Trang 2/4 ĐầuĐầu 1234 CuốiCuối
Hiện kết quả từ 11 tới 20 của 39

Chủ đề: Điện Biên Phủ - Đại tướng Võ Nguyên Giáp

  1. #11
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Arrow Điện Biên Phủ - Đại tướng Võ Nguyên Giáp

    Tôi gọi điện cho pháo binh:

    - Tình hình địch đã thay đổi. Quyết tâm tiêu diệt Trần Đình (bí danh của Điện Biên Phủ trong chiến dịch) vẫn giữ vững. Nay thay đổi cách đánh. Vì vậy, ra lệnh cho các đồng chí từ 17 giờ hôm nay, kéo pháo ra khỏi trận địa, lui về địa điểm tập kết, chuẩn bị lại. Triệt để chấp hành mệnh lệnh! Không giải thích.

    Đầu dây đằng kia, tiếng đồng chí Phạm Ngọc Mậu, chính ủy pháo bình đáp:

    - Rõ! Xin triệt để chấp hành mệnh lệnh.

    14 giờ 30 phút, mới cho liên lạc điện thoại với anh Vương Thửa Vũ, tư lệnh Đại đoàn 308.

    - Chú ý nhận lệnh: Tình hình thay đổi. Đại đoàn các đồng chí có nhiệm vụ hướng về Luông Phabăng tiến quân. Dọc đường gặp địch tùy điều kiện cụ thể mà tiêu diệt. Giữ vững lực lượng, có lệnh, trở về ngay. Giữ liên lạc vô tuyến điện. Khi được hỏi mới trả lời.

    - Rõ! Anh Vũ đáp.

    - Triệt để chấp hành mệnh lệnh!

    - Xin chỉ thị về sử dụng binh lực như thế nào?

    - Toàn quyền quyết định, tử một tiểu đoàn đến toàn đại đoàn. Hậu cần tự giải quyết. Đúng 4 giờ chiều nay xuất phát.

    - Xin triệt để chấp hành mệnh lệnh.

    Đồng thời, tôi chỉ thị cho một bộ phận nhỏ, mang theo một đài vô tuyến điện, đi về phía Mộc Châu, mỗi ngày ba lần đánh điện báo cáo “Đại đoàn 308 đã về tới...”. Điện mật, xen đôi tiếng không dùng mật mã. Do những bức điện này, lúc đầu, địch đã tưởng 308 đang quay về đồng bằng.

    Trong ngày hôm đó, tôi đã đạt được một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình. Không thể dùng điện đài, tôi viết thư hỏa tốc gửi về báo cáo Bộ Chính trị. Ít ngày sau, nhận được thư của anh Trường Chinh cho biết Bác và các anh ở nhà nhất trí cho rằng quyết định thay đổi phương châm là hoàn toàn đúng đắn. Trung ương Đảng và Chính phủ sẽ động viên toàn dân dốc toàn lực chi viện cho tiền tuyến tới khi bộ đội giành toàn thắng tại Điện Biên Phủ.

    Trên mặt trận Điện Biên Phủ, mặc dù mỗi người còn có những băn khoăn suy nghĩ khác nhau, nhưng toàn thể cán bộ, chiến sĩ đã triệt để chấp hành mệnh lệnh lui quân, biểu thị một niềm tin, một tinh thần kỷ luật tuyệt vời.

    Cả Đại đoàn 312 cùng các chiến sĩ pháo binh, 7 ngày đêm ròng rã, đã kéo pháo ra an toàn trên con đường hiểm trở, bị máy bay và pháo địch biến thành con đường lửa. Các chiến sĩ Đại đoàn 308, lên đường với mỗi người năm lạng gạo, đã đuổi địch trên chặng đường dài 200km với sự phối hợp của bộ đội Pathét Lào và sự đùm bọc của nhân dân Lào, đã đập tan phòng tuyến Nậm Hu, tiêu diệt mười bốn đại đội. Nava lại phân tán lực lượng cơ động, lập thêm một tập đoàn cứ điểm nữa ở Mường Sài, và tăng quân bảo vệ Luông Phabăng.

    Ngày tết đến bất chợt với hoa ban nở trắng bên sườn núi và dọc những khe suối quanh sở chỉ huy. Nam Bộ, Liên khu 5 xa xôi gửi điện chúc mừng các chiến sĩ Điện Biên Phủ sớm giành toàn thắng. Trong hàng vạn lá thư từ hậu phương gửi ra mặt trận, có những lá thư từ Mátxcơva, Bắc Kinh, Bình Nhưỡng. Đêm 30 tết, tôi vẫn theo dõi những khẩu pháo cuối cùng trên đường trở về vị trí tập kết. Anh Vương Thừa Vũ điện về báo cáo những chiến sĩ đầu tiên của Đại đoàn 308 cùng bộ đội Phathét Lào đã ở bên sông Mêcông, cách Luông Phabăng, kinh đô nhà vua Lào 7km.

    Cuộc tiến công ở Thượng Lào nổ ra đồng thời với cuộc tiến công giải phóng Công Tum tiếp theo những cuộc tiến công giải phóng tỉnh Thà Khẹt và cao nguyên Bôlôven trước đó, cùng với việc Nava ném quân xuống Điện Biên Phủ đã làm tan vỡ khối quân cơ động của địch.

    Đại đoàn 320 cùng với các lực lượng vũ trang địa phương các tỉnh đã làm mưa làm gió tại đồng bằng Bắc Bộ, đập tan phòng tuyến sông Đáy, đột nhập các sân bay, phá hủy một phần sáu số máy bay của địch ở Đông Dương. 20 trong số 44 tiểu đoàn cơ động của Nava, còn lại ở đồng bằng, phải rải ra để bảo vệ những tuyến đường giao thông quan trọng, đặc biệt là đường 5.

    Cuộc tiến công của đích vào Phú Yên bị sa lầy. Quân du kích nam Trung Bộ tập kích thành phố Nha Trang, thị trấn Khánh Hòa. Bộ đội địa phương Quảng Nam, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận diệt nhiều cứ điểm đại đội của địch.

    Giấc mộng bình định Nam Bộ của Nava trong mùa khô này đã tan thành mây khói. Các tiểu đoàn chủ lực của khu, tỉnh ở Nam Bộ đều tiến vào vùng tạm chiếm, đẩy mạnh phong trào chiến tranh nhân dân, đánh đồn, chặn viện, đánh vận động, đánh giao thông, tiêu diệt trên một ngàn đồn bốt, tháp canh (nhiều vị trí đại đội), diệt nhiều đoàn xe cơ giới, xe lửa, tàu thuyền của địch. Quân địch buộc phải quay về bảo vệ những vùng trước đây chúng coi là “bình định xong”. Vùng tự do Khu 9 được giữ vững và mở rộng. Các căn cứ du kích và khu du kích lớn nhỏ đều được khôi phục và mở rộng rất nhiều. Nhiều địa phương mới được giải phóng.

    Trên toàn bộ các chiến trường, quân Pháp đều bị sa lầy.

    Nhưng trên mặt trận Điện Biên Phủ, quyết đính ngày 26 tháng 1 năm 1954 vẫn còn đứng trước những thử thách cực kỳ lớn. Quân số địch ở Điện Biên Phủ đã tăng lên 19 tiểu đoàn, và còn khả năng tăng lên nữa trong quá trình chiến đấu.

    Đầu tháng 2 năm 1954, Sở chỉ huy đã được chuyển đến Mường Phăng, một địa điểm mới cách Điện Biên Phủ trên 10km theo đường chim bay. Đứng trên đỉnh núi sau Sở chỉ huy, nhìn thấy rõ cánh đồng Mường Thanh khá rộng và toàn bộ cứ điểm của địch. Nhiều lần tôi đứng quan sát giờ lâu những cứ điểm đỏ ối trên cánh đồng bằng phẳng và những ngọn đồi phía Đông. Máy bay địch, chiếc xếp hàng bên đường băng, chiếc bay lượn trên không thả dù, chiếc lao xuống bắn phá những nơi chúng nghi có quân ta. Những chiếc xe tăng địch chạy trên con đường nối liền Mường Thanh với Hồng Cúm. Tôi suy nghĩ đến những thử thách quyết liệt sắp tới mà bộ đội ta phải sẵn sàng chấp nhận và vượt qua một cách thắng lợi.

    Chuẩn bị theo phương châm mới, trận đánh đã lui lại một tháng rưỡi.

    Chúng ta đã xây dựng trận địa bao vây và tiếp cận chung quanh tập đoàn cứ điểm, với hàng trăm kilômét chiến hào, để bộ đội có thể chiến đấu cả ban ngày và ban đêm dưới bom đạn.

    Chúng ta đã đưa những khẩu pháo vào ẩn náu hoàn toàn trong những căn hầm phân tán giữa lòng núi, và làm đường cho xe vận tải chở đạn tới từng hầm pháo.

    Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả để chiến thắng” quân và dân ta đã không tiếc mồ hôi, xương máu, làm nên kỳ công đảm bảo việc tiếp tế đạn dược, lương thực cho các chiến sĩ ở mặt trận.

    Ta đã dành cho kẻ địch một bất ngờ lớn nhất, là không chấp nhận một cuộc tổng giao chiến chớp nhoáng với toàn bộ lực lượng viễn chinh tinh nhuệ địch náu mình trong tập đoàn cứ điểm kiên cố. Ta đã quyết định tiêu diệt dần từng trung tâm đề kháng bằng cách đánh sở trường của ta, vào thời gian, địa điểm do ta lựa chọn, với thế mạnh áp đảo trong từng trận đánh, đồng thời xiết chặt trận địa chiến hào, triệt nguồn tiếp tế cho tới lúc tập đoàn cứ điểm nghẹt thở.

    Ngày 13 tháng 3 năm 1954, tiếng súng tiến công của ta ở Điện Biên Phủ bắt đầu. Viên chỉ huy phó tập đoàn cứ điểm, phụ trách pháo binh, phải tự sát vì không có cách nào làm im lặng những khẩu pháo Việt Nam. Đờ Cáttri và bộ chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp đành chịu bó tay ngồi nhìn những cứ điểm mạnh nhất của tập đoàn cứ điểm lần lượt sụp đổ dưới bàn chân không giày của những chiến sĩ xung kích Việt Nam. Trận địa chiến hào của ta, từ núi cao đổ xuống cánh đồng, mỗi ngày càng xiết chặt sợi dây định mệnh chung quanh tập đoàn cứ điểm.

    …Ngày mồng 7 tháng 5 năm 1954, lá cờ quyết chiến quyết thắng tung bay trên nóc hầm của tướng Đờ Cáttri. Hơn một vạn quân địch ở Mường Thanh kẻo cờ trắng đầu hàng.

    Quân và dân ta Tháng Năm ấy lại có một chiến công lớn mừng ngày sinh của Bác Hồ. Thư khen ngợi của Bác tới ngay ngày hôm sau:

    Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ, Bác và Chính phủ thân ái gửỉ lời khen ngợi cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang. Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu…”.

    Tôi viết hồi tưởng này là để dâng một bó hoa thơm kính viếng anh linh các anh hùng, liệt sĩ, để nói lên sức mạnh thần kỳ của đoàn kết toàn dân chiến đấu, của liên minh chiến đấu đặc biệt Việt Nam, Lào, Cămpuchia đã làm nên chiến công hiển hách trong mùa xuân lịch sử, cách đây 35 năm.

    HỮU MAI ghi
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  2. #12
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Arrow Điện Biên Phủ - Đại tướng Võ Nguyên Giáp

    .
    .
    ĐIỆN BIÊN PHỦ


    HÌNH THÁI CHIẾN SỰ VÀO MÙA HÈ NĂM 1953

    Mùa hè năm 1953, cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ta đã bước vào năm thứ tám. Tám năm đó là những năm chiến đấu cực kỳ gian khổ và anh dũng của quân đội và nhân dân ta chống lại quân đội xâm lược của đế quốc Pháp có can thiệp Mỹ giúp sức, lúc đầu mạnh hơn ta rất nhiều về vũ khí và trang bị.

    Tuy nhiên, trải qua tám năm kháng chiến, trái với ý muốn chủ quan của quân địch, lực lượng của quân đội và nhân dân ta không những không bị suy yếu, không bị tiêu diệt, mà ngược lại càng đánh càng mạnh, càng mạnh càng thắng. Còn về phía địch thì ngày càng lâm vào thế bị động, càng tiếp tục chiến tranh càng gặp những khó khăn mới, đi từ thất bại này đến thất bại khác ngày càng nặng nề hơn.

    Bước vào năm thứ tám của cuộc kháng chiến, tình hình so sánh lực lượng đã thay đổi có lợi cho ta. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta có một quyết tâm mới: ra sức đẩy mạnh cuộc kháng chiến tiến lên giành lấy những thắng lọ to lớn hơn, nhằm tạo điều kiện giành thắng lợi cuối cùng. Trong khi ấy quân địch cũng ra sức tìm mọi cách để cứu vãn tình thế lúc bấy giờ rõ ràng không có lợi cho chúng, hòng giành lại thế chủ động, hy vọng đạt được những thắng lợi quyết định để kết thúc chiến tranh.


    Nhìn lại quá trình phát triển của cuộc kháng chiến là một điều cần thiết để hiểu rõ tinh hình địch, ta và hình thái chiến sự trước khi quân địch đề ra kế hoạch quân sự Nava, cũng tức là trước khi quân ta bắt đầu những chiến dịch mùa đông 1953 và mùa xuân 1954 và chuẩn bị mở chiến dịch Điện Biên Phủ vĩ đại.

    Dân tộc ta là một dân tộc hết sức yêu chuộng tự do và hòa bình, lại sẵn có truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm, giữ gìn độc lập cho đất nước. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám mới thành công, trong bản Tuyên ngôn độc lập đọc ngày 2 tháng 9 năm 1945 trước quốc dân và thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”(2).


    Mọi người đều biết: chỉ không đầy một tháng, sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á ra đời, thì chủ nghĩa đế quốc quốc tế và bọn đồng minh của chúng đã nối tiếp nhau kéo tới, dùng trăm phương nghìn kế hòng tiêu diệt chính quyền cách mạng vừa mới thành lập. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp được đế quốc Anh giúp sức đã gây hấn ở Sài Gòn, mưu toan xâm lược nước ta một lần nữa. Trong lúc đó chúng cũng mưu mô trở lại xâm lược Campuchia và Lào. Chúng đã phái sang sư đoàn thiết giáp cùng lực lượng hải quân còn lại sau chiến tranh thế giới thứ hai, thực hiện kế hoạch chiến lược “đánh nhanh giải quyết nhanh”, cho rằng chỉ trong vòng 10 tuần lễ là có thể “bình định” xong Nam Bộ, làm bàn đạp để tấn công ra miền Bắc…

    Nhưng, chúng đã tính nhầm. Nhân dân Nam Bộ đã vùng dậy kháng chiến, nêu cao tinh thần anh dũng bất khuất, dùng mọi thứ vũ khí thô sơ kể cả gậy tầm vông vót nhọn, đương đầu với quân địch có đày đủ máy bay, xe tăng, tàu chiến và đại bác, mở đầu cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta. Quân và dân Nam Bộ đã chiến đấu kiên quyết làm thất bại ý đồ chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của địch, phát động chiến tranh du kích ở khắp mọi nơi, giữ vững và phát triển lực lượng để kháng chiến lâu dài.

    Đảng ta, một mặt lãnh đạo nhân dân Nam Bộ kháng chiến, động viên toàn quốc ủng hộ Nam Bộ, mặt khác ra sức lợi dụng mâu thuẫn giữa những kẻ địch, hòa hoãn với Pháp, ký kết hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, gạt 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch ra khỏi đất nước, thực hiện chủ trương “hòa để tiến”, tranh thủ thời gian để củng cố chính quyền nhân dân, củng cố lực lượng cách mạng, chuẩn bị đối phó với âm mưu xâm lược mới của địch.

    Mặc dầu đã công nhận nước ta là một nước tự do và có chủ quyền, đế quốc Pháp vẫn không từ bỏ dã tâm đặt lại nền thống trị của chúng. Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Chúng xé bỏ hiệp định đã ký kết, tiếp tục chiến tranh ở Nam Bộ, lại thực hiện kế hoạch xâm lấn từng bước, đánh chiếm nhiều địa phương ở miền nam Trung Bộ và ở Bắc Bộ. Khả năng giữ vững hòa bình ngày càng trở nên mong manh. Chúng liên tiếp đánh chiếm Hòn Gai, Hải Phòng; sang tháng 12 năm 1946 tăng cường hành động khiêu khích, ra điều kiện đòi tự vệ ta phải hạ vũ khí đầu hàng, gây hấn ở ngay giữa thủ đô Hà Nội.

    Đế quốc Pháp ngoan cố đã chọn con đường dùng chiến tranh để cướp nước ta. Khả năng hòa hoãn không còn nữa. Ngày 17 và ngày 18 tháng 12 năm 1946, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương mở rộng của Đảng ta đã hạ quyết tâm phát động cả nước kháng chiến và quyết định những vấn đề cơ bản về đường lối kháng chiến. Đêm 19 tháng 12 năm 1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, toàn dân Việt Nam ta đã triệu người như một vùng lên giết giặc, cứu nước.

    Cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp là sự phát triển tất yếu của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành chiến tranh cách mạng, là một cuộc chiến tranh nhân dân, do dân và vì dân, là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đồng thời là chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng với một đường lối chính trị và quân sự đúng đắn và sáng tạo.

    Tứ những ngày đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc, Đảng ta đã nêu rõ: Con đường kháng chiến là con đường duy nhất để bảo vệ đất nước, bảo vệ thành quả của cách mạng.

    Đảng ta lại chỉ rõ: Cuộc kháng chiến của nhân dân ta là một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính; cuộc kháng chiến đó sẽ lâu dài, gian khổ nhưg nhất định đi đến thắng lợi.

    Lực lượng vũ trang của nhân dân ta tuy còn non trẻ, trang bị kém cỏi, kinh nghiệm chiến đấu còn thiếu, nhưng vốn có bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, nêu cao truyền thống của dân tộc, một lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Giàu lòng yêu nước và đầy tinh thần hy sinh dũng cảm, quân đội ta đã cùng nhân dân cả nước, tử thành thị đến nông thôn, tiến hành một cuộc chiến đấu không cân sức, chống lại quân đội của một đế quốc hùng mạnh đã đứng chân khá vững trên một số địa bàn có tầm quan trọng chiến lược lớn của đất nước ta. Trên khắp các mặt trận, quân và dân ta đã chủ động tiến công quân địch, chiến đấu hết sức anh dũng để tiêu hao và tiêu diệt chúng, đồng thời thực hiện vườn không nhà trống, phá hoại đường sá, cầu cống, sơ tán nhân dân. Đặc biệt là ở thủ đô Hà Nội, quân ta đã chiến đấu với quân địch trong hai tháng trời, giữ vững vị trí ở ngay trung tâm thành phố. Các cuộc chiến đấu đó đã có tác dụng động viên, cổ vũ lớn đối với toàn dân, đồng thời tiêu hao và giam giữ lực lượng của địch, tạo điều kiện cho cả nước chuyển vào kháng chiến.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  3. #13
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Arrow Điện Biên Phủ - Đại tướng Võ Nguyên Giáp

    Ngay từ năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc, tại Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ ba(1) họp vào trung tuần tháng 6 năm 1947, ta đã chủ trương đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân bằng những phương thức tác chiến hết sức phong phú, như đánh vào các đô thị, đánh rất mạnh làm tê liệt các đường giao thông, đánh vào các cơ sở kinh tế của địch và phong tỏa kinh tế địch, phối hợp hoạt động quân sự, vũ trang tuyên truyền với các cuộc đấu tranh chính trị trong những vùng địch kiểm soát v.v…, đồng thời ra sức phát triển lực lượng, xây dựng căn cứ địa v.v… Quân và dân ta đã đánh địch khắp nơi, đồng thời tích cực xây dựng, giữ vững và phát triển các khu du kích ở nông thôn đồng bằng và các căn cứ địa ở miền rừng núi để làm chỗ đứng chân, kháng chiến lâu dài.

    Đế quốc Pháp ngoan cố và xảo quyệt, vừa mở rộng chiến tranh vừa theo đuổi mưu đồ chính trị đen tối, dựng lên chính quyền tay sai. Thu Đông năm 1947, chúng huy động trên một vạn quân tinh nhuệ, mở cuộc tiến công quy mô lớn lên Việt Bắc, căn cứ địa chủ yếu của cuộc kháng chiến, hòng tiêu diệt cơ quan đầu não và quân chủ lực của ta, giành lấy một thắng lợi quyết định và thúc đẩy việc thành lập chính phủ bù nhìn toàn quốc.

    Để phá tan âm mưu của địch, quân và dân ta đã “tích cực chuẩn bị chiến dịch mùa đông về mọi mặt… chuẩn bị chống các cuộc quân địch đánh xuyên mũi dùi, đánh vòng thật rộng, nhảy dù đổ bộ sau lưng ta(1). Nhiệm vụ của chúng ta là phải “làm cho địch thiệt hại nặng để không thể gượng lại được sau chiến dịch mùa đông này”(3). Kiên quyết thực hiện chỉ thị của Đảng, quân và dân Việt Bắc, được sự phối hợp chặt chẽ của các chiến trường trên cả nước, đã mở chiến dịch phản công, chiến đấu anh dũng và giành thắng lợi lớn. Quân địch đã bị thất bại thảm hại. Chiến lược đánh nhanh giải quyết nhanh của chúng bị phá sản hoàn toàn. Đúng như Hội nghị Trung ương mở rộng họp đầu năm 1948 đã nhận định: “cuộc phản công thắng lợi ở Việt Bắc và chiến tranh nổi mạnh ở miền Nam đã gây thêm tinh thần nỗ lực phấn khởi trong toàn dân, nhân dân thêm tin tưởng ở tiền đồ kháng chiến vẻ vang của dân tộc”(4).

    Với chiến thắng Việt Bắc, chiến tranh đã chuyển sang giai đoạn mới.

    Bị thất bại trong âm mưu đánh nhanh giải quyết nhanh, thực dân Pháp bắt buộc phải kéo dài chiến tranh xâm lược. Chúng chủ trương tăng cường đánh phá nhằm “bình định” vùng chúng chiếm đóng, giành sức người sức của của ta, thực hiện âm mưu thâm độc “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”.

    Năm 1949, cuộc chiến tranh nhân dân của ta đã phát triển mạnh mẽ và rộng rãi trên khắp các mặt trận. Cũng vào thời gian đó, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc giành được những thắng lợi to lớn và đang tiến xuống Hoa Nam. Chính phủ Pháp vạch ra kế hoạch mới, cấp tốc phái tướng Rơve sang Đông Dương hòng cứu vãn tình thế. Rơve chủ trương tăng quân cho chiến trường Bắc Bộ, mở rộng phạm vi chiếm đóng ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, tăng cường phòng thủ khu tứ giác Lạng Sơn - Tiên Yên - Hải Phòng - Hà Nội, phong tỏa biên giới Việt - Trung. Kế hoạch Rơve còn đề ra vấn đề ra sức phát triển quân ngụy, sử dụng quân ngụy vào việc chiếm đóng, tập trung quân Âu - Phi đế xây dựng lực lượng cơ động, tích cực càn quét tranh phá nhằm đàn áp phong trào chiến tranh du kích của ta. Thực hiện kế hoạch này, địch đã mở nhiều cuộc hành binh liên tiếp và nhiều cuộc càn quét khốc liệt, mở rộng khu vực kiểm soát của chúng ớ đồng bằng và trung du Bắc Bộ.

    Về phía ta, từ sau chiến tranh Việt Bắc, chúng ta đã chủ trương phát động chiến tranh du kích rộng rãi ở khắp các địa phương bị tạm chiếm, kể cả trong các thành phố bị địch kiểm soát. Phương châm đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung được đề ra và đã được thực hiện khắp nơi, đưa lại nhiều thắng lợi lớn(5).

    Một bộ phận bộ đội chủ lực của ta đã được phân tán thành đại đội độc lập tiến sâu vào sau lưng địch, kết hợp tác chiến với vận động nhân dân, đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, tiêu diệt địch với xây đựng và bảo vệ cơ sở nhân dân, dìu dắt bộ đội địa phương và dân quân du kích, tiến lên phối hợp với quần chúng đấu tranh chống lại địch. Công tác địch vận, nhất là ngụy vận đã được chú trọng, được coi là một nhiệm vụ chiến lược. Lực lượng dân quân du kích và bộ đội địa phương ở vùng sau lưng địch được củng cố và phát triển, lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Các cuộc chống càn quét được tiến hành có kết quả. Chiến tranh du kích phát triển rộng khắp, các căn cứ du kích và khu du kích xuất hiện sau lưng địch.

    Hậu phương của địch dần dần biến thành tiền phương của ta.

    Trong khi các trung đội độc lập, các đại đội độc lập hoạt động phân tán khắp các chiến trường sau lưng địch ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ để phát triển chiến tranh du kích rộng rãi thì các tiểu đoàn tập trung cũng được xây dựng và từng bước tiến lên đánh những trận tập kích, phục kích lớn hơn; hoạt động tác chiến của các tiểu đoàn tập trung là mầm mống của đánh vận động sau này. Trong những năm 1948 - 1949 và đầu năm 1950, quân ta đã bắt đầu mở những chiến dịch quy mô nhỏ có tính chất du kích; lực lượng sử dụng khoảng 3 - 4 tiểu đoàn hay nhiều hơn nữa, có khi lên đến 9 tiểu đoàn, vài ba trung đoàn. Trong các chiến dịch đó, ta đã nhằm những hướng sơ hở của địch mà tiến công, tiêu diệt sính lực của chúng, mở rộng vùng căn cứ của ta. Tình hình chung trên chiến trường biểu hiện hình thái giành giật quyết liệt giữa ta và địch. Trong cuộc vận động luyện quân lập công, quân đội ta vừa chiến đấu vừa xây dựng; lực lượng vũ trang của ta đã lớn lên không ngừng. Đại đoàn đầu tiên của quân đội nhân dân đã ra đời vào năm 1949.

    Trong những năm dài chiến đấu trong vòng vây, dựa vào sức mình là chính, chúng ta đã vượt qua biết bao khó khăn gian khổ, phát triển chiến tranh du kích mạnh mẽ và rộng khắp, từng bước tiến lên đánh vận động quy mô nhỏ, giữ vững và mở rộng các căn cứ địa của cuộc kháng chiến, đứng vững và lớn lên trước một kẻ địch mạnh hơn ta nhiều lần về quân số và trang bị. Chúng ta đã từng bước đánh bại chiến lược của địch, giành được thắng lợi ngày càng lớn, tạo nên những điều kiện cơ bản và vững chắc, để qua cuộc chiến tranh giải phóng tiến lên những bước phát triển mới.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  4. #14
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Arrow Điện Biên Phủ - Đại tướng Võ Nguyên Giáp

    Mùa đông năm 1950 đánh dấu một sự chuyển biến lớn trong cục diện chiến tranh. Quân ta đã lớn mạnh vượt bậc, đại thắng quân địch trong chiến dịch Biên giới, tiến lên bước đầu nắm quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính. Các lực lượng vũ trang của ta trưởng thành vượt bậc, trước hết là bộ đội chủ lực. Với quy mô tổ chức lớn hơn, với trang bị vũ khí được cải tiến thêm, trên chiến trường biên giới Bắc Bộ, lần đầu tiên quân ta mở một chiến dịch tiến công lớn, tiêu diệt gọn nhiều binh đoàn lớn trong lực lượng cơ động tinh nhuệ của địch, phá vỡ phòng tuyến biên giới của chúng, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn. Chiến tranh nhân dân đã phát triển lên một bước mới: “Chiến tranh chính quy trên quy mô tương đối lớn xuất hiện ở Bắc Bộ”(1). Nó báo hiệu những thắng lợi to lớn trong những năm tiếp sau. Chiến thắng Biên giới đã chấm dứt sự bao vây của chủ nghĩa đế quốc đối với cách mạng Việt Nam, nối liền nước ta với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, mở ra đường liên lạc giữa nước ta với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác.

    Trước sự phát triển thắng lợi của cách mạng Việt Nam và của cách mạng thế giới, trước sự tổn thất nặng nề của quân đội viễn chinh Pháp, đế quốc Mỹ ngày càng can thiệp trắng trợn vào cuộc chiến tranh Đông Dương, tăng cường viện trợ về trang bị vũ khí và kinh phí chiến tranh, đồng thời lợi dụng thế bí của Pháp để thực hiện âm mưu giành giật quyền lợi với Pháp, hòng từng bước thay chân cho Pháp. Thế là bên cạnh thực dân Pháp xâm lược, kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam lúc này lại có thêm bọn can thiệp Mỹ. Đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ đã đẩy mạnh chiến tranh xâm lược, ráo riết bắt lính, phát triển ngụy quân, ngụy quyền, tăng thêm viện binh, tổ chức những đội quân ứng chiến với quy mô trung đoàn và sư đoàn. Chúng đã ra sức tập trung binh lực vào chiến trường chính là chiến trường Bắc Bộ, buộc phải chuyển chiến lược tử tiến công sang phòng ngự. Chúng đã lập ra các khu vành đai trắng, xây dựng những phòng tuyến vững chắc hơn, bao bọc vùng đồng bằng Bắc Bộ giàu có bằng một hệ thống boong ke, đồng thời chuẩn bị ráo riết các cuộc phản công.

    Đại hội II của Đảng họp tháng 2 năm 1951 đã ra nghị quyết về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam và của cuộc kháng chiến lâu dài. Những nghị quyết đó đã động viên, cổ vũ, soi đường cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiến lên giành những thắng lợi mới. Tiếp đó, chủ trương triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất, đã phát động quần chúng nông dân lao động đông đảo đứng lên, với một khí thế cách mạng mới, đánh đổ đế quốc và phong kiến. Khối liên minh công nông không ngừng được củng cố; mặt trận dân tộc thống nhất được mở rộng và ngày càng vững chắc; chính quyền dân chủ nhân dân được kiện toàn. Công cuộc củng cố căn cứ địa ở nông thôn và xây dựng cơ sở chính trị ở thành thị ngày càng thu được kết quả tốt. Mọi mặt công tác kháng chiến đều phát triển mạnh mẽ. Chúng ta đã bồi dưỡng có hiệu quả và động viên được mạnh mẽ sức người, sức của cho công cuộc kháng chiến và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Chiến tranh nhân dân có thêm sức mạnh mới để đánh bại hoàn toàn đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ.

    Sau chiến thắng Biên giới, cuộc kháng chiến của chúng ta đã thực sự bước sang một thời kỳ mới. Các chiến dịch tiến công và phản công trên quy mô ngày càng lớn của bộ đội chủ lực liên tục diễn ra trên chiến trường Bắc Bộ; chiến dịch Trung du; chiến dịch Đường số 18 và chiến dịch Hà Nam Ninh trong năm 1951, chiến dịch Hòa Bình mùa đông 1951 và múa xuân 1952, chiến dịch Tây Bắc mùa đông năm 1952. Hình thái tiến công trên từng hướng chiến lược đã xuất hiện và đang phát triển mạnh mẽ.

    Trong các chiến dịch thắng lợi nói trên, chúng ta đã tiêu diệt gọn từng binh đoàn cơ động của địch, tiêu diệt hàng vạn tên địch trong một chiến dịch, giải phóng những vùng đất đai rộng lớn trên chiến trường Bắc Bộ. Các tỉnh quan trọng ở vùng biên giới Việt - Trung: Cao Bằng, Lạng Sơn, Lao Cai, tỉnh Hòa Bình nằm trên đường giao thông giữa Việt Bắc và Liên khu 4, phần lớn đất đai của miền Tây Bắc đi từ sông Thao cho đến biên giới Việt - Lào đều lần lượt được giải phóng. Căn cú địa Việt Bắc, hậu phương chủ yếu của cuộc kháng chiến, đã được mở rộng và củng cố rất nhiều. Trên miền rừng núi Bắc Bộ, quân địch chỉ còn chiếm đóng tỉnh Hải Ninh ở Đông Bắc, thị xã Lai Châu và tập đoàn cứ điểm Nà Sản ở Tây Bắc.

    Trong khi chủ lực ta liên tiếp thu được những thắng lợi lớn trên mặt trận chính diện thì chiến tranh du kích đã phát triển mạnh khắp cả chiến trường sau lưng địch ở Bắc Bộ. Trong vùng địch tạm chiếm, dân quân du kích và bộ đội địa phương đã làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, đã kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến hành hàng loạt những cuộc phá tề trừ gian, ở nhiều địa phương đã dấy lên cao trào tổng phá tề, diệt đồn bót, xây dựng chính quyền cách mạng. Chiến tranh du kích đã có bước phát triển mới, kết hợp chặt chẽ với chiến tranh chính quy. Đặc biệt trong chiến dịch Hòa Bình, để phối hợp chặt chẽ với mặt trận chính diện, chủ lực ta đã tiến sâu vào vùng sau lưng địch ở đồng bằng sông Hồng, cùng với lực lượng vũ trang địa phương, kết hợp với phong trào nổi dậy của quần chúng tiêu diệt, bức hàng, bức rút hàng loạt cứ điểm của địch, mở rộng căn cứ du kích và khu du kích, giải phóng hàng triệu đồng bào. Vùng tạm chiếm của địch bị thu hẹp lại chỉ còn khoảng một phần ba đất đai và làng mạc, ở gần các đường giao thông quan trọng và các đô thị lớn.

    Trên chiến trường Bình-Trị-Thiên, mặc dầu điều kiện địa hình có phần không có lợi cho ta, chiến tranh du kích vẫn được giữ vững. Ở miền nam Trung bộ, bộ đội ta đã giữ vững vùng tự do của Liên khu 5, đồng thời cũng đi sâu vào trong lòng đích, mở rộng cơ sở, phát động chiến tranh nhân dân, xây dựng căn cứ du kích ở miền Tây Nguyên chiến lược. Ở Nam Bộ, cuộc đấu tranh giữa ta và địch ớ đô thị và vùng ven diễn ra hết sức gay gắt, vùng tự do Khu 9 được giữ vững, chiến tranh du kích phát triển rộng khắp.

    Mùa hè năm 1953, Quân giải phóng Pathét Lào có các đơn vị bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp đã mở cuộc tiến công bất ngờ vào thị xã Sầm Nưa. Phần lớn quân địch ở đây đã bị tiêu diệt. Toàn bộ tỉnh Sầm Nưa và những địa bàn rộng lớn ở Thượng Lào đã được giải phóng, tạo nên một cục diện mới trong cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân các dân tộc nước bạn, gây nên một thế uy hiếp mới đối với địch.

    Nhìn chung cục diện chiến tranh trên chiến trường chính, tức là chiến trường Bắc Bộ thì tử mùa đông 1950 trở đi, quân ta luôn luôn giữ thế chủ động, quân địch ngày càng lâm vào thế bị động. Quân địch ra sức cầu cứu đế quốc Mỹ và như trên đã nói, đế quốc Mỹ đã can thiệp ngày càng sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược ở Đông Dương. Trong khi đó, Chính phủ Pháp đã nhiều lần thay đổi tướng tá của quân đội viễn chinh. Sau chiến dịch Biên giới, chúng đã phái danh tướng của Pháp là Đờlát đờ Tátxinhi sang Đông Dương. Chúng ta đều biết rằng Đờlát đã ra sức mở rộng quân ngụy, tập trung binh lực, xây dựng phòng tuyến, đánh ra Hòa Bình để giành lại thế chủ động, nhưng rốt cuộc đã bị quân ta đánh bại. Tướng Xalăng thay cho tướng Đờlát cũng đã chứng kiến một cách bất lực những thất bại đau đớn của quân đội viễn chinh Pháp trên chiến trường Tây Bắc và Thượng Lào.

    Do phải tập trung binh lực phòng giữ đồng bằng Bắc Bộ, nên trên các chiến trường khác địch lại có nhiều sơ hở hơn trước. Hoạt động của quân và dân ta trên các chiến trường đó đã có điều kiện để đẩy mạnh hơn, giành được những thắng lợi ngày càng lớn hơn.

    Trên đây là những nét chính về tình hình chiến sự từ lúc bắt đầu kháng chiến cho đến giữa năm 1953.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  5. #15
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Arrow Điện Biên Phủ - Đại tướng Võ Nguyên Giáp

    Tình hình ta, địch vào mùa hè năm 1953 đại thể có thể tóm tắt như sau:

    VỀ PHÍA TA

    Lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt của cuộc kháng chiến, từ chỗ còn non yếu lúc đầu, trải qua tám năm chiến đấu và rèn luyện, đã phát triển và lớn mạnh rất nhiều. Quân đội nhân dân lúc đó đã có những đại đoàn, trung đoàn chủ lực, lại bao gồm nhiều tiểu đoàn và trung đoàn bộ đội địa phương. Ngoài bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương ra, còn có các lực lượng dân quân du kích hùng hậu phát triển rộng rãi khắp nơi.

    Sự hình thành và lớn mạnh của ba thứ quân là kết quả của đường lối đúng đắn của Đảng ta: thực hiện động viên và vũ trang toàn dân, phát động chiến tranh nhân dân.

    Nó cũng là kết quả của việc thực hiện phương châm tác chiến đúng đắn của chiến tranh cách mạng lâu dài: phát động chiến tranh du kích, tiến từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy, kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy ở trình độ ngày càng cao, trên quy mô ngày càng lớn.

    Tình hình từ năm 1950 đến năm 1953 như đã nói ở trên là: với hình thái tiến công địch trên từng hướng chiến lược, đánh vận động đã tiến lên chiếm địa vị chủ yếu trên chiến trường chính, tức là chiến trường Bắc Bộ, trong khi đó ở Bắc Bộ, đánh du kích vẫn còn rất quan trọng. Trên các chiến trường khác thì đánh du kích còn giữ địa vị chủ yếu. Dân quân du kích lúc đó đã trở thành một lực lượng rất lớn có tinh thần giết giặc cứu nước rất cao. Với hệ thống làng chiến đấu được xây dựng mạnh mẽ và rộng khắp, các lực lượng dân quân du kích của ta đã liên tiếp tiến công quân địch, buộc chúng phải phân tán đối phó trên khắp các chiến trường, chống càn quét thắng lợi để bảo vệ làng mạc, có kinh nghiệm tác chiến và đã cướp được nhiều vũ khí của địch để trang bị cho mình, và là nguồn bổ sung lớn để củng cố và phát triển quân đội ta.

    Bộ đội địa phương hình thành từ năm 1948 trên cơ sở tập trung lại các đại đòi độc lập và một bộ phận các đơn vị dân quân du kích, đã đảm nhiệm được nhiệm vụ tác chiến trong địa phương, tiêu diệt quân địch, chống càn quét, bảo vệ địa phương, tác chiến phối hợp tốt với bộ đội chủ lực và dân quân du kích.

    Điểm nổi bật hơn hết là bộ đội chủ lực ta đã lớn mạnh nhanh chóng và có tính cơ động khá cao. Các đại đoàn và trung đoàn chủ lực đều đã được củng cố về tổ chức biên chế, được tăng cường về trang bị bằng vũ khí chủ yếu là do lấy được của dịch, một phần do ta tự sản xuất trong hoàn cảnh cực kỳ gian nan thiếu thốn, một phần do sự giúp đỡ của các nước anh em. Trình độ kỹ thuật, chiến thuật, khả năng tác chiến, trải qua các đợt huấn luyện, lại được rèn luyện trong các chiến dịch lớn, đã có nhiều tiến bộ rõ rệt. Quân chủ lực của ta đã tích lũy được kinh nghiệm về đánh vận động và đánh địch trong công sự vững chắc - đánh công kiên, đã quen đánh tập trung với một lực lượng tương đổi lớn, hoạt động trên một địa bàn tương đối rộng, đặc biệt thiện chiến trên chiến trường rừng núi, thực hiện được đánh tiêu diệt, thực hiện được tiến sâu, rút nhanh, tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt.

    Sở dĩ lực lượng vũ trang nhân dân đặc biệt là bộ đội chủ lực có những tiến bộ rõ rệt và nhanh chóng nói trên, trước hết là do Đảng ta đã chú trọng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, ra sức tăng cuờng công tác giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng; không ngừng nâng cao bản chất cách mạng, bản chất giai cấp của quân đội ta. Các cuộc chỉnh huấn chính trị đã có một tác dụng lớn làm cho quân đội nhận rõ mục tiêu chiến đấu của mình: vì độc lập dân tộc, vì ruộng đất cho dân cày, để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tinh thần yêu nước và chí căm thù được nâng cao. Cuộc chỉnh quân chính trị mùa hè năm 1953 được tiến hành trong khi Đảng ta thực hiện triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất đã nâng cao một cách rõ rệt tinh thần quyết chiến quyết thắng, trình độ giác ngộ giai cấp và khí thế cách mạng của quân đội. Đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế, thực hiện chế độ dân chủ nội bộ đi đôi với kỷ luật nghiêm minh, kiên quyết anh dũng trong chiến đấu, tích cực cần cù trong công tác và sản xuất, đã trở thành nền nếp sinh hoạt, chiến đấu, và là truyền thống tốt đẹp của quân đội ta.

    Nhân dân ta với niềm tin tuyệt đối, đoàn kết một lòng xung quanh Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết tâm kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Những nghị quyết lịch sử của Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng về đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta, về đường lối kháng chiến lâu dài và tiếp đó, cuộc phát động quần chúng triệt để giảm tô và thực hiện cải cách ruộng đất đã mang lại sức mạnh đoàn kết chiến đấu mới trong nhân dân, khí thế quyết chiến mới chống kẻ thù đế quốc và phong kiến tay sai, và đã có ý nghĩa quyết định đối với những bước phát triển mới của cuộc kháng chiến, trên con đường tiến tới thắng lợi cuối cùng.

    Về mặt quốc tế, cuộc kháng chiến chính nghĩa và anh dũng chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ của nhân dân ta ngày càng được sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của nhân dân Pháp và các nước thuộc địa của Pháp, của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.

    Thắng lợi vĩ đại của cách mạng Trung Quốc đã làm cho sự so sánh lực lượng trên trường quốc tế chuyển biến có lợi cho phe xã hội chủ nghĩa và các lực lượng dân chủ, độc lập dân tộc và yêu chuộng hòa bình. Thắng lợi đó càng có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Từ nay, nước ta đã không còn ở trong tình trạng chiến đấu trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, mà đã nhận được sự giúp đỡ quý báu của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác.

    Năm 1950, các nước xã hội chủ nghĩa công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sự kiện đó càng làm cho uy tín và địa vị quốc tế của nước ta được nâng cao, làm cho nhân dân ta càng thêm tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  6. #16
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Arrow Điện Biên Phủ - Đại tướng Võ Nguyên Giáp

    VỀ PHÍA ĐỊCH

    Vào mùa hè năm 1953, nếu tình hình cuộc kháng chiến của nhân dân ta là một tình hình đầy triển vọng thì ngược lại tình hình cuộc chiến tranh xâm lược của địch lại đầy khó khăn nguy khốn.

    Lực lượng của địch lúc bấy giờ có khoảng 45 vạn quân trên toàn chiến trường Đông Dương, trong đó có trên 12 vạn binh lính người Pháp, người Phi và lê dương, ngoài ra là quân ngụy. Tuy so với lúc đầu, số quân của địch đã tăng thêm rất nhiều, nhưng so sánh lực lượng giữa ta và địch lúc đó đã thay đổi có lợi cho ta hơn trước nhiều.

    Nhược điểm thiếu binh lực đối với thực dân Pháp luôn luôn trầm trọng tử khi chúng gây ra chiến tranh xâm lược ở Việt Nam. Đó là vì đế quốc Pháp đã bị suy yếu sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, sức người, sức của có hạn, cuộc chiến tranh thuộc địa lại bị nhân dân trong nước phản đối, nên không thể động viên nhiều nhân lực, vật lực để đánh với ta. Nhưng nguyện nhân chính của tình trạng thiếu binh lực là do bản chất của cuộc chiến tranh xâm lược và phi nghĩa của chúng. Mục đích cuối cùng của chúng là phải xâm chiếm nước ta, bắt nhân dân ta phải làm nô lệ. Nhưng nhăn dân ta lại kiên quyết đứng dậy chiến đấu chống lại chúng, tiêu hao và tiêu diệt chúng. Chúng bị bắt buộc phải phân tán binh lực để đối phó khắp nơi, lập nên hàng nghìn cứ điểm lớn nhỏ để phòng giữ các địa phương chúng chiếm được.

    Chính vì vậy mà quá trình tiến hành chiến tranh xâm lược của quân đội viễn chinh Pháp là cả một quá trình đã thiếu binh lực, lại thiếu binh lực triền miên. Và phân tán binh lực là một quy luật tất yếu. Binh lực càng phân tán thì càng suy yếu, càng bộc lộ sơ hở, càng tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta tiêu diệt chúng từng bộ phận.

    Như trên đã nói, chúng đã bị thất bại trong chiến lược “đánh nhanh giải quyết nhanh”. Và từ khi phải bị động chuyển sang đánh kéo dài thì chúng đã ra sức sử dụng ngụy quân, ngụy quyền, thực hiện âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”. Chúng coi đó là một chính sách quan trọng để giúp chúng giải quyết nạn thiếu binh lực. Nhưng vì lực lượng kháng chiến ta ngày càng lớn mạnh, cho nên việc mớ rộng quân ngụy chỉ đưa lại ít kết quả thành phần quân ngụy càng tăng, tinh thần chiến đấu của quân đội chúng càng giảm sút nghiêm trọng.

    Năm 1950, chính là lúc phạm vi chiếm đóng của thực dân Pháp được mở rộng hơn hết, cũng chính là lúc binh lực của chúng bị phân tán nghiêm trọng hơn hết. Chúng đã sa vào thế bị động phòng ngự và thiếu hẳn một lực lượng cơ động chiến lược tương đối mạnh để đối phó với các cuộc tiến công mới của quân ta.

    Nhược điểm nói trên của địch càng bộc lộ rõ từ khi quân ta bắt đầu mở những cuộc tiến công trên từng hướng chiến lược. Quân địch không những bị tiêu diệt từng bộ phận sinh lực mà còn phải rút khỏi nhiều địa phương chúng chiếm đóng trước đây. Từ thế chủ động tiến công lúc đầu, quân địch rõ ràng đã lâm vào thế bị động trên chiến trường Bắc Bộ. Chúng đã ra sức tìm cách thoát khỏi tình thế bất lợi đó, tìm cách mở rộng quân ngụy hơn nữa, để tăng thêm số quân hơn nữa, tạo điều kiện tập trung nhiều lực lượng cơ động hơn. Nhưng do mâu thuẫn bên trong của cuộc chiến tranh xâm lược nên chúng ngày càng bị sa lầy, càng thêm nguy khốn không những ở chiến trường chính mà ở khắp cả các chiến trường.

    Về mặt chính trị, do tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược nên chúng gặp phải sự phản đối ngày càng tăng thêm của nhân dân Pháp cũng như của dư luận tiến bộ của nhân dân trên thế giới. Trong hàng ngũ lính Pháp và Phi, tinh thần chán ghét chiến tranh ngày càng phát triển. Trước những thất bại liên tiếp từ trận Biên giới trở đi, tinh thần chiến đấu của quân đội viễn chinh đã kém lại càng sút kém hơn. Nội bộ thực dân Pháp càng chia rẽ, mâu thuẫn giữa phái chủ hòa và chủ chiến trầm trọng thêm.

    Để cứu vãn tình thế ngày càng xấu đi, đế quốc Pháp ngày càng cần thêm viện trợ của đế quốc Mỹ, ngày càng bị phụ thuộc vào đế quốc Mỹ. Viện trợ của Mỹ năm 1951 chiếm 12% trong ngân sách chiến tranh của Pháp ở Đông Dương, đến năm 1953 đã lên tới 71%. Đế quốc Mỹ càng tăng cường viện trợ, càng mưu mô chiếm đoạt quyền lợi của Pháp; tuy Pháp và Mỹ đều nhất trí đẩy mạnh cuộc “chiến tranh bẩn thỉu”, xâm chiếm nước ta, nhưng mâu thuẫn giữa Mỹ và Pháp cũng ngày càng tăng thêm.

    Chính trong tình hình đế quốc Pháp đang lâm vào cảnh nguy khốn nói trên, đế quốc Mỹ đã thừa lúc đình chiến ở Triều Tiên mà tăng cường can thiệp vào Đông Dương, mưu toan đặt quan hệ trực tiếp với các chính quyền bù nhìn, nhằm hất cẳng Pháp.

    Và kế hoạch Nava là âm mưu mới của đế quốc Pháp - Mỹ, nhằm tiếp tục và mở rộng chiến tranh xâm lược ớ nước ta.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  7. #17
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Arrow Điện Biên Phủ - Đại tướng Võ Nguyên Giáp

    Bước vào mùa hè năm 1953, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta đã phát triển đến trình độ có thể tiến lên giành những thắng lơi quyết định

    So sánh tình hình giữa ta và địch lúc bấy giờ nổi lên những điểm chủ yếu sau đây:

    Một là, trên khắp các chiến tranh, chiến tranh nhân dân đã được phát triển rộng khắp và mạnh mẽ; cả nước đã đứng lên chiến đấu giết giặc trong nhiều năm. Nhân dân Pháp phản đối mạnh mẽ cuộc “chiến tranh bẩn thỉu” của bọn thực dân; tinh thần chán ghét chiến tranh trong hàng ngũ quân địch ngày càng lan rộng

    Hai là, lực lượng vũ trang nhân dân ta, từ những đơn vị non trẻ lúc đầu đã lớn mạnh nhanh chóng và vượt bậc với cơ cấu ba thứ quân, với lực lượng cơ động chiến lược lớn, với thế bố trí chiến lược mạnh, với chất lượng chiến đấu ngày càng cao. Quân đội xâm lược Pháp mặc dù được tăng cường buộc phải phân tán khắp nơi; quân số càng đông, sức mạnh chiến đấu lại càng yếu; thiếu hẳn một lực lượng cơ động chiến lược.

    Ba là, ta đã tiến lên giành chủ động chiến lược trên chiến trường chính, còn địch thì ngày càng lâm vào thế bị đông.

    Bốn là, cục diện quốc tế thuận lợi với ta hơn là đối với địch.

    Tình hình nói trên chứng tỏ quyết tâm kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng ta là đúng đắn và sáng tạo. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hạ quyết tâm kháng chiến toàn quốc trong điều kiện nước ta đất không rộng, người không đông, nhân dân ta mới tiến hành Tổng khởi nghĩa thắng lợi, chính quyền ta còn trứng nước, quân đội ta còn non trẻ, chung quanh ta đều là những nước thù địch. Quyết tâm kêu gọi cả nước đứng lên kháng chiến trong tình hình như vậy, là một quyết tâm to lớn, xứng đáng với truyền thống hàng nghìn năm đấu tranh chống ngoại xâm quật cường bất khuất của dân tộc Việt Nam.

    Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, tuy có sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, nhưng rõ ràng là chúng ta đã chiến đấu cực kỳ anh dũng trong vòng vây của địch với sự tự lực hoàn toàn về trang bị vũ khí, về vật chất kỹ thuật. Trong điều kiện hết sức khó khăn gian khổ, không những quân đội ta, nhân dân ta đã đứng vững trước kẻ thù đề quốc xâm lược, mà lực lượng của ta về mọi mặt, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, đã lớn mạnh lên trông thấy Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta ngày càng đoàn kết chiến đấu, lực lượng vũ trang ta ngày càng phát triển. Hệ thống làng xã chiến đấu được xây dựng khắp nơi; đại đoàn đầu tiên của quân đội nhân dân đã ra đời. Chúng ta đã tạo nên những điều kiện và những cơ sở để đưa cuộc kháng chiến tiến lên những bước mới.

    Đến khi điều kiện trong nước cũng như điều kiện quốc tế trở nên thuận lợi, nhất là sau khi nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời vào năm 1949, thì nhân dân ta tiếp tục dựa vào sức mình là chính, đã có khả năng đầy đủ đế tiếp thụ có hiệu quả những kinh nghiệm và sự giúp đỡ của các nước anh em, tạo ra những bước phát triển mới. So sánh lực lượng giữa ta và địch vào mùa hè năm 1953 đã cho phép ta mở ra chiến cuộc Đông Xuân, giành thắng lợi quyết định trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.

    Sự phát triển thắng lợi của cuộc kháng chiến là kết quả của những năm chiến đấu lâu dài của toàn dân, kết hợp với những nhân tố mới của thời đại. Đó là kết quả của đường lối kháng chiến đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

    Đó là cách nhìn vấn đề duy nhất đúng đắn với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp cũng như sau này, đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đối với toàn bộ sự nghiệp phát triển của cách mạng Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  8. #18
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Arrow Điện Biên Phủ - Đại tướng Võ Nguyên Giáp

    .
    .
    ÂM MƯU MỚI CỦA ĐỊCH - KẾ HOẠCH QUÂN SỰ NAVA

    Tình hình nguy khốn của quân đội xâm lược Pháp trên chiến trường Đông Dương vào đầu năm 1953 đã đặt ra cho đế quốc Pháp vấn đề hết sức cấp thiết là phải có những phương sách mới để cứu vãn tình thế, tránh những thất bại nặng nề hơn.

    Bấy giờ, ở Phấp, trước những tin tức thất trận liên tiếp ở Đông Dương, phong trào của nhân dân đòi chấm dứt cuộc chiến tranh bẩn thỉu ngày càng trở nên rộng rãi và mạnh mẽ. Trong Quốc hội Pháp, phái chủ trương hòa bình giải quyết vấn đề Việt Nam ngày càng thu được nhiều phiếu hơn. Ngay đến Chính phủ phản động Lanien - Biđôn cũng nhận thấy không còn có khả năng tiếp tục mãi cuộc chiến tranh xâm lược, không còn có hy vọng có thể tiêu diệt được lực lượng ta và đã đến lúc phải gấp rút tìm ra một lối thoát. Nhưng lối thoát như thế nào? Đó là một vấn đề nan giải. Chính phủ Pháp cho rằng phải tập trung mọi cố gắng tìm ra một “lối thoát vinh dự” nghĩa là “lối thoát trong thắng lợi”. Và muốn đạt mục tiêu đó thì trước mắt cần phải ra sức đẩy mạnh chiến tranh, giành lấy những thắng lợi quân sự tương đối lớn


    Đối với Mỹ thì trước tình hình quân đội xâm lược Pháp bị sa lầy ở Đông Dương, đế quốc Mỹ càng lộ rõ bộ mặt bỉ ổi là một tên sen đầm quốc tế cực kỳ hiếu chiến, thâm độc. Nếu cuộc đình chiến ở Triều Trên đã làm cho chính giới Pháp suy tính đến khả năng giải quyết vấn đề chiến tranh Đông Dương bằng một biện pháp tương tự thì cuộc đình chiến đó đã thúc đẩy Mỹ ngày càng tăng cường can thiệp nhằm kéo dài và mở rộng chiến tranh ở Đông Dương. Chính Alxenhao đã nhiều lần tuyên bố, quyết không để cho chủ nghĩa cộng sản quốc tế tiến thêm một bước nào ở Đông Nam Á, đặc biệt ở Đông Dương mà chúng coi là một vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Chúng đã không ngừng gây áp lực đối với thực dân Pháp, đòi hỏi thực dân Pháp phải có những cố gắng chiến tranh mới, đồng thời cũng tích cực chuẩn bị để thay thế cho Pháp. Đi đôi với việc tăng cường viện trợ mọi mặt, đế quốc Mỹ đã buộc Pháp phải trao trả quyền “độc lập” cho các chính phủ bù nhìn, tạo điều kiện chính trị để Mỹ có thể nắm trực tiếp các chính phủ này. Viện trợ quân sự của chúng vào năm 1953 hằng tháng đã lên đến trên hai vạn tấn, có tháng lên đến bốn vạn tấn. Chúng lại phái sang hàng trăm nhân viên quân sự, cử một phái đoàn quân sự để kiểm soát thực dân Pháp và các chính quyền bù nhìn, ngày càng trực tiếp tham gia vào việc điều khiển chiến tranh ở Đông Dương.

    Vào giữa năm 1953, với sự thỏa thuận của Oasinhtơn, Chính phủ Pháp chỉ định tướng Nava làm tổng chỉ huy các lực lượng quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương thay tướng Xalăng. Mặc dầu chưa có tên tuổi và danh tiếng như Đờlát đờ Tátxinhi, Nava là một nhân tài quân sự trong hàng tướng trẻ tuổi của quân đội Pháp, có tri thức và nhãn quan chiến lược, đã từng cộng tác trực tiếp với thống chế Gioăng trong bộ tham mưu khối quân sự Bắc Đại Tây Dương. Sau một thời gian rất ngắn điều tra và nghiên cứu chiến trường, Nava đã phác họa ra một kế hoạch chiến lược tương đối hoàn chỉnh nhằm cải biến tình hình hòng chuyển bại thành thắng và trong một thời gian ngắn giành lấy một thắng lợi chiến lược có tính chất quyết định.

    Nava nhận định rằng, một thiếu sót cơ bản trong sự lãnh đạo chiến tranh của Chính phủ Pháp là không xác định được rõ ràng mục đích của cuộc chiến tranh, và cho đó là nguyên nhân chính làm cho tinh thần của quân đội viễn chỉnh ngày càng sút kém mệt mỏi, làm cho quân ngụy càng không có tinh thần chiến đấu. Bởi vậy, theo Nava thì một mặt Chính phủ Pháp cần xác định chủ trương của mình là tiến hành chiến tranh để bảo vệ những đặc quyền, đặc lợi nhất định của Pháp ở Đông Dương, mặt khác phải mạnh bạo thừa nhận quyền “độc lập” của các quốc gia liên kết trong khuôn khổ khối liên hiệp Pháp. Cần chỉ rõ cho các “quốc gia” này nhận thấy rằng họ chỉ giành được “chủ quyền” và “độc lập” thực sự khi nào đánh bại được Quân đội nhân dân Việt Nam; và vì vậy họ cần phải động viên toàn lực chiến đấu vì lý tưởng “chủ quyền” và “độc lập” đó, họ phải ra sức củng cố và mở rộng các “quân đội quốc gia”. Đối với Mỹ thì Pháp rất cần đến viện trợ của Mỹ để tiếp tục chiến tranh; Pháp và Mỹ cùng có chung một mục đích là ngăn ngừa chủ nghĩa cộng sản quốc tế, nhưng Pháp không thể chỉ chiến đấu vì mục đích đó để rồi sau này bị Mỹ thay thế ở Đông Dương mà còn phải chiến đấu cho lợi ích của bản thân mình nữa. Trung thành với lợi ích của chủ nghĩa đế quốc Pháp và chỉ biết nhìn vấn đề theo quan điểm của bọn thực dân, Nava cho rằng, nếu xác định được mục tiêu chiến tranh như trên thì không những quân đội viễn chinh Pháp biết rõ vì sao mà họ hy sinh chiến đấu trên chiến trường Đông Dương, mà các “quân đội quốc gia” cũng sẵn sàng tham gia chiến tranh để giành lấy “độc lập” và “chủ quyền”.

    Về tổ chức chỉ đạo chiến tranh, , Nava nhận định rằng, do những khủng hoảng nội các liên tiếp, tướng tá chỉ huy ở Đông Dương lại bị thay đổi luôn, nên Chính phủ Pháp thiếu hẳn một sự lãnh đạo chặt chẽ, kế hoạch tiến hành chiến tranh cũng thiếu chủ trương cụ thể và liên tục. Nava cũng thấy rằng, trong lúc đó thì về phía ta, quân đội và nhân dân ta có một mục tiêu chiến đấu rõ rệt: chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc, có một tinh thần chiến đấu rất cao, theo một đường lối kháng chiến rõ ràng, và luôn luôn kiên quyết tiến tới dưới sự lãnh đạo của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nava cho rằng, có gấp rút giải quyết những tiền đề chính trị nói trên: mục tiêu của chiến tranh, chính sách đối với các quốc gia liên kết, việc tổ chức lãnh đạo, v.v... thì Pháp mới có thể giành được thắng lợi trong cuộc chiến tranh ở Đông Dương.

    Về quân sự, Nava và bọn tướng tá Pháp - Mỹ nhận định rằng, tình hình chiến sự ngày càng bất lợi cho quân đội viễn chinh. Đó là vì Quân đội nhân dân Việt Nam đã lớn mạnh rất nhiều; bộ đội chủ lực của ta rất thiện chiến, bộ đội địa phương rất quen thuộc chiến trường; quân ta có một tinh thần chiến đấu rất anh dũng, lại có một lực lượng cơ động mạnh gồm nhiều sư đoàn, có khả năng mở những chiến dịch tiến công tương đối lớn. Trong khi đó thì chiến tranh du kích phát triển khắp nơi, đã giam giữ và tiêu hao rất nhiều lực lượng của chúng. Về phía quân đội viễn chinh thì ngày càng lâm vào tình trạng phân tán và bị động. Phần lớn lực lượng đều bị bó chân làm nhiệm vụ phòng ngự trong hàng nghìn đồn bốt rải rác trên khắp các chiến trường. Do đó mà lực lượng dự bị địa phương đã yếu, lực lượng tổng dự bị lại càng yếu hơn, thiếu hẳn một khối cơ động chiến lược mạnh để đối phó với các cuộc tiến công của chủ lực ta hoặc để mở những cuộc phản công giành lại chủ động. Nava đi đến kết luận là cần phải cải biến tình thế đó trên cơ sở xây dựng một quân đội ngụy lớn mạnh để giải quyết vấn đề quân số, thành lập gấp rút một lực lượng cơ động chiến lược mạnh, làm biện pháp chủ yếu để thoát khỏi tình trạng bị động phòng ngự lúc bấy giờ và tiến tới giành lại chủ động.
    Lần sửa cuối bởi ngochai; 01-05-2014 lúc 05:57 PM
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  9. #19
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Arrow Điện Biên Phủ - Đại tướng Võ Nguyên Giáp

    Phân tích các phương hướng chiến lược có thể bị uy hiếp, Nava đã nêu ra những nhận xét như sau:

    a) Hướng thứ nhất, có thể bị quân ta uy hiếp là đồng bằng Bắc Bộ. Ở đây, các căn cứ du kích và khu du kích của ta đang phát triển rộng khắp, lực lượng vũ trang địa phương của ta lại khá mạnh, do đó ta có khả năng sử dụng chủ lực, tiêu diệt một bộ phận sinh lực của chúng, phá vỡ phòng tuyến của chúng ở những khu vực nhất định.

    Nava cho rằng nguy cơ nói trên cần phải đề phòng, nhưng đây không phải là nguy cơ lớn nhất. Là vì nếu chúng ra sức đánh phá những căn cứ sau lưng địch của ta, lại luôn luôn sẵn sàng một lực lượng ứng chiến thì với điều kiện cơ động nhanh chóng, với khả năng phát huy tác dụng của các binh chủng kỹ thuật, chúng nhất định có thể ngăn chặn được cuộc tiến công của ta phát triển. Và nếu ta có giành được thắng lợi thì cũng chỉ thu được một thắng lợi có giá trị chiến thuật mà thôi. Tuy nhiên, đồng bằng là một vùng nhiều người, nhiều của, vận chuyển tiếp tế đều thuận lợi, quân ta có nhiều khả năng mở cuộc tiến công lớn vào đồng bằng, vì vậy cần phải tổ chức việc phòng thủ hết sức thận trọng.

    b) Hướng thứ hai, có thể bị quân ta uy hiếp là hướng tây bắc Việt Nam và Thượng Lào. Ở đây, trên chiến trường rừng núi, chúng có rất nhiều sơ hở. Do chỗ từ trước chỉ coi trọng đồng bằng, coi đồng bằng là vị trí “then chốt của Đông Nam Á” nên việc tổ chức chiến trường miền núi có nhiều thiếu sót binh lực bố trí phân tán, điều kiện tiếp tế khó khăn, điều kiện địa hình thì có lợi cho ta, không lợi cho chúng. Những thiếu sót và những điều kiện không có lợi nói trên đã từng gây ra cho chúng nhiều thiệt hại lớn, nhất là trong các trận Biên giới, Tây Bắc. Cho nên, cần đề phòng nguy cơ quân ta lại mở cuộc tiến công vào hướng này. Một cuộc tiến công mới có thể thu được những thắng lợi không những ở Tây Bắc mà cả ở miền Bắc Thượng Lào, do đó có thể gây ra một ảnh hưởng quân sự và chính trị không nhỏ, không những đối với Lào mà cả đối với Thái Lan.

    Nhưng Nava tỏ vẻ yên tâm hơn sau khi cân nhắc khả năng dùng bộ đội lớn của ta trên hướng này, vì các tướng tá quen thuộc chiến trường đều đã kết luận rằng: quân đội ta không có khả năng bào đảm vấn đề cung cấp chi viện với một quy mô lớn trong một thời gian tương đối dài đối với một chiến trường ở rất xa hậu phương của ta, vì vậy ở hướng này ta chỉ có thể dùng một binh lực có hạn mở những cuộc tiến công trong thời gian tương đối ngắn.

    c) Hướng thứ ba, có thể bị quân ta uy hiếp là hướng miền nam Đông Dương. Ở đây có miền Tây Nguyên chiến lược liền với Hạ Lào rồi đến chiến trường Nam Bộ nhiều người, nhiều của, lực lượng của địch nói chung so với đồng bằng Bắc Bộ thì yếu hơn nhiều, lại bố trí theo hướng phân tán phòng ngự ở các địa phương.

    Nava nhận định rằng, nếu chủ lực ta mở cuộc tiến công về hướng này thì có thể gây nên một sự đảo lộn lớn và thu được nhiều thắng lợi. Mặc dầu trước mắt chưa có triệu chứng gì về một cuộc tiến công như vậy, nhưng từ khi quân ta giải phóng Tây Bắc, bộ đội tình nguyện Việt Nam và Quân giải phóng Pathét Lào hoạt động ở Thượng Lào, giải phóng tỉnh Sầm Nưa và nhiều địa phương khác thì nguy cơ nói trên lại cần phải đề phòng. Do đó Nava đặt ra vấn đề phải kiên quyết ngăn chặn không để cho chủ lực ta vượt ra khỏi chiến trường miền Bắc, vượt khỏi một “tuyến cấm” đại thể đi từ Thà Khẹt đến Đồng Hới.

    Đối với chiến trường miền Nam, Nava cho rằng trải qua mấy năm tiến hành chiến tranh mà quân Pháp cứ để cho quân ta giữ vững các tỉnh nhiều người, nhiều của ở Liên khu 5 và một vùng tự do khá rộng ở Khu 9 Nam Bộ, đó là một thất sách lớn, vì ta có thể dựa vào những chỗ đứng chân đó để tăng cường lực lượng, gây những uy hiếp mới cho chúng.

    Căn cứ vào những nhận định nói trên, Nava và bọn tướng tá Pháp - Mỹ đề ra một kế hoạch tác chiến quy mô nhằm giành lại chủ động, và trong một thời gian ngắn giành lấy một thắng lợi quyết định.

    Kế hoạch tác chiến đó đại thể chia làm hai bước:

    a) Trong Thu Đông năm 1953 và mùa Xuân 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược ở miền Bắc, thực hiện tiến công chiến lược ở miền Nam, đồng thời ra sức mở rộng quân ngụy, tập trung binh lực xây dựng một đội quân cơ động lớn.

    Cụ thể là trong những tháng Thu Đông năm 1953, chúng chủ trương tập trung một lực lượng cơ động mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ, mở những cuộc càn quét dữ dội để đánh phá các căn cứ du kích và khu du kích của ta, đồng thời mở những cuộc tiến công uy hiếp vùng tự do của ta để giam giữ, tiêu hao chủ lực của ta, làm cho chủ lực của ta mỏi mệt, buộc ta phải bị động chống lại chúng trước khi đi vào thực hiện kế hoạch tấn công của ta. Trong lúc đó chúng sẽ tranh thủ thời gian mở rộng quân ngụy và tập trung binh lực.

    Sau mùa đông, tức là sau mùa hành binh lớn ở Bắc Bộ, bước vào đầu năm 1954, chúng sẽ lợi dụng quân ta đã bị tiêu hao, mỏi mệt, phải nghỉ ngơi để chúng chuyển phần lớn lực lượng cơ động vào hoạt động ở chiến trường miền Nam. Lúc bấy giờ chính là lúc điều kiện thời tiết ở miền Nam có lợi cho việc tác chiến của chúng. Ý định của chúng là mở những cuộc hành binh lớn nhằm mục đích chiếm đóng tất cả các vùng tự do còn lại của ta, nhất là vùng tự do Liên khu 5 và vùng tự do Khu 9 ở Nam Bộ. Đánh chiếm được tất cả các vùng nói trên tức là trừ diệt được những mối uy hiếp lớn; địch dự định sẽ nhân đà thắng lợi mà tổ chức thêm quân ngụy đồng thời tập trung thêm lực lượng cơ động tiến hành mọi sự chuẩn bị cho một cuộc đại tiến công trên chiến trường miền Bắc.

    b) Nếu kế hoạch trên được thực hiện tốt thì đến Thu Đông năm 1954, với một lực lượng cơ động đã được tăng cường rất nhiều và đang có một khí thế chiến thắng, chúng sẽ chuyển toàn lực ra miền Bắc, chuyển sang tiến công chiến lược trên chiến trường miền Bắc, giành lấy những thắng lợi quân sự to lớn, buộc ta phải điều đình trong một tình hình có lợi cho chúng. Và, nếu ta không chịu chấp nhận những điều kiện của chúng thì lúc đó sẽ tiêu diệt chủ lực ta.

    Để có đủ lực lương cần thiết cho việc thực hiện kế hoạch nói trên, Nava chủ trương giải quyết bằng ba biện pháp: mở rộng quân ngụy, mở rộng các “quân đội quốc gia” theo quy mô rộng lớn; rút một bộ phận lực lượng chiếm đóng để tập trung lại; xin tăng viện từ Pháp sang.

    Nava không có con đường nào khác là áp dụng chính sách thâm độc mà trước đây tướng Rơve, rồi đến tướng Đờlát đờ Tátxinhi đã đề xướng: “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”, dùng quân ngụy làm lực lượng chiếm đóng thay thế cho các lực lượng Âu - Phi trở về tập trung. Điều mới là Nava đã chủ trương cần thực hiện những phương sách đó với một quy mô rộng lớn hơn, với một tinh thần kiên quyết hơn.

    Với vũ khí và đôla của Mỹ, Nava và bọn tướng tá Pháp - Mỹ dự định tổ chức ngay trong năm 1953 một lực lượng quân ngụy mới gồm 54 tiểu đoàn gọi là khinh quân và sang năm 1954 thì tăng số đơn vị đó lên gấp đôi, đến 108 tiểu đoàn. Như vậy, đưa số quân nguy từ khoảng 20 vạn lên đến 29 vạn, không kể số quân ngụy ở trong quân đội viễn chinh.

    Đi đôi với việc mở rộng quân ngụy, Nava chủ trương nhanh chóng tổ chức ra một lực lượng cơ động chiến lược khá mạnh, đủ sức để đánh bại những chiến dịch tiến công trước mắt của quân ta và nhất là để chuyển sang tiến công chiến lược tiêu diệt chủ lực ta sau này. Cụ thể, Nava dự định trong năm 1953 và 1954 xây dựng một khối lực lượng cơ động là 7 sư đoàn trong đó có 6 sư đoàn lục quân, 1 sư đoàn quân nhảy dù, tất cả gồm 27 binh đoàn cơ động.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  10. #20
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Arrow Điện Biên Phủ - Đại tướng Võ Nguyên Giáp

    Trên đây là nội dung cơ bản của kế hoạch Nava. Kế hoạch này được Hội đồng các tham mưu trưởng nước Pháp đánh giá rất cao và ngày 24 tháng 7 năm 1953 được thông qua trước Hội đồng phòng thủ quốc gia của nước Pháp do Tổng thống Pháp đứng đầu gồm có: thủ tướng và các bộ trưởng: ngoại giao, tài chính, nội vụ, quốc phòng, Pháp quốc hải ngoại và bộ trưởng các quốc gia liên kết (bộ trưởng phụ trách Đông Dương), bộ trưởng các quân chủng và các tham mưu trưởng hải, lục, không quân. Kế hoạch này chẳng những được các chính giới của nước Pháp nhất trí mà còn được nhà cầm quyền Mỹ tán thành.

    Về phần mình, Chính phủ Pháp quyết định gấp rút điều quân để tăng viên cho chiến trường Đông Dương. Còn Chính phủ Mỹ thì sử dụng ngay 400 triệu đôla để tổ chức quân ngụy ở Việt Nam, quyết định tăng gấp rưỡi viện trợ quân sự cho Pháp (năm 1953 là 650 triệu đôla và 1954 là 1.264 triệu đôla, chiếm 73% chi phí chiến tranh Đông Dương), cung cấp thêm trang bị cho nhiều tiểu đoàn và trung đoàn pháo binh, cơ giới vận tải, tăng thêm 123 máy bay và 212 tàu chiến các loại. Các phái đoàn quân sự Mỹ Trapnen, Ô Đaníen liên tiếp sang Đông Dương đốc thúc, giám sát việc thực hiện kế hoạch.

    Để thực hiện âm mưu và kế hoạch nói trên, địch đã quyết định rút các lực lượng Âu - Phi tinh nhuệ của chúng ở một số vị trí về tập trung lại. Đồng thời Nava đề nghị Chính phủ Pháp tăng viện hai sư đoàn, nhưng chỉ được chấp nhận 12 tiểu đoàn điều động từ Pháp, Bắc Phi và Triều Tiên sang. Bước vào Thu Đông năm 1953, địch đã tập trung được một lực lượng cơ động gồm 84 tiểu đoàn trên toàn chiến trường Đông Dương và để thực hiện bước đầu của kế hoạch Nava, chúng đã tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ một lực lượng cơ động khá mạnh gồm 44 tiểu đoàn tức là trên 50% lực lượng cơ động của chúng lúc đó trên chiến trường toàn Đông Dương.

    Chúng đã dùng mọi thủ đoạn dã man tàn bạo để bần cùng hóa nhân dân ta trong vùng tạm chiếm, càn quét, vây bắt, lừa bịp, dụ dỗ, lưu manh hóa thanh niên. Từ tháng 5 năm 1953 đến tháng 3 năm 1954, số quân ngụy đã tăng thêm 9 vạn 5 nghìn. Địch đã tổ chức thêm được 107 tiểu đoàn. Đây là con số quân ngụy cao nhất từ trước đến lúc này. Tuy nhiên, bọn tướng tá Pháp - Mỹ cũng đã phải thừa nhận rằng, việc mở rộng quân ngụy thực tế chỉ giải quyết được vấn đề số lượng, trong lúc đó thì chất lượng ngày càng sút kém, tinh thần chiến đấu suy sụp, dù chúng đã vận dụng mọi thủ đoạn của chiến tranh tâm lý, nào là chiêu bài độc lập giả hiệu, nêu lý tưởng chiến đấu chống cộng, nào là cho quân lính chúng tha hồ bắn phá, hãm hiếp, cướp bóc trong các cuộc hành binh.

    Tử khi mới nhận chức, tướng Nava đã nhiều lần tuyên bố phải hành động theo khẩu hiệu “luôn luôn chủ động”, “luôn luôn tiến công”.

    Ngay trong mùa hè năm 1953 và suốt mùa thu năm ấy, địch đã mở liên tiếp hàng chục cuộc hành quân càn quét dữ dội trong vùng chúng chiếm đóng ở Bắc Bộ, Bình - Trị - Thiên và Nam Bộ.

    Trong các cuộc hành quân càn quét này, chúng đã huy động những lực lượng khá mạnh, có khi tới hàng chục tiểu đoàn bộ binh, có pháo binh và không quân yểm hộ như trong các trận càn quét lớn ở Bình - Trị - Thiên, vùng Hải Hậu tỉnh Nam Định, vùng sông Luộc tỉnh Thái Bình. Chúng càn đi quét lại nhiều lần, tàn sát nhân dân, vây bắt thanh niên, dồn dân vào các khu tập trung để tiện bề kiểm soát. Chúng ra sức đánh phá căn cứ du kích ta, phá hoại kinh tế, phá hoại lực lượng dự trữ của ta, dùng mọi thủ đoạn để thực hiện kế hoạch thâm độc mở rộng quân ngụy của chúng.

    Tháng 7 năm 1953, chúng cho quân nhảy dù sâu vào hậu phương của ta, tập kích Lạng Sơn và tuyên bố khoác lác rằng đã gây cho ta những tổn thất lớn, mặc dầu cuộc tập kích đó chỉ gây những thiệt hại không đáng kể.

    Chúng cho bọn phản động tay sai tăng cường hành động biệt kích, mở rộng những vùng thổ phỉ ở các khu vực gần Lao Cai, Lai Châu, nhất là ở Sơn La.

    Tháng 8 năm 1953, chúng rút toàn bộ binh lực ở Nà Sản về tập trung ở đồng bằng và tuyên bố huênh hoang cho cuộc rút quân đó là một thắng lợi lớn. Trước đây, địch đã từng coi Nà Sản là một thành “Vécđoong” thứ hai, chặn đứng cuộc tiến quân của chú nghĩa cộng sản về phía nam. Đến nay, khi phải rút quân để tránh khỏi nguy cơ bị tiêu diệt, chúng lại tuyên bố Nà Sản không còn có tác dụng gì về quân sự nữa.

    Tháng 10 năm 1953, chúng huy động 6 binh đoàn cơ động mở cuộc tiến công lớn gọi là chiến dịch Hải Âu vào vùng giáp giới Ninh Bình - Thanh Hóa, tuyên bố đã giành được quyền chủ động, làm tê liệt chủ lực của ta và rêu rao sắp sửa chiếm đóng Thanh Hóa hoặc tiến công lên Phú Thọ. Một đơn vị chủ lực của ta đã được lệnh, thừa lúc chúng tiến quân ra vùng tự do, chọn những nơi địa hình thuận lợi mà tiêu diệt từng bộ phận sinh lực của chúng. Mặc dầu quân địch tập trung nhiều lực lượng, huy động nhiều pháo binh, cơ giới, không quân ra trận, quân ta đã ra sức khắc phục khó khăn, chủ động lính hoạt, nắm vững cơ hội tốt, anh dũng chiến đấu tiêu diệt được nhiều sinh lực địch. Đồng thời ở vùng sau lưng địch, các đơn vị của ta cũng đẩy mạnh hoạt động, đánh vào hậu cứ của các binh đoàn cơ động của chúng. Trên mặt trận chính diện Ninh Bình cũng như ở vùng địch tạm chiếm, quân ta đã gây cho địch những tổn thất nặng nề, tiêu diệt hơn 4.000 tên và buộc chúng phải rút khỏi vùng tự do của ta.

    Thắng lợi này là một thắng lợi lớn đầu tiên của ta trên chiến trường Bắc Bộ trong khi mùa tác chiến thu đông mới bắt đầu
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

Tags for this Thread

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •