắn cũng đa dạng: từ gần tới xa, từ cố định đến di động. Lại được dạy các mánh khóe đánh lừa kẻ địch như giương đông kích tây, giương nam kích bắc v.v. Người bắn cung giỏi có thể bắn chim đang bay, hoặc còn nói trước được mình sẽ bắn rơi con thứ mấy trong đàn. Nổi danh về bắn cung ở Tây Sơn xưa từng có La Xuân Kiều, Đặng Xuân Phong, Lý Văn Bưu.

    18- Lăn khiên: Khiên là một tấm chắn bằng gỗ hoặc đan bằng cật tre, mây, dùng để đỡ gạt trong khi giao chiến, nhất là trong đánh trận, công thành. Nghĩa quân Tây Sơn rất thành thạo môn lăn khiên - một tay cầm khiên để hứng tên bắn từ xa hoặc đỡ gươm giáo khi đánh xáp lá cà, trong khi tay kia sử dụng một vũ khí khác để tấn công kẻ địch.



    Ngoài ra ở vùng Bình Định còn thông dụng các loại vũ khí như rựa quéo, lao, đòn xóc, nạng, ná, khăn xéo, dù. Rựa quéo giống như cái rựa thường, sống rựa dày, lưỡi dài và to bản có mấu quéo lại ở đầu để giật, kéo. Chỉ khác rựa thường ở chỗ cán rất dài, vừa là công cụ lao động, vừa là một đoản côn khi cần. Lao cấu tạo như giáo nhưng ngắn hơn, thân lao dài chừng 1,2 - 1,5 m, dùng để phóng tầm xa, phổ biến trong săn bắn của đồng bào các dân tộc thiểu số. Khăn xéo là vật tùy thân của người Bình Định xưa, làm bằng vải ta, thường vắt trên vai, dùng để chặm mồ hôi, lau mặt, che nắng; trong tay con nhà võ, nó trở thành một ngọn “nhuyễn tiên” lợi hại. Dù (hay ô) là vật dụng che nắng mưa khi đi đường, gặp khi bất trắc nó trở thành vũ khí lợi hại, có thể đâm kẻ địch bằng mũi như một ngọn giáo ngắn; có thể quật, đập, đả như côn; lại có thể móc cổ giật cho kẻ địch té nhào.


    Còn nữa...

  5. #5
    Administrator
    Tham gia ngày
    Jun 2011
    Bài gửi
    227
    Thanks
    15
    Thanked 19 Times in 18 Posts

    Tiếp theo...

    2- Võ tay không (quyền thuật)

    Bao gồm tất cả các môn võ không trang bị vũ khí, chỉ dùng tay chân, chia làm cương quyền và nhu quyền, với kỹ thuật từ đơn giản đến phức tạp, bao gồm đòn công và đòn thủ. Những bài cương quyền dùng sức mạnh với mục đích tấn công áp đảo, đè bẹp đối phương nhanh. Nhu quyền hay miên quyền thể hiện những động tác thoạt nhìn mềm mại, bay bướm nhưng khi phát kình thì uy lực rất lớn. Nguyễn Lữ tự biết thể chất mình yếu ớt nên đã chọn miên quyền để luyện công, như ông từng viết trong lời thiệu bài Hùng kê quyền: “Nhu cương cường nhược tận kỳ trung”, nghĩa là mềm, cứng, mạnh, yếu đều đưa hết ra dùng.



    Quyền lợi hại ở chỗ có thể không để dấu tích bên ngoài nhưng lại gây chấn thương mạnh bên trong, nếu đánh vào các yếu huyệt có thể làm đối phương chết ngay hoặc mang trọng bệnh mà không tìm ra người biết cách giải huyệt thì không cứu chữa được.Những thế quyền tinh hoa của Bình Định, Tây Sơn được đúc kết thành các bài thảo bộ nhằm giúp người tập luyện nhuần nhuyễn và hoàn chỉnh từng chiêu thức. Đất Bình Định có các bài quyền nổi tiếng như Thần Đồng, Ngọc Trản, Lão Mai, Lão Hổ... Ngoài ra, các võ sư tiền nhân còn nghiên cứu từ các loài vật trong tự nhiên, sáng tạo thành những bài hình tượng quyền như Ngũ cầm quyền (long, hổ, báo, xà, hạc), Linh miêu hý thử, Kim xà xuất động, Kim báo quyền, Mãnh hổ xuất sơn...Trong diễn võ, so tài, các tay quyền thường thi triển các chiêu thức vừa đầy uy lực vừa đẹp mắt, tuân theo các bài bản mẫu mực cốt để phô trương tuyệt học, công phu vi diệu. Trong chiến đấu chuyện bài bản không còn là quan trọng, mà mục đích chính là áp đảo, thậm chí sát thương đối thủ để giành phần thắng nhanh nhất.

    3- Nhạc võ Tây Sơn

    Tương truyền Tây Sơn tam kiệt đặt ra nhạc võ để luyện quân và khiển trận. Trong luyện tập, tiếng trống sẽ giúp người đánh võ không bị lạc chiêu thức. Trong giáp chiến, tiếng trống không chỉ là hiệu lệnh giục giã ba quân mà còn là chiến thuật tâm công đánh vào tâm lý của quân thù, góp phần làm nên thắng lợi.


    Dàn nhạc võ Tây Sơn xưa gồm mười sáu trống chiến, ngoài ra còn có tù và, kèn, chiêng, phèng la… là những nhạc cụ hỗ trợ. Trống chiến là linh hồn của nhạc võ. Khi đánh trống, hai bàn tay cầm dùi trống của nghệ nhân phụ trách mười hai chiếc, bốn chiếc còn lại đánh bằng hai gót chân và hai khuỷu tay.
    Dàn nhạc võ Tây Sơn ngày nay vẫn gồm đủ trống chiến, kèn bóp (hay kèn xô-na), chiêng, phèng la, nhưng chỉ còn mười hai trống, tượng trưng cho thập nhị địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão...), xếp thành ba bậc trên giá đỡ, ứng với triết lý tam tài (Thiên - Địa - Nhân).Nhạc võ Tây Sơn có hai phần: nhạc và võ. Phần nhạc được phối âm dựa trên tiết tấu chủ đạo của trống chiến trên nền âm cổ truyền, chia thành ba hồi: xuất quân, xung trận - công thành và ca khúc khải hoàn. Tiếng trống cất lên, hồn thiêng sông núi vọng về trong tiếng gió lướt, tiếng quân đi, tiếng vó ngựa thần tốc trên đường thiên lý. Khúc công thành dập dồn vang dội như nước vỡ bờ, vun vút tên bắn gươm khua, hừng hực voi gầm ngựa hí. Từ cao điểm, chợt điệu nhạc trầm xuống như lời tưởng niệm vong hồn tử sĩ rồi chuyển sang khúc khải hoàn tươi vui rộn rã. Phần võ là thủ pháp đánh trống, thực chất gồm những thế võ liên hoàn.

    Người đánh trống ngày nay dẫu có nhập hồn vào nhạc võ thế nào, cũng chỉ là nghệ nhân biểu diễn một bộ môn nghệ thuật, nhưng ngày xưa người đánh trống trận phải là người vừa am hiểu võ thuật binh pháp, vừa nhạy bén nắm bắt ý đồ của người chỉ huy để truyền đạt chính xác mệnh lệnh qua điệu trống. Động tác đánh trống, bộ pháp di chuyển cũng là một nghệ thuật tự vệ và đôi dùi trống là vũ khí, vì người đánh trống trận ngày xưa phải vừa bảo vệ mình vừa bảo vệ tiếng trống, để nhạc võ điều binh khiển trận không bị ngắt quãng. Tuy nhiên, người lính đánh trống và dàn trống trận của anh ta thường được bố trí ở trung quân, luôn được bảo vệ và hỗ trợ bởi một toán quân thiện chiến, khả năng đơn thân chiến đấu rất ít khi xảy ra.


    Nhạc võ Tây Sơn bây giờ đã trở thành một di sản văn hoá độc đáo, một nghi thức truyền thống không thể thiếu trong các kỳ tế lễ ở Tây Sơn nói riêng và Bình Định nói chung, nhất là trong các dịp quan trọng như lễ hội kỷ niệm chiến thắng Đống Đa, lễ kỵ Tây Sơn Tam kiệt, lễ kỷ niệm sinh nhật, lễ giỗ Quang Trung hoàng đế, lễ cúng từ đường Bùi Thị Xuân, lễ cúng từ đường Võ Văn Dũng, lễ giỗ tổ tại các làng võ. Tại Bảo tàng Quang Trung có một đội nhạc võ chuyên biểu diễn trống trận để phục vụ các lễ tiết và phục vụ du khách.


    Còn nữa...

  6. #6
    Administrator
    Tham gia ngày
    Dec 2011
    Bài gửi
    2.162
    Thanks
    156
    Thanked 334 Times in 280 Posts
    Tìm Hiểu Về Võ Thuật Cổ Truyền Bình Định


    Tiếp theo...

    4- Kỳ võ:

    Kỳ võ là phép dùng cờ lệnh để điều khiển trận đánh theo hiệu lệnh của người chỉ huy. Cũng như người cử nhạc võ, người sử dụng kỳ võ phải giỏi võ thuật lẫn binh pháp. Múa cờ không đơn thuần là phất cờ, mà còn là một nghệ thuật đòi hỏi cả sức mạnh lẫn sự uyển chuyển trong thân pháp của người thực hiện.Trên chiến trường, nơi xảy ra cuộc chiến một mất một còn giữa hai bên với bao nhiêu giáo mác cung tên, người lính cầm cờ trong tay không tấc sắt. Thế nhưng người lính cầm cờ là mục tiêu dễ nhận thấy nhất và cũng là mục tiêu mà kẻ thù muốn triệt hạ nhanh để áp đảo tinh thần phe đối địch. Sự hiện diện của người cầm cờ có quan hệ mật thiết với cả cánh quân.


    Lá cờ phất phới tung bay trong gió tượng trưng cho Hồn nước. Trừ khi bị trúng tên đạn, còn nếu bị tấn công theo kiểu xáp chiến thì người cầm cờ có thể dùng cờ làm vũ khí- rút cán tre làm côn, còn lá cờ dệt bằng sợi bông vải hay sợi thao càn khi cần có thể nắm chéo vung ra giật về như một nhuyễn tiên.


    5- Y thuật:

    Giới võ học nghiên cứu rất kỹ khoa học về thân thể con người, từ xương cốt, cơ bắp, lục phủ ngũ tạng, hệ thống các huyệt đạo. Chính vì vậy mà người nắm chắc võ lý, võ thuật thường hiểu kỹ về y thuật.


    Hầu hết các võ sư đều biết các bài thuốc chữa trật gân, sai khớp, gãy xương. Phổ biến là những võ sư biết thuốc để tự chữa cho mình, cho người nhà và học trò. Có những trường hợp các võ sư chuyên tâm nghiên cứu sâu về y thuật để hành nghề như Hương kiểm Mỹ, Bầu Năm, Trần Dần ở An Vinh. Hương kiểm Mỹ giỏi về thuật bó xương, nhiều ca gãy xương hiểm hóc tới đâu qua tay ông cũng khỏi. Ông Bầu Năm giỏi về mổ xẻ, đã vá môi cho Hương kiểm Cáo khi ông này đấu đài đánh đối phương sụt sườn mỡ, còn mình bị sứt môi. Hiện nay nổi tiếng về thuật bó xương ở Thuận Nhứt có ông Mai Súng. Nhiều bác sĩ ngoại khoa nghe đồn về ông đã tìm tới nơi để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm.


    Y thuật trong làng võ bị chi phối bởi các quy tắc và kinh nghiệm gia truyền, đại thể thì giống nhau nhưng trong nghe, khám, chẩn, bốc có sự khác nhau từ khả năng cảm ứng, điều trị đến gia giảm vị thuốc, lượng thuốc. Dược liệu cũng xoay vần thuốc nam, thuốc bắc, các bài thuốc địa phương kết hợp với việc ứng dụng các bài thuốc trong và ngoài nước và các phương thức day, nắn, bóp, bấm huyệt, châm cứu… Công phu nghiên cứu kiến thức võ thuật và y thuật, cũng như sự tinh tế và mẫn cảm của từng ông thầy võ đã quyết định thành công và danh tiếng của họ.


    Huyệt đạo thiếu nữ dưới mắt các nhà Họa sĩ

    Thiều Gia sưu tầm và giới thiệu
    Shaojiazhuangzhu 韶家庄主 — 韶玉山

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •