Đất Thanh Hóa phần nhiều là núi, bát ngát bao la đến mấy ngàn dặm. Trong đó có một ngọn núi cao chót vót, tên gọi là núi Na[1]. Núi có cái động, dài mà hẹp, hiểm trở mà quạnh hiu bụi trần không bén tới, chân người không bước tới. Hằng ngày trong động có nhiều tiều phu gánh củi đi ra, đem đánh đổi lấy cá và rượu, cốt được no say chứ không lấy một đồng tiền nào. Hễ gặp ông già, trẻ con dưới đồng bằng, lại nói những việc trồng dâu trồng gai một cách vui vẻ. Ai hỏi họ tên nhà cửa, tiều phu chỉ cười không trả lời. Mặt trời ngậm núi, lại thủng thỉnh về động. Người đương thời cho là người thuộc hạng Thần môn Tiếp Dư[2], chứ Thái Hòa[3] trở xuống đều không đủ kể .
[1]Núi Na ở về địa phận xã Cổ Định, huyện Nông Cống.
[2]Thần môn là người giữ việc mở cổng thành buổi sớm ở đời Xuân Thu, đó là một hiền giả lánh đời (Luận ngữ), Tiếp Dư họ Lục tên Thông, người đời vua Chiêu vương nước Sở, giả cách rồ dại không chịu ra làm quan, người đương thời gọi Sơ Cuồng, nghĩa là kẻ cuồng nước Sở.
[3]Lam Thái Hòa, tương truyền là một dật sĩ cuối đời Đường thường mặc bộ quần áo rách, một chân xỏ giầy một chân giẫm đất, đi lang thang ở đường ở chợ, tay cầm thanh gỗ dài ba thước, uống rượu say nhừ rồi gõ thanh gỗ ấy làm phách mà hát nghêu ngao.
Sau đến năm Khai Đại nhà Hồ, Hán Thương đi săn, chợt gặp ở đường vừa đi vừa hát rằng:
Na sơn chi hữu thạch toàn ngoan
Thụ thương thương
Yên mịch mịch
Thủy sằn sằn
Triêu hề ngô xuất
Hữu y hề chế kỹ
Hữu bội hề nhậh lan
Thát bài thanh hề bình hiểu chướng,
Nhậm tha triều thị
Nhậm tha xa mã
Tri trần bất đáo thử giang san,
U thảo Tống triều cung kiếm,
Cổ khâu Tấn đại y quan
Vương tạ phong lưu
Triệu Tào sự nghiệp
Toán vãng, cổ lai kim khanh tướng,
Thạch triện đài man
Tranh như ngã trạo đầu nhất giác
Hồng nhật tam can
Dịch:
Núi Na đá mọc chênh vênh,
Cây tùm um, nước long lanh khói mờ.
Đi về hôm sớm thẩn thơ,
Mình dư áo lá, cổ thừa chuỗi hoa.
Non xanh bao bọc quanh nhà,
Ruộng đem sắc biếc xa xa diễu ngoài,
Ngựa xe võng lọng thây ai,
Nước non riêng chiếm, bụi đời khôn vương,
Áo đai đời Tấn gò hoang,
Kiếm cung triều Tống dưới làn cỏ xanh[4]
Sự đời bao xiết mong mang,
Phong lưu Vương, Tạ, công danh Triệu, Tào[5]
Từ xưa khanh tướng ngôi cao,
Đá mờ rêu phủ đã bao nhiêu rồi.
Sao bằng ta được thảnh thơi,
Giấc mai bừng tỉnh mặt trời lưng không.
[4]Thơ Lý Bạch: Ngô cung hoa thảo mai u kính, Tấn đại y quan thành cổ khâu. Nghĩa là: Hoa cỏ cung Ngô vùi ngõ tối, áo đai đời Tấn lấp gò cao.
[5]Vương Đạo, Tạ An là khanh tướng đời nhà Tấn; Triệu Thổ, Tào Bân là khanh tướng đời nhà Tống.
Hát xong rồi phất áo đi thẳng, Hán Thương đoán chắc đó là một vị ẩn giả, bèn sai quan hầu là Trương Công đi theo mời lại. Nhưng Trương theo gần đến nơi thì thấy người ấy đã rảo bước vào động, vội gọi cũng không trả lời, chỉ thấy cưỡi mây lách khói, đi thoăn thoắt trong khoảng cành tùng khóm trúc. Biết đó không phải là người thường, bèn rón bước theo sau, rẽ cỏ lấy đường, đi ước chừng hai, ba dặm. Song đường núi gập ghềnh càng vào sâu càng khó đi lắm, rồi trong thoắt chốc đã chẳng thấy người ấy đâu cả. Ngẩng lên trông, tà dương đã gác đầu núi, cây cỏ đã bắt đầu lờ mờ, bàng hoàng muốn về, nhưng đã không kịp. Bỗng nghe có tiếng gà gáy ở trên một chòm cây trúc, Trương mừng mà rằng:
-Đây đến chỗ có nhà người ở cũng không xa gì.
Chống gậy trèo lên thì thấy có một cái am cỏ, hai bên tả hữu trồng mấy cây kim tiền chen lẫn vào những cây bích đào, hồng hạnh, đều xanh tốt đáng yêu cả. Trong am đặt một cái giường mây; trên giường để đàn sáo và chiếc gối dựa. Hai bên bức vách đông tây đều trát keo trắng và đề hai bài ca, một bài là “Thích ngủ”, một bài là “Thích cờ”.
BÀI CA THÍCH NGỦ
Ngô hà ái? Ái duy miên,
Ái vị an thu tính thích nhiên
Thiển mặc trướng thiêm tân phú quý
Ủy đẳng sàng kết cựu nhân duyên
Mai chi hiên trúc chi viên
U cư thú vị hữu lâm tuyền.
Thanh nô ủng hậu
Hồng hữu la tiền
Môi <> hắc điềm thắng,
Cảnh lương tứ khinh tiễn
Song yểm nhĩ hồng trần thế thượng,
Tiểu khúc quăng bạch ốc vân biên
Kỳ ngạo thảo lư, Nam dương nhàn nhật nguyệt
Khiếm thân Vân quán, Triêu Tống trích sơn xuyên
Bắc song ngâm hồn dị súc,
Tây đường xuân mộng thường viên
Thư lâu sơ quyển tịch,
Tửu điếm dục tình thiên
Huyền hạc Hoàng châu dạ dạ
Mỹ nhân Tương thủy niên niên
Hữu thời hướng túy hương đả ngọa
Thảo phô nhân, hoa phô ốc, địa phô chiên
Bành trạch dạ thâm, bán liêm tàn nguyệt,
Liêm Khê viện tĩnh, nhất chẩm đề quyên.
Nhiệm nhân đạo vi lãn phu sĩ, vi khát thụy hán, vi ẩn thần tiên.
Dịch:
Thích gì? Ta thích ngủ thôi,
Vì chưng ngủ được, trong người sởi sang
Nhân duyên xe chặt giường màn
Trúc, mai, rừng, suối muôn vàn cảnh thanh.
Quanh mình bạn đỏ hầu xanh[6]
Giấc ngon bừng tỉnh tâm linh nhẹ vèo.
Bưng tai chuyện thế eo sèo,
Khoanh tay ngất ngưởng nằm khoèo bên mây.
Lều tranh một túp xinh thay,
Nam Dương nọ kẻ tháng ngày thảnh thơi[7]
Quán Vân uể oải nằm dài,
Non sông coi nhỏ kìa ai Tống Triều[8]
Lầu tây song bắc tiêu diêu
Khi mai quán rượu, lúc chiều hiên thơ,
Sông Tương người đẹp trong mơ[9]
Châu Hoàng bóng hạc vật vờ cao bay[10]
Có khi ngủ tít làng say,
Đất giường, cỏ đệm, hoa vây làm màn.
Uyên Minh ngủ dưới trăng tàn[11]
Liêm Khê gối chợp tiếng ran quyên gào[12]
Chê khen ai bảo thế nào:
Đồ lười biếng, bậc thanh cao, mặc lòng.
[6]Bạn đỏ, chữ là hồng hữu, tên một thứ rượu. Hầu xanh, chữ là thanh nô, trỏ vào một thứ gối dựa làm bằng trúc xanh, mùa hạ đặt trên giường để gác chân tay vào cho mát
[7]Ông Gia Các Lượng trước khi ra giúp Lưu Bị, nằm ngủ khểnh trong túp liều tranh ở đất Nam Dương
[8]Trỏ vào ông Trần Đoàn , một bậc cao sĩ đời Tống, mấy lần vua vời đều từ chối không ra. Trước ở Tịch Cốc và luyện khí hơn 20 năm tại núi Vũ Dương, sau dời đến quán Vân Đài ở núi Họa
[9]Xưa có người bắt được cái gối, đêm nào cũng nằm mơ thấy cùng một mỹ nhân đưa đi chơi trên sông Tương
[10]Đời Tống, ông Tô Đông Pha khi bị trích xuống Hoàng Châu (làm quan có lỗi phải dời đến chỗ xa xôi hay rừng thiêng, nước độc sự là bị trích), mùa thu cùng bạn đi chơi thuyền trên sông Xích Bích, thấy một con hạc bay qua thuyền, rồi đêm ngủ trong thuyền chiêm bao gặp một đạo sĩ mặc tấm áo lông
[11]Uyên Minh tức là ông Đào Tiêm đời Tấn, từ quan về ẩn nằm ngủ ở dưới cửa sổ đằng bắc, tự coi mình là người đời Hy Hoàng
[12]Ông Chu Liêm Khê đời Tống có một cái gối, hễ nằm vào ngủ thì nghe thấy tiếng cuốc kêu, nhân gọi là "gối cuốc kêu"
BÀI CA THÍCH CỜ
Ngô hà ái, ái duy kỳ
Ái vị phong vân thiểu thái kỳ.
Liệt xứ loại long xà thất thế,
Thắng biên như hùng hổ uy dương uy.
Xa song trì, mã song phi
Độ hà nhất tốt kháo trùng vi
Bắc nam tương giới, hình thế tương y
Phương viên động tĩnh diệu toán vô di
Xuân tịch tịch xạ khao tàn mộng.
Thủ dao dao lung toái hương nê,
Độc lạc viên trung, tân bằng sơ định hậu
Hoàng châu lâu hiểu, minh đính bán tỉnh thì.
Trú Vĩnh thiên lưu khách cửu,
Am cao tử lạc thanh trì
Viện giáo dung thiếp tảo
Liêm hứa tiểu đồng khuy
Doanh thâu đổ giang sơn bán cục
Công danh tiêu đắc thất nhàn ky
Hồn bất giác nhất thiên hướng tịch,
Nguyệt tà song, yên tà triện, trúc tà chi
Lãng uyển thần tiên, nhàn trung độ nhật.
Trường an công tử, túy úy vong quy
Tương đối xử kiêm ta cầm, kiêm tà họa, kiêm ta bích đề thi.
Dịch:
Thích gì? Ta thích cờ thôi
Gió mây biến hóa ai ôi lạ lùng.
Cơn thua, rồng rắn khi cùng,
Mà xem lúc thắng hổ hùng dương oai.
Ngựa ai giong đuổi đường dài,
Sang sông một tốt hãm ngoài trùng vi.
Bắc nam hình thế riêng chia,
Tới lui động tĩnh tính suy đủ đường.
Xuân êm khua tỉnh giấc vàng,
Con cờ đập mạnh hương đàn thoảng bay[13]
Vườn riêng xum họp bạn bầy[14].
Châu hoàng lầu Trúc rượu say nửa vời[15]
Ngày dài lưu khách ngồi chơi,
Am cao điểm tiếng quân rơi trước bàn.
Tiểu đồng ngấp ngó bên lan,
Cô hầu quanh viện quét tàn lá rơi.
Giang sơn vật lộn tay đôi,
Công danh quên bẫng chuyện đời hơn thua.
Ngày vui thời khắc êm đưa,
Trăng tà hương lạnh trúc ngơ ngẩn cành.
Thần tiên nhàn nhã vườn quỳnh,
Trường an công tử thích tình vui say.
Trong khi vui nước cờ hay,
Thêm đàn thêm rượu, thêm đầy vách thơ.
[13]Ý nói quân cờ làm bằng gỗ đàn
[14]Bài ký vườn Độc lạc của ông Tư Mã Ôn cũng có câu: "Chén rượu vui vẻ buổi xuân thừa, cuộc cờ tiêu khiển ngày hạ dài"
[15]Vương Nguyễn Chi làm bài ký lầu Trúc ở Hoàng Châu trong có câu: "Nghi vi kỳ, tử thanh đinh đinh nhiên" nghĩa là nên đánh cờ, tiếng con cờ kêu lát chát.
Còn Tiếp