PDA

View Full Version : Tạp Lục Truyện (Quỷ thần - Ma mãnh truyện) !



backieuphong
03-09-2013, 12:31 PM
1. Thực hảo ma ?

Ăn có ngon không?

Việt Nam Trung Hưng năm thứ 68 ở Nam phương có lão già họ Lê tên Mỗ trước cũng có tiếng là "bụng đầy chữ nghĩa". Thân tuy về trí sĩ và tuổi cũng đã thất tuần thế nhưng không hiểu vì sao càng về già lão lại càng lầm lẫn.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhminhoa/dsc03855.jpg
Lê mỗ xưa cũng có tiếng là "bụng đầy chữ nghĩa" !?

Một bữa bệnh, chẳng biết nghĩ ngợi như thế nào, lão bèn giở quyển “kinh”, thứ bảo bối (cái cái quyển xưa nay lão vẫn cho là báu vật, vẫn tự hào chỉ mình mới có, vẫn cứ gối ở đầu giường và thao thao “đàm thiên thuyết địa” với bạn bè, bằng hữu mỗi khi có ai đó đến thăm), vật “bất khả ly thân” ra rồi cứ thế mà đào bươi moi móc, tính tính toán toán. Rồi thì chẳng biết lão nghĩ như thế nào mà lại tụt quần rồi ị cả vào cuốn kinh. Vừa ị, lão còn luôn mồm hỏi “ăn có ngon không?”.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/dsc02502.jpg

Chỉ thấy mây đen vần vũ, sấm đùng đùng, chớp loằng nhoằng từ bốn phương ập đến, rồi thì cứ nhè vào lão mà phóng tới. Mỗ hoảng sợ vội kéo quần bỏ chạy nhưng chạy đến đâu, sấm sét truy đến đó.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhminhoa/sm%20.jpg
Chỉ thấy mây đen vần vũ...

Lão chạy mãi, chạy mãi đến một cái chỗ có cái thế đất cao cao, khí hậu buốt lạnh, dân tình rặt một lũ mắt xanh mũi lõ, người đầy lông lá, tiếng nói như chim. Lê mỗ mặt tái xanh tái xám, hổn hển không ra tiếng lọ mọ vào xin ở trọ. Trọ được ba bữa thì mắc cái chứng bệnh són phân ra quần rồi cứ thế lấy tay bốc ăn, mồm lại tự hỏi “Ngươi ăn thấy ngon không?”, ăn xong lại són, són xong lại bốc ăn. Dân bản xứ thấy thế đều kinh hãi và xa lánh. Cũng có kẻ thương hại cho mời đại phu đến bắt mạch nhưng các thầy đều lắc đầu và phán “Bệnh ác khẩu tâm đố, đã thấm sâu vào óc, không chữa được”.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/dsc02475.jpg
Chẳng biết sắp tới sức khỏe của Lê mỗ sẽ ra sao?

Lê mỗ vừa són vừa ăn tính đến nay cũng đã hơn chục bữa. Bệnh trạng như thế, chẳng biết còn kéo được mấy ngày.

taothao
03-09-2013, 05:37 PM
Trời ơi, Kiều Công Tử "trảm" khiếp quá, Trảm Phong thế này thì tuy không rơi Đầu nhưng chắc cũng rụng Tim. Vả chưng Kinh Sách được nêu ở trên là Điệu Lề Kinh chăng?

backieuphong
03-09-2013, 08:44 PM
2. Mại Toán lão nhân


Chuyện Ông Già Bán Tỏi

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Binh_khi/cn%202.jpg
Dương Nhị luyện công...

Huyện Nam Dương có tướng quân tên Dương Nhị, giỏi quyền thuật, có thể dùng vai nâng chiếc thuyền chở lương lên. Mấy trăm quân sĩ xúm lại lấy giáo mà đâm, giáo đâm trúng người đều gãy vụn cả. Vì thế mà nổi tiếng một thời. Dẫn quân đến Thường Châu, mỗi khi tới diễn võ trường dạy thương bổng thì người đứng xem đông như hội.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/dsc02523.jpg
Diễn võ trường

Một hôm, khi đang diễn luyện cho quân sĩ chợt có một ông già bán tỏi lưng còng lọm khọm, gấy yếu đi qua. Thấy Dương Nhị đang huấn luyện quân sĩ, lão già bèn đứng cạnh xem, liên mồm hung hắng và lên tiếng chê bai. Mọi người cả sợ, tới nói với Dương. Dương cả giận, truyền lão già tới rồi vung quyền đánh vào bức tường gạch, tay ngập vào cả thước, ngạo nghễ quát:
- Ông có làm được thế không ?
Lão già nói:
- Quan gia có thể đánh được tường chứ chưa chắc đánh được người.
Dương nghe càng giận, mắng:
- Lão già khốn kiếp, có dám để ta đánh một quyền không?
- Lão già này đâu dám chối từ - Ông già nói.
- Vậy có chết cũng đừng oán trách ta nhé.
Ông già cười nói:
- Người già sắp chết nếu lấy cái chết giúp tướng quân thành danh thì lão già này đâu có tiếc.

Bèn giao ước trước chỗ đông người, làm giấy tờ xong, bảo Dương nghỉ nghơi ba ngày. Đúng hẹn, ông già tự trói mình vào gốc cây, cởi áo để lộ ngực, Dương lấy thế từ ngoài mười bước vung quyền xông vào đánh. Ông già im lặng không nói tiếng nào, chỉ thấy Dương hai gối quỳ xuống, khấu đầu nói:
- Vãn sinh biết tội rồi.
Dương cố rút quyền ra nhưng đã bị kẹp vào bụng ông già cứng ngắc không sao rút được. Nài nỉ hồi lâu, ông già mới phình bụng thả ra, bị hất lăng ra ngoài cầu Nhất Thạch.
Ông già thong thả đeo giỏ tỏi ra đi, rốt lại vẫn không chịu nói tên họ.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tao_lao/vo_ve/s%20ph%202.jpg
Rốt lại vẫn không nói tên họ...

Chuyện thấy chép trong Tử Bất Ngữ của Viên Mai

backieuphong
03-09-2013, 09:56 PM
Chuyện Đổng Kim Âu

http://thaicucthieugia.com/images/stories/anhminhoa/anh_vole/2013.jpg
Đổng Kim Âu

Đổng Kim Âu là dũng sĩ ở Hồ Châu, có thể mang vật nặng đi bộ mười ngày tới kinh đô. Đổng hành nghề Bảo Tiêu, chuyên áp tải hàng cho khách vào kinh. Một bữa, khi đi ngang qua miếu Khai Thành thuộc địa phận Sơn Đông, có tên cướp theo sau định cướp. Đổng biết được bèn treo vàng lên cây, xuống ngựa đánh nhau với tên cướp. Tên cướp thua, hỏi:
- Quyền pháp của túc hạ là ai dạy cho ?


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anh_bai_dang/lien_quan_vo_thuat/ninja%202.jpg
Có tên cướp theo sau định cướp...

Đáp:
- Tăng Nhĩ.
Tên cướp nói:
- Phá được quyền pháp của Tăng Nhĩ phải là em gái của ta, ngươi có dám chờ không ?
Đổng cười nói:
- Tránh mặt đàn bà thì không phải là trượng phu.
Nói xong bèn ngồi đợi. Một lát sau có một cô gái mặt đẹp như hoa, tuổi chừng mười tám đôi mươi đi tới. Sau khi báo danh là tỉ thí ngay. Được vài hiệp, cô gái nói:
- Quyền pháp của ngươi không phải chỉ Tăng Nhĩ dạy, mà còn có người khác nữa.
Đổng nói thật:
- Ta lúc đầu học Tăng Nhĩ, sau học sư phụ Tăng Nhĩ là Vương Chính Nam.
Cô gái nói:
- Nếu thế thì xin mời đến nhà ta ăn một bữa cơm rồi tái đấu sau đó quyết phân thắng phụ. Ngươi có dám không ?
Đổng cậy tài bèn đi theo cô gái. Vừa khi tới cổng đã thấy trong nhà tưng bừng đèn kết hoa đăng. Còn đang bỡ ngỡ thì thấy người con trai lúc nãy dẫn vợ cùng với đám gia nhân ra đón mừng, nói:
- Em rể ta tới rồi.
Nói rồi lấy khăn đỏ che mặt em gái, ép hai người giao bái. Đổng ngạc nhiên hoảng sợ hỏi duyên cớ, đáp:
- Cha ta xưa cũng làm Bảo tiêu, trên đường gặp Tăng Nhĩ, đánh thua mà chết. Ta cùng em gái lập chí báo thù, cùng luyện quyền pháp nhất định phải thắng được Tăng Nhĩ rồi sẽ giết y. Dò biết sư phụ của Tăng Nhĩ là Vương Chính Nam, nhưng không sao tìm được. Ngươi là đệ tử, ắt có thể dắt anh em ta đến gặp Vương Chính Nam để học thêm quyền pháp nhằm trả thù cho cha.


http://www.zgxys.com/upfile/20120502182637393.jpg
Ép hai người làm lễ phu thê giao bái

Đổng bèn ưng bụng ở lại làm rể, lại sai người thay mình đem vàng bạc lên kinh. Về sau không biết chuyện ra sao.

backieuphong
04-09-2013, 11:22 AM
4. Hiệp Nữ


Người Con Gái Nữ Hiệp
Thư sinh họ Cố người Kim Lăng, học rộng tài hoa, nhưng nhà rất nghèo, lại vì có mẹ già không nỡ rời dưới gối, nên hàng ngày chỉ vẽ thuê viết mướn kiếm ăn. Ðã hai mươi lăm tuổi mà vẫn phòng không lạnh lẽo. Trước cửa nhà chàng là một ngôi nhà bỏ hoang từ lâu, một hôm có một bà già cùng một cô gái đến thuê để ở. Vì thấy không có đàn ông, nên chàng cũng chưa tiện thăm hỏi gốc tích của họ.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/t%20ti%201.jpg
Cố thư sinh

Một hôm tình cờ từ ngoài về, chàng gặp cô gái trong phòng mẹ đi ra, tuổi chừng mười tám mười chín, xinh đẹp, thanh tú, trên đời ít có người sánh kịp. Gặp chàng, cô không tránh mặt nhưng có vẻ nghiêm lạnh.

Chàng vào nhà hỏi mẹ, bà bảo:
- Ðó là cô gái ở nhà trước cửa, sang mượn thước và kéo may. Cô vừa cho biết nhà cũng chỉ có một con một mẹ. Trông cô có vẻ không phải con nhà nghèo. Hỏi sao không lấy chồng, đáp vì còn mẹ già. Ðể mai mẹ sang chào bà cụ, nhân tiện dò xem sao. Nếu ước vọng của họ không cao xa quá thì con có thể phụng dưỡng mẹ già thay nàng .
Hôm sau bà qua nhà cô gái, thấy mẹ nàng là một bà lão điếc. Nhìn trong nhà, tịnh không còn một bữa gạo cho ngày mai; hỏi cách sinh sống thì chỉ trông nhờ vào hai bàn tay cô gái. Dần dà mẹ chàng đem chuyện kết thân giữa hai nhà ra ướm hỏi; bà cụ như ý cũng bằng lòng, nhưng còn quay sang bàn bạc với cô gái; nàng nín lặng, xem chừng không được . Mẹ về, kể lại cho con nghe và tỏ ý ngờ vực nói :
- Hay là cô ấy ngại nhà mình nghèo chăng? Tính tình nghiêm nghị không nói không cười, xinh như đào mận mà lại lạnh lùng như sương tuyết, thật là người kỳ lạ!
Mẹ con than tiếc một lúc rồi cũng bỏ qua.
Một hôm chàng ngồi ở phòng, bỗng có một thiếu niên đến nhờ vẽ tranh. Chàng ta dung nhan đẹp đẽ nhưng ý tứ thì khá buông tuồng. Hỏi ở đâu đến, đáp là ở thôn quê. Sau đó vài ba ngày lại đến một lần. Lâu dần thành quen, cười đùa cợt nhã. Chàng suồng sã ôm choàng lấy, cũng không chống cự gì lắm, liền tư thông với nhau. Từ đấy đi lại rất thân. Gặp khi cô gái đi ngang, thiếu niên đưa mắt nhìn, hỏi là ai, chàng đáp:
- Cô hàng xóm.
Thiếu niên nói:
- Ðẹp thì đẹp thật, mà sao thần sắc đáng sợ thế!


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/trang%20sinh%20.jpg

Lát sau chàng vào nhà trong, mẹ bảo:
- Vừa rồi cô gái sang xin gạo, nói đã hai ngày bếp không đỏ lửa. Cô gái thật có hiếu nhưng nhà nghèo quá, kể cũng đáng thương, ta cũng nên chu cấp ít nhiều.
Chàng nghe lời, mang đấu gạo sang, gõ cửa nói lại ý mẹ. Cô gái nhận gạo cũng không cảm tạ. Hàng ngày nàng sang nhà, thấy mẹ chàng may vá, cũng vá áo xâu kim giúp mẹ. Ra vào trong nhà, làm lụng mọi việc như con dâu. Chàng càng thêm biết ơn nàng, mỗi khi có ai biếu xén thức gì đều chia ra biếu lại mẹ nàng. Cô gái vẫn không hé răng nói một lời cảm tạ.

Bỗng nhiên mẹ chàng mọc cái nhọt ở chỗ kín, đêm ngày kêu khóc. Cô gái thường xuyên đến tận giường chăm sóc, rửa mụn bôi thuốc cho bà, ngày ba bốn bận. Mẹ rất áy náy nhưng cô không nề hà chuyện bẩn thỉu.

Mẹ nói:
- Ôi, làm sao có một nàng dâu như con trông nom mẹ lúc tuổi già, để chết cho mát mẻ đây!
Nói xong, buồn bã nghẹn ngào. Cô gái an ủi bà rằng:
- Anh nhà là người con chí hiếu, còn hơn cảnh nhà cháu mẹ goá con côi gấp trăm lần.
Mẹ nói:
- Tới lui hầu hạ bên giường, nào phải là việc người con trai hiếu làm nổi đâu. Vả lại, thân này cũng đã xế chiều, hôm trái nắng trở trời chẳng biết thế nào nên rất khắc khoải về một người nối dõi.
Ðang nói thì chàng vào, mẹ khóc bảo:
- Mẹ mang ơn nương tử nhiều lắm, con chớ quên báo đáp.
Chàng cúi đầu vái tạ. Cô gái nói:
- Chàng kính trọng mẹ tôi, tôi không vái tạ, chàng vái tạ làm gì?
Do đấy chàng càng thêm kính yêu, nhưng cử chỉ nàng rắn rỏi, không đằm thắm, nên mảy may chẳng sàm sỡ được. Một hôm cô gái ra khỏi cửa, chàng đăm đăm nhìn theo. Nàng bỗng quay đầu lại cười tươi tắn. Chàng mừng rỡ vì việc xảy ra đến ngoài muốn, bèn chạy theo sang nhà; chọc ghẹo cũng không kháng cự, vui sướng cùng giao hoan. Xong xuôi, nài:
- Việc này chỉ một lần, không có lần thứ hai đâu nhé!
Chàng không đáp, ra về.
Hôm sau, lại hẹn, thì nàng nghiêm nét mặt, không ngoái nhìn, đi thẳng. Ngày ngày nhiều lần qua lại, thường gặp nhau luôn, nhưng nàng không hề làm bộ tươi cười hay dùng lời đưa đẳy; hơi đùa cợt một chút đã nghe những câu lạnh người. Một hôm, nhân chỗ vắng người, nàng chợt hỏi:
- Chàng thiếu niên hàng ngày vẫn đến là ai thế?
Chàng kể tình đầu; nàng bảo:
- Ðã nhiều lần y có những cử chỉ, thái độ vô lễ với thiếp rồi. Vì là chỗ thân quen với chàng nên thiếp đành bỏ qua. Nhờ chàng chuyển lời; nếu còn tái phạm tức là không muốn sống nữa đấy!
Ðến tối, thiếu niên tới, chàng nói lại, rồi dặn thêm:
- Anh phải cẩn thận, người ấy không đụng đến được đâu!
Thiếu niên nói:
- Không đụng đến được, sao anh lại đụng được?
Chàng chối là không có chuyện ấy, thiếu niên nói:
- Nếu không có gì sao những lời thô lỗ cợt nhả kia lọt vào tai anh được?
Chàng không còn biết nói thế nào.
Thiếu niên nói:
- Cũng phiền anh chuyển lời hộ: Cô nàng đừng giả vờ nghiêm nghị nữa. Nếu không tôi nói toạc ra cho mọi người cùng biết.
Chàng rất giận, đỏ mặt tía tai; Thiếu niên bèn bỏ đi.
Một đêm, chàng đang ngồi một mình, bỗng nhiên cô gái tìm đến, cười bảo:
- Em với chàng tình duyên chưa dứt, lẽ nào không phải là số trời?
Chàng mừng cuống lên, ôm nàng vào lòng. Ðột nhiên, nghe tiếng giày lộp cộp, hai người giật mình nhổm dậy, thì thiếu niên đã xô cửa bước vào. Chàng kinh hải hỏi:
- Cậu làm gì vậy?
Anh ta cười đáp:
- Tôi đến để xem con người trinh trắng đấy thôi.
Rồi ngoái nhìn nàng nói:
- Hôm nay không chê trách người khác nữa ư?
Cô gái đỏ lừng gò má, lông mày dựng đứng lên, không nói một lời. Nàng hất mạnh vạt áo, để lộ một chiếc bao da, thuận tay rút phắt ra một con dao găm sáng loáng, dài chừng một thước. Thiếu niên trông thấy, sợ hãi bỏ chạy. Ðuổi theo ra đến cửa, nhìn quanh, thì đã mất hút. Nàng cầm dao găm ném vào khoảng không, chỉ nghe một tiếng 'rạt' đã thấy hiện ra một luồng sáng rực rỡ như cầu vồng. Lát sau nghe tiếng một con hồ trắng, đầu và mình mỗi thứ văng một nơi, nhìn mà thất kinh. Cô gái nói:
- Chàng thiếu niên đẹp trai của chàng đó. Tôi đã dằn lòng tha thứ, nhưng hắn nhất định không muốn sống thì biết làm thế nào?


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/h%20ly%204.jpg
Chàng thiếu niên đẹp trai của chàng...

Rồi nàng cất dao vào bao. Chàng cố kéo trở vào phòng, nàng bảo:
- Vừa rồi yêu quái làm mất cả hứng, xin để đêm mai.
Nói đoạn ra cửa đi thẳng. Ðêm sau, quả nhiên cô gái lại đến, bèn cùng nhau ân ái. Hỏi về kiếm thuật, nàng đáp:
- Ðó không phải là điều chàng nên biết. Hãy giữ kín, nếu lộ ra, e tai vạ đến chàng.
Lại bàn chuyện hôn nhân, cô gái nói:
- Ðã chung chăn gối, lại lo liệu việc nhà, không phải vợ thì còn là gì? Ðã là vợ chồng hà tất phải nói đến cưới hỏi.
Chàng hỏi:
- Hay là chê tôi nghèo?
Nàng đáp:
- Chàng đã đành là nghèo, nhưng thiếp giàu sao? Sum vầy đêm nay, chính là thương chàng nghèo đấy thôi.
Khi chia tay lại dặn:
- Việc làm cẩu thả này không thể thường luôn được. Lúc nên đến, thiếp sẽ tự đến, không nên đến thì ép buộc nhau có ích gì!
Về sau mỗi lần gặp gỡ, hễ chàng nói chuyện riêng tư là cô gái lại tránh đi. Tuy nhiên, việc vá may nấu nướng vẫn một tay nàng quán xuyến, không khác gì người vợ chính thức. Ðược mấy tháng, mẹ nàng chết, chàng dốc sức lo việc ma chay.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/n%20hip.jpg
Từ đó, nàng ở một mình

Từ đó, nàng ở nhà một mình. Chàng nghĩ phòng không bóng chiếc có thể tính chuyện chung chạ được, bèn nhảy qua tường mà vào, đến bên cửa sổ gọi mãi, nhưng rốt cuộc chẳng một ai thưa. Bèn lại cửa chính nhòm vào thì nhà trống không mà cửa vẫn cài. Trộm ngờ cô gái có nơi hò hẹn nào khác. Ðến đêm, lại tới, vẫn y như vậy, bèn tháo viên ngọc vẫn đeo bên mình để lại trên cửa sổ rồi đi.
Hôm sau gặp nhau ở buồng mẹ. Khi chàng đi ra, cô gái theo sau,nói:
- Chàng ngờ thiếp ư? Mỗi người đều có tâm sự riêng, không thể nói hết với người khác. Nay dẫu muốn chàng hết ngờ cũng đâu có được. Nhưng có một việc phiền chàng lo liệu gấp.
Hỏi việc gì, đáp:
- Thiếp có mang đã tám tháng rồi, e sinh nở nay mai. Nhưng danh phận của thiếp chưa rõ ràng, chỉ có thể sinh con cho chàng chứ không thể nuôi con cho chàng được. Chàng hãy thưa riêng với mẹ lo tìm một người vú nuôi, nói dối là con xin được chứ đừng nói là con do thiếp sinh ra.
Chàng nhận lời, về kể lại với mẹ, bà cười bảo:
- Con bé này kỳ thật! Hỏi cưới thì không chịu, mà lại ăn vụng với con mình.

(còn nữa)

backieuphong
04-09-2013, 02:31 PM
4. Hiệp Nữ

Tiếp theo...
Bà vui mừng làm theo nàng và chờ đợi. Lại cách hơn một tháng, có đến mấy ngày cô gái không sang. Mẹ lấy làm ngờ, đến cửa nhòm xem thì cửa đóng mà nhà vắng lặng. Gõ cửa hồi lâu mới thấy cô gái đầu bù tóc rối, mặt mũi không rửa, từ trong buồng bước ra, mở cửa cho bà vào xong, đóng lại ngay. Vừa vào trong nhà đã nghe tiếng trẻ khóc oe oe trên giường. Bà kinh ngạc hỏi:
- Con sinh từ bao giờ vậy?
Nàng thưa:
- Ðã ba ngày.
Giở tã lót ra xem thì là đứa bé trai, má bụ bẫm trán rộng, bà vui mừng nói:
- Con đã vì già mà nuôi cháu; một mình lênh đênh, rồi sẽ nương tựa vào ai?
Cô gái nói:
- Ðiều con canh cánh trong lòng, chẳng dám phơi bày cùng mẹ. Ðợi lúc đêm hôm vắng vẻ sẽ cho cháu về với bà.
Mẹ về nói chuyện với con trai, cũng thầm cho là lạ. Ðến đêm, bế đứa trẻ về. Lại mấy đêm sau, vào khoảng nửa đêm, cô gái bỗng gõ cửa, bước vào, tay xách chiếc túi da cười nói:
- Việc lớn của thiếp đã xong rồi. Từ nay xin vĩnh biệt!
Chàng vội hỏi duyên cớ, nàng nói:
- Công ơn nuôi mẹ thiếp vẫn khắc sâu trong dạ. Trước đây từng nói 'Chỉ một lần thôi, không có lần thứ hai' không phải có đem việc chung đụng gối chăn ra để báo đáp. Chỉ vì chàng nghèo không thể lấy được vợ nên gắng sinh cho chàng một đứa con để nối dõi. Những mong chỉ một lần là thành, chẳng ngờ lại thấy có kinh nên phải 'phá giới' lần thứ hai. Nay ơn chàng đã đền, chí thiếp đã toại, chẳng còn gì ân hận nữa .
Hỏi:
- Trong túi có vật gì đấy?
Ðáp:
- Ðầu kẻ thù!
Hé ra cho nhòm, thì râu tóc bắt vào nhau mà máu loang nhoà nhoẹt. Chàng sợ muốn đứt hơi, lại hỏi kỹ thêm.

Nàng nói:
- Trước đây không dám nói với chàng, vì sợ nếu chuyện không giữ kín được sẽ lộ ra. Nay việc đẫ xong, kể chàng nghe cũng chẳng hại gì. Thiếp vốn người Chiết Giang, cha làm quan Tư Mã bị kẻ thù hãm hại, nhà cửa bị tịch biên. Thiếp phải cõng mẹ già đi trốn, ấn giấu họ tên, chôn vùi tung tích đã ba năm rồi. Sở dĩ không báo thù ngay chỉ vì mẹ đang còn sống. Ðến khi mẹ mất, lại vướng 'khối thịt' đang mang trong bụng. Vì thế cứ nấn ná mà thành lâu. Ðêm hôm nọ đi vắng, chẳng có duyên có gì khác, chỉ vì đường sá cổng ngõ chưa thông thuộc, sợ có sự nhầm lẫn mà thôi.
Nói xong, ra cửa, lại dặn rằng:
- Ðứa con thiếp sinh ra, hãy chăm sóc cẩn thận! Chàng phúc mỏng, chẳng sống lâu được, con rồi sẽ làm rạng rỡ cửa nhà. Ðêm khuya đừng làm kinh động đến mẹ, thiếp đi đây!
Chàng đang rầu rĩ, toan hỏi đi đâu thì nàng đã vụt đi nhanh như chớp, chỉ nháy mắt đã không thấy đâu nữa. Chàng than tiếc, đứng sững như kẻ mất hồn. Sáng hôm sau kạ lại với mẹ, hai mẹ con cứ tấm tắc là chuyện lạ lùng. Ba năm sau quả nhiên chàng mất.

Ðứa con mười tám tuổi đỗ Tiến sĩ, một lòng hiếu để và phụng dưỡng bà.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/cng%20sinh.jpg
18 năm sau, đứa con trai của chàng Cố thư sinh năm xưa...

Backieuphong theo Liêu trai Chí Dị truyện

backieuphong
07-09-2013, 04:56 PM
5. Một điển hình "Võ Dõng"

TẦN VŨ VƯƠNG SÍNH TÀI TÁNG MỆNH


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Dong_chu/tn%20thy%20hong.jpg
Tần Vũ Vương 秦武王 vị vua thứ 32 của nước Tần (311 - 307 TCN)

Năm 311 TCN, Tần Huệ Văn vương qua đời, Doanh Đảng (嬴蕩) lên nối ngôi, tức là Tần Vũ Vương (秦武王) còn gọi Tần Vũ Liệt vương (秦武烈王), là vị vua thứ 32 của nước Tần, một nước chư hầu của nhà Chu Trung Quốc.

Theo sử ký, Tần Vũ vương là một người cao lớn, sức khỏe phi thường, thích du hý và làm những việc hơn người. Ngay khi vừa lên ngôi, Vũ Vương đã có ý muốn thâu tóm thiên hạ và dòm ngó đất nhà Chu. Ông tuyển mộ những kẻ lực sĩ như Nhâm Bỉ, Ô Hoạch, Mạnh Thuyết..., những kẻ tài trí hơn người phân thành hai ban, phong cho chức tước cho theo hầu bên cạnh.
Một bữa, vua Tần cho gọi Tả Hữu Thừa Tướng đến và bảo:
- Quả nhân sinh ở Tây Nhung, chưa được thấy cảnh phồn thịnh ở Trung nguyên, nếu được vua Tam Xuyên, đến chơi miền Củng, Lạc, thì dù chết cũng không tiếc. Hai khanh hãy vì quả nhân đi đánh Hàn một chuyến...
...

Năm 307 TCN, sau khi đánh thắng Hàn vua Tần lại sai hữu thừa tướng là Vu Lí Tật đi trước đến Tam Xuyên mở đường, sau đó vua Tần đem theo bọn dũng sĩ là Nhâm Bỉ, Mạnh Bôn tiến thẳng vào Lạc Dương. Vua Chu Noản Vương nhà Chu sợ thế quân Tần phải đích thân ra tận ngoài thành và dùng lễ khách chủ để nghênh đón. Tần Vũ vương giả vờ từ tạ không dám tiếp kiến.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Dong_chu/nh%20nh%20thng.jpg
Một chiếc đỉnh trong "cửu đỉnh", báu vật truyền quốc của nhà Chu

Vũ Vương biết nhà Đông Chu có chín cái đỉnh là bảo vật truyền quốc cực quý nên đòi xem. Chín cái đỉnh ấy nguyên khi xưa vua Vũ lấy các kim loại của chín châu đem cống mà đúc nên, mỗi cái thân đỉnh có chép núi sông nhân vật và số cống phú điền thổ của mỗi châu, tai vạc đều có chạm rồng, nên lại gọi là Cửu Long thần đỉnh. Nhà Hạ truyền lại cho nhà Thương làm của quí trấn quốc, đến khi vua Vũ vương nhà Chu đánh được nhà Thương bèn đem về cả Lạc ấp, khi đem đi dùng phu phen dắt kéo, xe thuyền khuân chở trông như chín toà núi sắt nhỏ, không biết mỗi cái sức nặng bao nhiêu. Vũ vương xem khắp một lượt, khen ngợi mãi không thôi. Trên sườn những cái đỉnh đó có khắc tên chín châu: Kinh, Lương, Ung, Đại, Từ, Dương, Thanh, Duyện, Ký để phân biệt đỉnh nào thuộc về châu nào. Vũ vương chỉ cái đỉnh chữ Ung nói rằng:
- Cái đỉnh là cái đỉnh nước Tần, quả nhân sẽ mang nó về Hàm Dương.
Rồi hỏi viên giữ đỉnh rằng:
- Những cái đỉnh này, có người nào mang nổi không ?
Viên ấy dập đầu thưa rằng:
- Từ khi có đỉnh đến giờ chưa hề có xê xích, nghe nói mỗi cái nặng đến nghìn cân, chẳng ai là người mang nổi được .
Vũ vương liền hỏi Nhâm Bỉ, Mạnh Bôn rằng:
- Hai người có sức khoẻ, có thể cất nổi cái đỉnh này không ?
Nhâm Bỉ biết Vũ vương cậy khoẻ hiếu thắng, từ rằng:
- Sức hạ thần chỉ có thể trăm cân, cái đỉnh này nặng gấp mười, hạ thần chịu không mang được .
Mạnh Bôn vung tay chạy lên nói rằng:
- Hạ thần xin thử xem, nếu không mang nổi, xin đừng bắt tội!

Vài Nét về Nguyễn Triều Cửu Đỉnh

阮朝九鼎

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Dong_chu/cu%20nh%20-%20vn.jpg
Đỉnh Cao trước được đặt trước Thế Miếu

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Dong_chu/cu%20nh%20%20ti%20c%20.jpg
Chín đỉnh đồng (nhà Nguyễn - VN) trước sân Hiển Lâm Các



Sử sách không ghi rõ về quá trình thiết kế, vẽ kiểu Cửu Đỉnh nên rất khó để xác định xem hình dáng của Cửu Đỉnh bây giờ có phải được giữ nguyên như thiết kế ban đầu hay đã bị sửa đổi trong quá trình chế tạo. Nhìn chung, cả chín chiếc đỉnh đều có dáng chung giống nhau : bầu tròn, cổ thắt, miệng loe, trên miệng có hai quai, dưới bầu có ba chân. Ở phần cổ đỉnh, bên phải ghi năm đúc đều là "Minh Mạng thập lục niên Ất Mùi" tức là năm 1835. Nhưng mỗi đỉnh cũng có nét riêng. Cũng là quai đỉnh hình chữ U úp, nhưng góc đáy của nó ở các Cao đỉnh, Nhân đỉnh, Dụ đỉnh và Huyền đỉnh thì vuông góc, còn ở các đỉnh khác lại uốn cong. Mặt quai thì tùy đỉnh mà bện thừng, cong vỏ măng, cong lòng máng, phẳng bẹt hay có gờ, triện hoặc để trơn. Phần lớn cổ các đỉnh có hình lòng máng, nhưng ở Cao đỉnh, Dụ đỉnh lại để thẳng. Vành miệng của Thuần đỉnh, Dụ đỉnh và Huyền đỉnh đều cong nửa vỏ măng, còn ở các đỉnh khác thì thẳng đứng với gờ vuông. Vai nhiều đỉnh có gờ đơn hoặc gờ kép, nhưng một số đỉnh để trơn. Đáy bầu đỉnh phần lớn cong một phần của khối cầu, nhưng ở một số đỉnh khác lại bằng và hơi lõm lên. Chỉ có chân Dụ đỉnh là được tạo đáy thẳng hơi chếch, còn ở các đỉnh khác đều công dạng chân quỳ. Các mảng hình được chạm trên bàu của đỉnh, mỗi đỉnh có 18 mảng hình.
Nguyên liệu đúc Cửu Đỉnh do triều đình cung cấp, gồm hai nguyên liệu chính là đồng và kẽm, có thể thêm chì, thiếc… lấy từ trong kho hoặc các phế khí hay những vật phẩm bằng đồng không cần dùng nữa. Tổng khối lượng đồng để đúc chín đỉnh là 22473 kg nhưng cũng có tài liệu ghi số liệu là 22088 kg.

Cửu Đỉnh đúc xong vào tháng 5 âm lịch năm 1836. Vua Minh Mạng xuống lệnh chọn thợ khéo chạm khắc các hình trang trí chạm nổi vào mỗi đỉnh. Nhân đó, nhà vua thưởng cho người Đốc biện và binh lính trông coi một tháng tiền lương, thợ và người làm thưởng chung cho 300 quan tiền. Đồng thời, vua cũng sai bộ Lễ sắm sửa lễ vật tạ ơn thần linh giúp đỡ cho việc đúc Cửu Đỉnh được thành công. Tuy vậy, công việc gắn hình chạm nổi mất khá nhiều thời gian. Việc gì đến cũng phải đến, 8 tháng sau, vào mùa xuân năm 1837, Cửu Đỉnh chính thức hoàn thành.
Khánh thành

Đại lễ khánh thành và đặt Cửu Đỉnh diễn ra vào ngày 1 tháng 3 năm 1837 tức ngày quý mão tháng giêng âm lịch năm Đinh Dậu, niên hiệu Minh Mạng thứ 18. Đích thân hoàng đế Minh Mạng đứng ra chủ trì buổi lễ. Chín chiếc đỉnh lần lượt được đặt ở sân của Thế Miếu, sát với Hiển Lâm Các, dưới chân mỗi đỉnh đều kê bằng tảng đá.


Nói rồi sai người lấy tơ xanh vặn làm cái dây to, buộc hai đầu dây vào hai tai vạc . Mạnh Bôn thắt lưng chặt chẽ, vén hai tay áo, rồi luồn hai ngón tay sắt vào giữa dây, hét lên một tiếng, nâng cao thân đỉnh lên khỏi mặt đất đựợ nửa thước, rồi lại đặt xuống, nhưng vì dùng sức quá mạnh hai con ngươi lồi lên, máu mắt chảy ra ròng ròng . Vũ vương cười nói rằng:
- Nhà ngươi dùng sức quá, nhưng nhà ngươi đã mang nổi được cái đỉnh ấy, không lẽ quả nhân lại chịu kém!
Nhâm Bỉ can rằng:
- Thân vạn thặng đại vương không nên xem nhẹ!
Vũ vương không nghe, liền cởi phăng cẩm bào, đại ngọc ra, nai nịt gọn gàng, lại dùng cái dải to buộc chặt tay áo, Nhâm Bỉ níu lại cố can, Vũ vương nói:
- Sức nhà ngươi không mang được, lại ghen với quả nhân sao ?
Nhâm Bỉ không dám nói nữa . Vũ vương hăng hái bước lên luồn hai tay vào dây, nghĩ Mạnh Bôn cất lên được, ta cất lên mà lại đi được vài bước mới là giỏi hơn, bèn dùng hết sức bình sinh, hét một tiếng, cất cái đỉnh lên cách mặt đất được nửa thước. Vũ vương vừa chực bước đi, không ngờ sức kiệt tay đuối, cái đỉnh rơi xuống đất, đè lên chân phải Vũ vương, nghe rắc rắc mấy tiếng, ống chân dập bét ra, Vũ vương kêu to một tiếng "đau quá!" rồi ngất đi. Các người tả hữu hoảng sợ vực Vũ vương về nhà công quán, máu chảy đầm đìa ướt cả giường chiếu. Vũ vương đau quá không chịu nổi, đến nửa đêm thì chết.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Dong_chu/b%20vng%20c%20nh.jpg
Một vận động viên đang: Cử đỉnh

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Dong_chu/c%20nh%20ng.jpg
Hội thi nâng đỉnh đồng tại quê hương Sở Bá Vương Hạng Vũ

Trước kia, Vũ vương có nói được đến chơi miền Củng, Lạc, dẫu chết cũng không hối hận, ngày nay quả chết ở Lạc Dương, lời nói ấy há chẳng phải là lời sấm ư ? Chu Noãn vương nghe biết cả sợ, vội sắp sửa áo quan tốt, thân đến coi liệm, khóc than hết lễ. Vu Lí Tật rước tang Vũ vương về Sở, Vũ vương không con, đón người em khác mẹ là Tắc nối ngôi, đó là Chiêu Tương vương.
Thừa tướng Vu Lí Tật trị các tội nhấc đỉnh, giết bọn Mạnh Bôn và chu diệt cả họ, lại cho Nhâm Bỉ là người biết can vua, dùng làm thái thú Hán trung. Tật lại nói ở triều rằng:
- Thông Tam Xuyên (ý dẫn đến cái chết của vương) là cái mưu của Cam Mậu bày ra.
Cam Mậu sợ bị Tật làm hại, bèn chạy sang Ngụy, sau chết ở Ngụy.

fangzi
08-09-2013, 10:24 AM
6. Kể Chuyện Dũng Sĩ


Tiêu Khâu Tố* thà chết chứ không giết người dũng sĩ


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Dong_chu/tiu%20khu%20t.jpg

Tiêu Khâu Tố vốn người Đông Hải, có người bạn làm quan chết ở Ngô. Tiêu Khâu Tố sang Ngô để viếng bạn, đi qua bến Hoài Tân, toan cho ngựa xuống uống nước. Người giữ bến bảo Tiêu Khâu Tố rằng:
- Con sông này có thuỷ thần, trông thấy ngựa thì hay bắt mất, ông đừng cho ngựa xuống uống nước.
Tiêu Khâu Tố nói:
- Có tráng sĩ đứng đây, thuỷ thần nào dám hiện lên.
Tiêu Khâu Tố liền sai người nhà dắt ngựa xuống sông cho uống nước. Qủa nhiên, con ngựa ấy rít lên mà sa xuống nước mất. Người giữ bến nói:
- Thuỷ thần bắt mất ngựa của ông rồi!
Tiêu Khâu Tố nổi giận, xoay trái người ra, rồi cầm kiếm nhảy xuống nước, để đánh nhau với thuỷ thần. Thuỷ thần hoá phép nổi sóng rất dữ dội, mà không làm gì nổi Tiêu Khâu Tố. Cách ba ngày ba đêm, Tiêu Khâu Tố ở dưới nước nổi lên, bị thần đánh mù mất một mắt.
Khi đến nước Ngô, vào viếng tang người bạn, Tiêu Khâu Tố dưng dưng tự đắc thuật lại chuyện đánh thuỷ thần, có vẻ lên mặt với mọi người, thái độ không được khiêm tốn.
Bấy giờ Yêu Ly cũng ngồi ở đấy, có ý bất bình, bèn bảo Tiêu Khâu Tố rằng:
- Nhà ngươi lên mặt với mọi người, muốn tự đắc là dũng sĩ đó chăng ? Ta nghe nói kẻ dũng sĩ đã đánh nhau với ai, chẳng thà chết chứ không chịu nhục; nay nhà ngươi đánh nhau với thuỷ thần, chịu mất ngựa không lấy lại được, lại bị hỏng mất một mắt, nghĩ nên hổ thẹn biết dường nào, thế mà còn đeo đẳng cái thân sống thừa, thế là đồ vô dụng ở trong khoảng trời đất, còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa!
Tiêu Khâu Tố bị nhục, có ý hổ thẹn, nín lặng không nói gì cả, rồi cáo từ lui ra.
Chiều hôm ấy, Yêu Ly về nhà nói chuyện với vợ rằng:
- Hôm nay ta làm nhục một kẻ dũng sĩ là Tiêu Khâu Tố ở trong một đám tang, hắn căm tức vô cùng ! Đêm nay thế nào hắn cũng đến báo thù. Ta nên nằm sẵn ở giữa nhà để đợi hắn đến. Nàng chớ có đóng cửa.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Dong_chu/thiu%20nin%20anh%20dng.jpg
Dũng sĩ Yêu Ly

Người vợ vốn biết dũng khí của chồng mới theo lời chồng bỏ ngõ cửa. Qủa nhiên Tiêu Khâu Tố nửa đêm hôm ấy giắt dao đến nhà Yêu Ly, trông thấy cửa ngỏ, mới đi thẳng vào, thấy Yêu Ly rũ tóc nằm ở phía dưới cửa sổ. Yêu Ly thấy Tiêu Khâu Tố đến, cứ nghiêm nhiên mặc kệ, không thèm cựa quậy, cũng không có ý sợ hãi. Tiêu Khâu Tố cầm dao kề vào cổ Yêu Ly mà kể tội rằng:
- Nhà ngươi có ba điều đáng chết, đã biết hay chưa ?
Yêu Ly nói:
- Chưa biết.
Tiêu Khâu Tố nói:
- Nhà ngươi làm nhục ta trong đám tang, đó là một điều đáng chết; khi về nhà lại không biết lo xa, dám bỏ ngỏ cửa , đó là hai điều đáng chết; trông thấy ta mà không chạy trốn, đó là ba điều đáng chết. Thế thì tự nhà ngươi muốn chết, còn oán gì ta nữa !
Yêu Ly nói:
- Ba điều ấy cũng chưa đáng chết, nhưng nhà ngươi có ba điều hèn, đã biết chưa ?
Tiêu Khâu Tố nói:
- Chưa biết.
Yêu Ly nói:
- Ta làm nhục nhà ngươi trong đám đông người, mà nhà ngươi không dám nói lại một câu nào, đó là một điều hèn; nhà ngươivào nhà ta mà không lên tiếng, có ý lẻn trộm, đó là hai điều hèn; cầm dao kề vào cổ ta rồi mới nói khoác, đó là ba điều hèn. Nhà ngươi có ba điều hèn ấy, lại còn trách ta thì thật là đáng khinh lắm !
Tiêu Khâu Tố bèn rút dao lại mà khen rằng:
- Kể cái vũ dũng của ta, đời không mấy kẻ bằng, mà Yêu Ly lại còn hơn ta, thế thì thật là một dũng sĩ ! Nếu ta giết người dũng sĩ thì mang tiếng với đời, mà không giết thì ta cũng khó lòng mà gọi là vũ dũng được !
Tiêu Khâu Tố nói xong, liền ném dao xuống đất, đập đầu vào cửa sổ mà chết.

fangzi theo Đông Chu Liệt Quốc
-------------------------------------------------
Tiêu Khâu Tố và Yêu Ly đều là những kẻ võ dũng sống vào đời vua Ngô vương Hạp Lư (吳王阖闾) trị vì: 514 TCN-496 TCN; Ngô Vương tên thật là Cơ Quang (姬光), là vị vua thứ 24 nước Ngô thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc.

backieuphong
10-09-2013, 12:50 AM
Thôi Mãnh

Tiếp theo


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Vo_lam/t%20tp%20thn%20binh.jpg
Tụ trập thân binh

Chẳng bao lâu nhà Minh mất ngôi. Thân đem gia quyến về, lại nối tình thân với Thôi như xưa. Lúc bấy giờ, giặc cỏ tụ tập như ong. Vương có đứa cháu họ tên là Ðắc Nhân, tập họp bọn vô lại do chú chiêu mộ ngày trước, chiếm cứ núi non làm giặc kéo đi đốt cướp xóm làng.

Một đêm, chúng dốc hết cả sào huyệt kéo đến, rêu rao là để phục thù. Lúc đó Thôi không có nhà. Khi giặc phá cửa, Thân mới tỉnh dậy vượt qua tường nấp trong bóng tối.

Giặc sục sạo tìm Thôi, không thấy, bắt vợ Thôi, vơ vét của cải rồi đi. Thân trở vào, chỉ có một người đầy tớ, phẫn chí đến cực điểm, bèn cắt một sợi dây thừng thành mấy chục khúc, đem những khúc ngắn trao cho người đầy tớ, còn mình giữ lấy những khúc dài. Dặn người đầy tớ phải vượt qua sào huyệt giặc, trèo lên lưng chừng núi, châm lửa vào dây thừng rồi treo lên các bụi gai, xong thì cứ bỏ đấy về ngay, đừng ngoái lại. Người đầy tớ vâng lời ra đi.

Thân nhìn thấy bọn giặc đứa nào cũng thắt dây lưng đỏ, và buộc miếng the đỏ trên mũ, bèn cũng bắt chước nguỵ trang như vậy. Có một con ngựa cái đã già, mới đẻ con, giặc bỏ lại ngoài cửa. Thân buộc con ngựa con lại, cưỡi ngựa mẹ, ngậm tăm ra đi, thẳng đến ổ giặc.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Vo_lam/dai-chien-xich-bich.jpg

Giặc đóng ở một thôn lớn. Thân buộc ngựa ngoài thôn, trèo tường vào, thấy bọn giặc còn lăng xăng, rối rít, giáo mác cầm trên tay chưa kịp buông. Thân vồ hỏi mấy đứa, biết vợ Thôi còn ở chỗ tên Vương. Một lát, nghe truyền lệnh cho quân nghỉ, tiếng dạ như sấm ran. Bỗng có người báo núi phía Ðông có lửa. Bọn giặc cùng nhau đứng trông. Lúc đầu mới chỉ có một hai chấm, rồi thì nhiều như sao sa. Thân dồn hơi kêu lên rất gấp rằng mé núi phía Ðông có động! Tên Vương cả kinh, nai nịt lại, dẫn quân ra.

Thân thừa dịp tụt lại phía sau bọn chúng rồi quay mình đi luôn vào trong trại. Thấy hai tên giặc đứng canh ở dưới trướng. Chàng phỉnh chúng, nói:

- Vương tướng quân bỏ quên thanh bội đao ở đây!

Hai tên thay nhau tìm kiếm. Thân đứng đằng sau chém tới, một tên ngã nhào, đứa kia ngoảnh lại nhìn, Thân liền chém nốt. Rồi cõng vợ Thôi vượt tường mà ra, mở ngựa trao dây cương dặn:

- Nương tử không biết đường, cứ để mặc cho ngựa đi.

Ngựa nhớ con bon bon chạy. Thân theo sau, đến một hẻm núi, chàng châm lửa vào sợi dây thừng, treo khắp nơi rồi mới chạy về.

Ngày hôm sau Thôi trở về nhà, cho là điều đại sỉ nhục, bồn chồn, tức tối ra mặt, muốn đơn phương độc mã đi dẹp giặc. Thân phải can ngăn mới thôi. Bèn triệu tập người làng cùng bàn tính mưu kế.

Chúng đều khiếp sợ, không ai dám hưởng ứng. Giảng giải khuyên dụ đến vài bốn lần mới được hơn hai mươi người dám đi. Nhưng khổ nỗi lại không có khí giới. Vừa khi ấy lại trói hai tên gian tế trong một nhà bà con của Ðắc Nhân. Thôi muốn giết ngay, Thân không cho, hạ lệnh cho hai mươi người cầm gậy, dàn ra trước mặt, rồi cắt tai cả hai đứa mà thả cho về. Mọi người đều oán, nói rằng:

- Một đám quân gia thế này, đang sợ giặc nó biết được, thế mà lại cho hai thằng kia nhìn thấy hết. Nếu bất chợt chúng dốc toàn đội kéo xuống đây thì đóng cổng làng, cũng không sao giữ được!

Thân đáp:

- Chính tôi muốn cho chúng nó xuống!

Bèn cho bắt kẻ giấu giặc trong nhà đem giết đi. Rồi sai người đi mọi nơi mượn cung nỏ, súng kíp, lại lên ấp mượn hai cỗ pháo lớn. Trời vừa tối, chàng dẫn tráng sĩ đến chỗ hẻm núi, đặt pháo vào nơi xung yếu, cho hai người cầm lửa nấp ở đấy, dặn hễ thấy giặc mới phát hoả. Lại đi đến phía Ðông cửa hang, chặt cây đặt lên dốc núi. Thế rồi Thân và Thôi mỗi người lĩnh một suất hơn mười người chia ra mai phục hai bên bờ. Gần hết canh một, xa xa nghe tiếng ngựa hí, ngầm xem xét, giặc quả ồ ạt kéo đến từng xâu dài, liên miên không dứt. Chờ chúng đã đi vào cả trong lũng rồi, bèn đẩy cây lăn xuống để chặn đường về.

Một lát, tiếng pháo nổ ran, tiếng hò reo chuyển động cả khe núi. Giặc rút mau, dẫm đạp lên nhau, đến chỗ hẻm phía Ðông, không thoát ra được, dồn cục một đống. Hai bên bờ, tên đạn giáp công, khí thế như mưa bay gió cuốn. Quân giặc, đứa đứt đầu, đứa gãy chân, nằm gối lên nhau, ngổn ngang trong rãnh, chỉ sót lại hai mười đứa, quỳ gối xin chuộc mệnh; bèn sai người trói cả lại giải đi. Thừa thắng tiến thẳng lên sào huyệt giặc. Bọn giặc giữ trại nghe hơi chạy trốn sạch; bao nhiêu đồ đạc đều lục tìm kỳ hết đem về.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Vo_lam/xich-bich.jpg

Thôi cả mừng, hỏi Thân về mưu kế đốt lửa. Thân nói:

- Ðốt lửa ở phía Ðông, vì sợ chúng đuổi ở bên Tây; dùng thừng ngắn là để cho mau cháy hết, vì sợ chúng dò biết là không có người; lại đốt ở cửa hang, vì sợ cửa hang rất hẹp, một người cũng đủ chặn giữ. Bọn chúng đuổi tới, thấy lửa, tất phải sợ. Ðó đều là hạ sách, mạo hiểm mà dùng trong lúc nhất thời thôi.

Bắt mấy tên giặc lên hỏi thì quả nhiên khi đuổi đến cửa hang thấy lửa, chúng đều hoảng sợ mà lui bước.

Hơn hai mươi tên cướp bắt được đều bị xẻo tai cắt mũi rồi thả cho về. Từ đó, họ Thôi và họ Thân uy danh lừng lẫy. Những người tị nạn xa gần theo về như chợ, vì vậy mà tổ chức được một đoàn dân binh hơn ba trăm người.

Bọn cường hào ở các nơi không dám phạm đến nữa; cả một vùng nhờ đó mà được yên.
-------------------------------

Backieuphong Theo Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh

fangzi
10-09-2013, 12:05 PM
Liên Hương

Nguyên tác: Bồ Tùng Linh


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/liu%20trai%20ch%20d.jpg

Thư sinh họ Tang tên là Hiểu, tự là Tử Minh, người Nghi Châu. Mồ côi từ nhỏ, thuê nhà ở tại bến Hồng Hoa. Tang là người tính ưa trầm tĩnh, một mình cũng đủ vui, ngày hai bận đến nhà hàng xóm phía Ðông ăn cơm, kỳ dư ngồi lỳ trong nhà đọc sách.

Một bữa, có người học trò trọ phía Ðông tình cờ đến chơi, nói đùa rằng:
- Anh sống một mình mà không sợ ma quỷ, hồ ly ư?
Chàng cười đáp:
- Là trượng phu thì sợ gì ma với hồ. Con trống đến ta có kiếm sắc, con mái đến thì còn phải mở cửa, rước vào ấy chứ!
Anh học trò láng giềng trở về, bày kế với bạn hữu, đêm bắc thang cho gái điếm trèo tường vào, rón tay gõ cửa. Chàng nhìn ra, hỏi là ai, cô kỹ nữ tự xưng là ma. Chàng khiếp đảm, răng va vào nhau lập cập. Cô gái quay gót trở ra. Hôm sau, người học trò láng giềng đến, chàng kể lại điều mình đã gặp, lại ngỏ sắp bỏ đây mà về. Anh học trò láng giềng ngỏ:
- Thế sao không mở cửa rước người ta vào?


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/trang%20sinh%202.jpg
Tang Hiểu khi ở khu nhà trọ Hồng Hoa

Chàng bỗng hiểu ra mình bị lỡm, bèn cứ ở yên như trước. Ðược chừng nửa năm, đang đêm một cô gái đến gõ cửa thư phòng. Chàng nghĩ đây chắc là trò đùa của bạn, bèn mở cửa mời vào, thì hoá ra một mỹ nữ đẹp nghiêng thành. Ngạc nhiên, Chàng hỏi từ đâu đến, nàng đáp rằng:
- Thiếp là Liên Hương, kỹ nữ ở khu nhà phía Tây.
Trên bến sông vốn có nhiều thanh lâu nên chàng tin ngay. Bèn tắt đàn lên giường, quấn quít bằng thích. Từ đó cứ cách dăm ba ngày lại một lần nàng đến.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/n%20hip%201.jpg
Hương Liên


Một đêm, đang ngồi một mình trầm tư mặc tưởng thì một cô gái thướt tha bước vào. Chàng cứ nghĩ là Liên Hương, đón đợi để cùng trò chuyện, nhìn mặt hoá ra không phải. Tuổi chỉ mười lăm, mười sáu, tay áo buông chùng, tóc thề bỏ xoã, phong vân thanh tú, bước đi uyển chuyển chao qua lượn lại. Sinh thất kinh, ngờ là hồ. Cô gái bảo:
- Thiếp là con gái nhà lương thiện. Họ Lý, mến chàng cao nhã, mong được mắt xanh rủ lòng đoái đến.
Chàng mừng rỡ, cầm tay, thấy lạnh như băng, hỏi:
- Sao mà lạnh thế?
Ðáp:
- Tạng người mảnh dẻ, đêm nay lai phải dầm sương móc, không lạnh sao được!
Thế rồi giải quần là trút bỏ, lồ lộ là gái trinh. Nàng nói:
- Thiếp vì tình duyên xui khiến mà chỉ một sớm đánh mất tấm thân son trẻ; nếu không rẻ rúng là quê mùa, thì ngày ngày xin được hầu gối chăn. Không biết chốn khuê phòng còn có người nào nữa không?
Chàng đáp:
- Không có ai, chỉ có một nàng ca kỹ láng giềng, nhưng thỉnh thoảng mới đến.
Nàng bảo:
- Nếu thế thì phải cẩn thận đề phòng mới được. Thiếp không thể sánh vai với đám người trong kỹ viện, chàng hãy giữ kín chớ tiết lộ. Cứ bên kia đến thì bên này đi, bên kia đi thì bên này đến là được.
Gà vừa gáy, sắp từ biệt, nàng tặng lại một chiếc giày thêu, nói rằng:
- Ðây là vật thiếp mang dưới chân, cầm mà chơi cũng gửi vào đây chút thương nhớ, nhưng lúc có người thì cẩn thận, đừng có đem nghịch.
Chàng nhận lấy, ngắm nghía, thấy mũi cong cong như chiếc dùi cởi nút, trong lòng rất thích thú. Ðêm hôm sau nhân vắng người, lại mang ra sờ ngắm, bỗng cô gái từ đâu phơi phới đi đến, bèn lại quấn quít yêu đương. Từ đó mỗi lần mang giày ra, thế nào nàng cũng đến đúng như mình mong. Lấy lấy làm lạ, bàn gạn hỏi. Nàng cười nói:
- Tình cờ mà phù hợp đấy thôi.
Một hôm, Liên Hương đến, kinh ngạc hỏi:
- Chàng sao thần sắc tiều tuỵ thế?
Chàng nói chính mình cũng không rõ vì sao. Liên Hương bèn từ biệt mà đi, hẹn mười này sau sẽ trở lai. Sau khi nàng đi, Lý đến thường xuyên, không đêm nào vắng. Hỏi chàng:
- Người tình của chàng sao đã lâu lắm không thấy tới?
Nhân kể lại lời hẹn của Liên, Lý cười, nói:š
- Chàng xem nhan sắc của thiếp so với Liên Hương thế nào?
Ðáp:
- Khá khen cả hai đều tuyệt sắc. Nhưng Liên Hương da dẻ có phần ấm áp hơn.
Mặt Lý biến sắc, lúc sau nói:
- Chàng nói đẹp cả đôi là nói trước mặt thiếp thế thôi! Ả ấy chắc phải là người tiên trong nguyệt điện, thiếp hẳn không bằng rồi.
Nhân thế rầu rĩ không vui. Rồi bấm đốt ngón tay, thì kỳ hẹn mười ngày đã đến, bèn dặn chớ có tiết lộ, để mình nhìn trộm cô nàng xem sao.
Ðêm hôm sau, Liên Hương quả đến, cười nói rất đằm thắm. Kịp đến khi đi nằm, bỗng hốt hoảng kêu lên:
- Nguy rồi! Mười ngày không thấy mặt, mà sao đã suy nhược nhanh thế? Có chắc chắn là không gặp gỡ ai khác nữa không ?
Chàng hỏi duyên có vì sao. Nàng đáp:
- Thiếp cứ xét thần sắc thì biết. Mạch đập tán loạn, như tơ rối, chứng này là ma ám rồi.
Ðêm sau nữa. Lý trở lại. Chàng hỏi:
- Ngắm Liên Hương thấy thế nào?
- Ðẹp thật! Thiếp vẫn cho rằng trên đời không có người đẹp như vậy được, đích thị là hồ ly. Đêm rồi lúc nàng về, thiếp có bám theo sau, thì thấy đi về núi Nam Ly.
Chàng nghĩ Lý ghen, nên cũng gật đầu cho qua. Sau đấy một đêm, lại đùa bỡn Liên Hương rằng:
- Tôi chẳng tin đâu, nhưng có người nói nàng là hồ đấy.
Liên vội hỏi ngay người ấy là ai. Cười đáp:
- Tôi nói đùa nàng đấy thôi!
Liên hỏi lại:
- Hồ thì khác gì người?
Ðáp:
- Kẻ nào bị nó mê hoặc thì bị ốm, nặng quá là chết, vì thế mới đáng sợ.
Liên đáp:
- Không đúng đâu, như cỡ tuổi chàng, ba ngày sau khi chung chạ, tinh khí có thể phục hồi, dù là hồ đi nữa cũng có hại gì! Còn như đêm đêm đánh riết thì dẫu là người còn tệ hơn hồ nữa kia! Trong thiên hạ, những bệnh lao, sài mòn, dễ thường đều là do hồ ám chết cả đấy! Tuy nhiên, hẳn là có kẻ nào thì thầm gì về thiếp đây.
Chàng cố biện bạch là không có ai. Liên càng ra sức căn vặn. Núng thế chàng đành phải nói lộ ra. Liên bảo:
- Thiếp vẫn thấy làm lạ sao chàng suy kiệt, nhưng có ngờ đâu lại chóng đến như vậy. Có lẽ đây không phải là người chăng? Chàng đừng nói gì, đêm mai sẽ làm đúng như cách hắn ta đã nhòm thiếp.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/liu%20trai.jpg
Đêm sau Lý đến...

Ðêm sau, Lý đến, vừa mới nói dăm ba câu lại nghe ngoài song có tiếng đằng hắng, lật đật bỏ đi, Liên bước vào nói ngay:
- Chàng nguy thật rồi! Ðúng là ma đấy. Mê sắc đẹp của nó mà không dứt sớm đi, đường về âm phủ xem chừng gần đấy!
Chàng bụng vẫn cho là nàng ghen, trầm ngâm không nói. Liên bảo tiếp:
- Vẫn biết chàng không phải là kẻ vong tình. Nhưng thiếp không nỡ ngồi nhìn chàng chết. Ngày mai sẽ xin đem thuốc tễ đến để trừ âm độc cho chàng. Cũng may cuống bệnh còn nông, chỉ mươi ngày thì các chứng sẽ dứt. Xin nằm cùng giường để chăm nom cho đến lúc thuyên giảm.

Ðêm hôm sau, nàng quả đến đem theo ít thuốc tán bón cho chàng. Chỉ một lúc, nuốt được hai ba lượt cảm thấy tạng phủ thư thái, tinh thần nhẹ nhõm hẳn. Bụng rất biết ơn, nhưng trước sau vẫn không tin bệnh do ma ám. Liên đêm đêm nằm chung chăn, ôm lấy chàng. Chàng muốn cùng nàng giao hợp, song nàng ngăn lại. Sau mấy ngày, da dẻ đã đầy đặn. Toan từ giã, lại khẩn khoản dặn phải dứt hẳn Lý. Chàng làm bộ nhận lời. Nhưng vừa đóng cửa, khêu đèn, đã cầm lấy chiếc giày mà tơ tưởng. Lý chợt đến ngay. Mới cách biệt mấy hôm, đã hơi có vẻ hờn dỗi. Chàng nói:
- Luôn mấy đêm cô ta phải lo thuốc thang giúp đỡ, xin đừng vì thế mà đem lòng oán trách. Tình nồng mặn cốt ở nơi tôi.
Lý đã hơi nguôi nguôi. Trong khi ân ái, chàng gấp gáp:š
- Tôi yêu nàng lắm! Vậy mà có kẻ bảo nàng là ma đấy!
Lý cứng lưỡi hồi lâu nói:
- Hẳn là con chồn dâm đãng đã ton hót với chàng rồi. Nếu không dứt nó đi, thiếp không đến nữa đâu!
Ðoạn nghẹn ngào nuốt nước mắt. Chàng phải hết lời khuyên giải mới thôi. Cách một đêm, Liên Hương đến, biết Lý lại trở lại, giận giữ nói:
- Chàng hẳn muốn chết chăng?
Chàng cười đáp:
- Nàng ghen gì mà khiếp thế?
Liên càng giận nói:
- Chàng trồng cái mầm chết, thiếp đã vì chàng nhổ nó đi, không ghen thì biết làm thế nào được!
Chàng bày lời đùa cợt nói:
- Thế mà cô ta nói bệnh trước là do hồ ám đấy.
Liên than rằng:
- Nếu quả như lời chàng nói thì chàng đã lú lẫn, không còn tỉnh nữa. Vạn nhất có bề nào, thiếp dù trăm miệng cũng làm sao tự mình có thể phân tỏ được? Từ hôm nay xin giã biệt. Sau trăm ngày sẽ đến thăm chàng ở tận đầu giường. Nói rồi cứ hậm hực đi thẳng, Giữ mấy cũng không được. Từ đấy Lý sớm tối cập kề bên cạnh chàng. Ðược hai tháng, cảm thấy người mệt rũ. Mới đầu còn tự trấn an mình, nhưng rồi ngày càng gầy rộc đi, chỉ húp được tí cháo loãng. Muốn về nhà để được chăm sóc, mà cứ quyến luyến không nỡ rứt đi ngay. Lần lữa đến mấy ngày, trở bệnh mê mệt, không dậy được nữa. Người học trò láng giềng thấy chàng ốm nặng, ngày ngày sai người trong quán ăn mang cơm cháo đến nhà. Chàng bấy giờ mới đâm ngờ Lý, nói với Lý rằng:
- Ta hối hận đã không nghe lời Liên Hương nên mới ra nông nỗi này.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/hiu%2011.jpg
Lát sau tỉnh lại...

Nói xong, mắt tối sầm. Lúc sau tỉnh lại, mở to mắt nhìn quanh thì Lý đã đi mất; Từ đó hai bên mới đoạn tuyệt. Chàng nằm còm cõi giữa thư phòng trống vắng, nghĩ đến Liên Hương như trẻ con mong mẹ. Một hôm, đang giữa lúc mơ mơ màng màng, bỗng một người cuốn rèm bước vào, thì đúng là Liên Hương. Ðến sát bên giường, cất giọng thỏ thẻ:
- Cái chàng nhà quê! Thiếp nào có nói điêu đâu!
Chàng nghẹn ngào hồi lâu, nói rằng mình đã biết lỗi, chỉ mong được cứu giúp. Liên bảo:
- Bệnh đã vào đến cao hoang, thật hết phương cứu chữa, tôi chỉ đến đây cốt để nói với nhau một lời vĩnh quyết, để tỏ rõ không phải chuyện ghen tuông.
Chàng buồn thảm quá, nói rằng:
- Tôi có một vật ở dưới gối, phiền nàng đập nát dùm tôi.
...

Muốn biết số phận Tang sinh về sau như thế nào ? Xin vui lòng đọc đoạn sau sẽ rõ

fangzi
10-09-2013, 02:45 PM
Lại nói chuyện: Liên Hương sau khi tìm được chiếc giày, đưa cầm ra trước đèn xoay trở ngắm nhìn. Cô gái họ Lý ở đâu vụt bước vào, thoạt trông thấy Liên Hương, quay ngoắt lại định chạy. Liên vội lấy thân chắn ngang cửa. Lý quẫn bách không còn biết chạy đi đâu. Chàng trách móc kể tội. Lý không sao đáp lại được. Liên cười mà rằng:š
- Hôm nay mới được cùng dì đối mặt. Trước bảo rằng bệnh của chàng vị tất đã do dì gây ra, nay rốt cuộc thế nào?
Lý cúi đầu tạ lỗi. Liên Hương nói:š
- Mỹ miều như thế mà nỡ đem tình yêu để kết oán thù ư?
Lý vật mình xuống đất khóc ròng, xin rủ lòng thương xót mà cứu giúp. Liên đỡ dậy, hỏi kỹ về thuở sinh thời. Lý đáp:
- Thiếp là con gái ông Thông phán họ Lý, chết yểu, chôn ở phía ngoài bức tường này. Như con tằm xuân, chết rồi mà mối tơ thừa vẫn còn vấn vương chưa dứt. Cùng chàng gắn bó là nguyện của thiếp, đẩy chàng đến chỗ chết thật không phải là tâm nguyện của tôi.
Liên hỏi:
- Nghe nói loài ma, hễ người khác chết thì lợi cho mình, vì chết rồi sẽ đoàn tụ mãi bên nhau, có thực thế không?
Ðáp:
- Không đúng đâu, hai con ma gần gũi nhau, tịnh không có chút lạc thú. Như quả thích thú thì những chàng trai trẻ dưới suối vàng có thiếu gì đâu!
Liên bảo:
- Thực đến là ngốc! Ðêm nào đêm ấy làm miết, đến ma cũng không kham nổi, huống hồ là người!
Lý chợt hỏi:
- Hồ cũng có thể làm chết được người, chị có phép thuật gì mà lại không như thế?
Liên đáp:
- Ðó là hạng chuyên rút tinh bổ khí. Tôi không phải là hạng ấy. Mới hay, trên đời vẫn có giống hồ không hại người, chứ quyết không có giống ma nào không hại người cả, là vì âm khí thịnh quá.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/co%20trng_1.jpg
Mới hay, trên đời vẫn có giống hồ không hại người, chứ quyết không có giống ma nào không hại người cả !
Chàng nghe hai bên trao đổi, mới biết hồ và ma đều là chuyện thực. Cũng may tiếp xúc lâu ngày đã quen, nên không còn thấy sợ. Song nghĩ mình chỉ còn chút hơi tàn như sợi tơ, bất giác rống lên khóc. Liên quay lại hỏi Lý:
- Giờ xử trí thế nào với chàng đây?
Lý đỏ mặt, nhún nhường từ tạ, Liên nói:š
- Chỉ sợ chàng khoẻ mạnh rồi, nương tử lại thói chanh chua vẫn đâu vào đấy.
Lý khép vạt áo vái mà rằng:
- Nếu chị có tài chữa bệnh khiến em khỏi phải phụ lòng chàng, thì cũng đáng vùi đầu mãi dưới đất đen, còn dám đâu ngẩng mặt lên với đời nữa.
Liên bèn cởi đẫy, lấy thuốc ra, nói:
- Tôi sớm biết có ngày hôm nay nên sau khi cùng chàng bái biệt đã trèo lên ba ngọn núi hái thuốc; trải ba tháng trời, mới đủ mọi vị. Dẫu bệnh đến sài mòn lịm chết, cho uống vào cũng ít ai không tỉnh lại. Chỉ có điều, chứng bệnh do đâu thì phải lấy đấy làm vị dẫn thuốc. Cho nên không thể không cậy dì giúp sức.
Hỏi cần gì, đáp:
- Một chút nước dãi thơm. Tôi đặt viên thuốc vào, nhờ dì áp miệng vào nhổ cho trôi xuống.
Lý đỏ bừng cả mặt, cúi gầm đầu xuống đưa mắt ngó chiếc giày. Liên đùa nói tiếp:
- Sở thích của em chỉ là chiếc giày đó thôi à?
Lý càng hổ thẹn, không còn biết giấu mặt đi đâu. Liên nói:
- Ngón ngạo lúc bình thường, nay còn tiếc gì nữa chứ?
Rồi lấy một viên thuốc để vào môi chàng, quay sang thúc ép Lý. Lý không đừng được, phải áp vào miệng mà mớm. Liên thúc:
- Mớm nữa đi.
Lại mớm nữa. Mớm đến ba bốn lần, thuốc mới trôi xuống họng. Chỉ một lát, bụng nghe ùng ục như tiếng sấm. Liên lại đặt một viên thuốc khác, rồi tự mình áp môi hà hơi vào. Chàng cảm thấy vùng đan điền như có lửa đốt, tinh thần sảng khoái bừng dậy.
Liên bảo:
- Khỏi rồi.
Lý nghe gà đã gáy, bàng hoàng giã biệt ra đi. Liên nghĩ chàng mới khỏi, cần phải điều dưỡng, ra quán cơm ăn cơm cũng chưa nên, bèn khoá trái cửa ở bên ngoài, vờ làm như chàng đã về quê, để dứt hẳn bạn bè lai vãng, ngày đêm giữ gìn, săn sóc chàng. Lý tối nào cũng đến, hầu hạ rất ân cần, coi Liên như chị, Liên cũng thương yêu hết lòng.
Ở được ba tháng, chàng mạnh khoẻ như xưa. Lý bèn bẵng đi dần, cách hai ngày đêm mới một lần trở lại. Tình cờ có tới cũng ngó qua một chút rồi đi ngay. Lúc gặp mặt nhau chỉ rầu rầu không vui. Liên thường giữ nàng ở lại ngủ chung, cũng không nghe. Chàng phải chạy theo ra, kéo lại, bế thốc vào, người cứ nhẹ như hình nhân bằng cỏ. Nàng không còn trốn được, bàn để nguyên áo xống mà nằm, cuộn tròn mình lại, không đầy hai thước. Liên càng thương, ngầm bảo chàng ôm ấp, như lay mấy cũng không tỉnh. Chàng ngủ thiếp đi, lúc tỉnh dậy tìm, thì đã biến mất. Luôn mười ngày sau cũng không thấy trở lại. Chàng tưởng nhớ da diết, thường mang chiếc giày ra cùng đùa nghịch. Liên Hương nói:
- Yểu điệu như thế, thiếp thấy cũng còn thương, huống gì là nam giới.
Chàng nói:
- Ngày trước cứ mỗi lần nghịch đến giầy thì lại xuất hiện, trong lòng đã lấy làm ngờ, nhưng chung quy vẫn chẳng nghĩ được là ma. Nay nhìn giầy lại tưởng đến dung nhan, thật đáng mủi lòng.
Nói rồi chảy nước mắt. Nguyên trước đấy có nhà phú ông họ Trương, có người con gái tiểu tự là Yến Nhi, tuổi vừa mười lăm, bị bệnh không thoát được mồ hôi mà chết. Qua một đêm bổng tỉnh lại, ngồi dậy ngó quanh rồi định chạy. Trương khoá cửa lại, không ra được, cô gái bèn tự nói rằng:
- Tôi là hồn cô gái ông Thông phán, cảm mối tình quyến luyến của chàng Tang, có chiếc giày còn để lại ở nhà chàng. Tôi thực là ma, giữ lại có ích gì?
Nghe lời nói có vẻ ngọn ngành, bèn hỏi duyên cớ vì sao lại đến đây. Cô gái bồi hồi nhìn lui nhìn tới, mơ màng không hiểu ra sao cả. Có người nói thư sinh họ Tang vì ốm đau đã về quê rồi thì cô một hai bảo là nói dối.
Người nhà đâm hoang mang. Anh học trò phía Ðông nghe chuyện, trèo tường vào nhòm thử xem, thấy chàng cùng một người đẹp đang đối mặt chuyện trò. Bất ngờ chạy sấn vào tận nơi; nhưng giữa lúc đang nhớn nhác, người đẹp đã biến mất. Anh học trò láng giềng thất kinh, gặng hỏi. Chàng cười đáp:
- Ðộ trước chẳng đã nói với bác “con mái thì rước vào” đấy thôi.
Anh học trò láng giềng thuật lại lời Yến Nhi. Chàng liền mở cổng, định đi sang để dò xét thực hư, khổ nỗi không tìm ra cớ gì để đến nhà họ cả. Bà Trương nghe chàng quả chưa về quê, lại càng lấy lạ, bèn sai một mụ ở tới hỏi chiếc giày. Chàng lấy trao ngay. Yến Nhi nhận được, mừng rỡ, thử xỏ chân vào thử thì giày nhỏ hơn chân đến một tấc. Sợ quá, cầm gương tự soi, bất chợt hiểu ra mình đã mượn thây người khác để sống lại. Bèn thuật lại đầu đuôi, mẹ mới tin là thực.
Cô gái soi mặt vào gương, khóc oà lên rằng:
- Mặt mũi hồi trước còn hơi tự tin một chút, thế mà mỗi lần gặp chị Liên vẫn xấu hổ vì thua kém, nay lại như thế này, thì làm người chẳng bằng làm ma cho xong.
Bèn cầm chiếc giày gào khóc, khuyên mấy cũng không được. Rồi trùm chăn nằm không nhúc nhích, bảo ăn cũng chẳng ăn, mình mẩy sưng phù lên. Suốt bảy ngày không ăn, rốt cuộc vẫn không chết, mà bệnh phù rạp xuống dần. Cảm thấy đói không nhịn được nữa, bèn ăn trở lại. Vài ngày sau, khắp mình ngứa ngáy, da giẻ bong ra hết. Một buổi sáng ngủ dậy, đôi giày ngủ tuột ra từ lúc nào, vội nhặt lấy mang vào thì rộng tuênh, không vừa chân nữa. Nhân đấy bèn thử lại chiếc giày cũ, thì cỡ chân gầy béo nay thật vừa vặn. Ðã thấy mừng, lại lấy gương soi lại, thì lông my, con mắt, gò má, khoé miệng, giống hệt như thuở bình sinh. Càng bội phần mừng rỡ. Rửa mặt chải đầu rồi lên thăm mẹ. Ai nấy cũng nhìn chăm chăm.
Liên Hương nghe câu chuyện lạ, khuyên chàng nên nhờ người mối đánh tiếng, nhưng chàng nghĩ giàu nghèo cách trở, không dám đường đột đến ngay. Gặp ngày sinh nhật bà Trương, bèn theo đám con rể nhà ấy đến mừng thọ. Bà Trương nhìn thấy tên chàng, bèn bảo Yến Nhi đứng trong rèm nhòm ra để nhận mặt khách. Chàng đến sau cùng. Cô gái chạy thốc ra, túm lấy vạt áo, định theo chàng cùng về. Mẹ phải nạt cho, mới xấu hổ quay lại. Chàng nhìn kỹ, rõ ràng là đúng, bất giác trào nước mắt, bèn phục xuống lại không chịu đứng dậy nữa. Bà mẹ đến đỡ, cũng không cho là sàm sỡ.

(Còn nữa)

fangzi
10-09-2013, 02:52 PM
Liên Hương

Tiếp theo...

Chàng trở về, cậy ông cậu của cô gái đến làm mối. Bà mẹ định chọn ngày lành cho chàng đến ở gửi rể. Chàng trở về nói với Liên Hương và đem chuyện đi hay ở ra bàn. Liên buồn bã hồi lâu, rồi toan từ biệt mà đi. Chàng cả kinh, bật khóc lên. Liên nói:
- Chàng làm lễ động phòng hoa chúc ở nhà người ta, thiếp theo chàng đến đấy, thì còn gì là mặt mũi nữa?
Chàng tính kế trước hãy cùng nàng trở về làng cũ, rồi sau sẽ đón Yến Nhi. Liên mới chịu theo lời. Chàng đem tình thực thưa lại với họ Trương. Trương nghe chàng đã có vợ rồi, nổi giận buông lời trách móc. Yến Nhi phải hết sức phân trần, mới cho được như lời xin.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Thanh_Ngu/hi_su/gi%20bo%20ngc%202.jpg
Gia đình họ Trương

Ðến ngày cưới, chàng đi đón dâu, nhà cửa bài trí có phần qua quít; đến lúc về thì từ ngoài cổng vào đến nhà lớn, thảm lông chim trải kín mặt đất, trăm nghìn đèn lồng, rực rỡ như gấm. Liên Hương đỡ cô dâu vào phòng cưới, làm lễ giao bái xong, lại cùng nhau hoan hỉ như ngày nào. Liên ngồi bên hai người tiếp chén rượu hợp cẩn, nhân hỏi cặn kẽ câu chuyên lạ hoàn hồn. Yến nói:
- Hôm ấy, em cứ ưu uất không nguôi, chỉ vì nỗi mình với người lại là dị loài. Tự thấy hình hài của mình thật là nhơ bẩn. Sau khi chia tay, phẫn chí không trở về mộ, đành theo gió trôi dạt khắp nơi. Hễ thấy người sống thì lại thèm. Ban ngày nương vào cây cỏ, đêm thì nổi chìm phó mặc bước chân. Tình cờ đến nhà họ Trương, thấy một cô thiếu nữ nằm trên giường, bèn lại gần nhập vào, có hay đâu lại được sống lại.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Thanh_Ngu/hi_su/gi%20bo%20ngc%203.jpg
Liên Hương mừng vui đón Yến Nhi...

Liên nghe chuyện, trầm ngâm, có dáng nghĩ ngợi.
Qua hai tháng. Liên sinh một con trai. Sinh xong, bị bạo bệnh, suốt ngày nằm ly bì. Bèn cầm tay Yến dặn dò:
- Phiền em vất vả nuôi dùm cái giống oan nghiệt này. Con ta cũng là con mình.
Yến chảy nước mắt, lựa lời khuyên giải. Muốn mời thầy lang, nhưng nàng khước từ. Bệnh ngày thêm nguy kịch, hơi thở mỏng manh như sợi tơ. Chàng và Yến Nhi đau khóc. Bỗng nàng mở bừng mắt ra nói:
- Ðừng thế! Các người lấy sống làm vui, riêng ta lấy chết làm thích. Nếu quả có duyên, sau mười năm nữa lại được họp mặt.
Nói xong thì chết. Mở chăn ra định liệm, thấy đã hoá thành con hổ. Chàng không nỡ coi là khác loài, lo tang gia hậu hỹ.
Con trai tên là Hồ Nhi, Yến nuôi nấng như con đẻ. Mỗi lần gặp tiết thanh minh, thế nào cũng bế con đến khóc trước mộ mẹ.
Về sau, chàng đậu kỳ thi Hương, nhà dần dần sung túc, mà Yến vẫn khổ sở vì không sinh đẻ. Hồ Nhi cũng khá thông tuệ, nhưng tạng người yếu đuối, lại lắm bệnh. Yến vẫn muốn tìm người vợ lẽ cho chồng. Một hôm, con hầu bỗng vào thưa:
- Ngoài cửa có một bà cụ, dắt theo người con gái muốn tìm chỗ bán.
Yến cho gọi vào. Thoạt nhìn thấy giật nẩy mình nói:
- Chị Liên lại ra đời đấy chăng?
Chàng nhìn cô ta thì giống hệt, nên cũng hoảng. Hỏi:
- Bao nhiêu tuổi rồi?
Ðáp rằng:
- Mười bốn.
- Tiền cưới định lấy bao nhiêu.
Ðáp:
- Thân già chỉ được có mụn con này, chỉ cốt nó được chốn yên thân, mà tôi cũng có nơi để kiếm miếng cơm, ngày sau nắm xương tàn không đến nỗi bỏ nơi ngòi rãnh, thế là đủ.
Chàng bèn trả giá cao, rồi giữ luôn bà cụ lại. Yến cầm tay cô gái, dắt vào buồng kín, nâng cằm, cười mà bảo:
- Mày có biết tao không?
Thưa rằng:
- Không biết.
Hỏi họ là gì, đáp:
- Thiếp họ Vi. Bố làm nghề bán nước ở trong thành Từ Châu, chết đã ba năm rồi.
Yến bấm ngón tay tính lại thì Liên vừa chết đúng mười bốn năm. Lại ngắm nhìn cô gái, dung nhan, cử chỉ, chỗ nào cũng giống Liên Hương đến thần tình. Bèn vỗ vỗ vào trán mà gọi to lên rằng:
- Chị Liên, chị Liên! Cái hạn “mười năm lại gặp” đúng là không lừa tôi.
Cô gái bỗng như trong mộng bừng tỉnh, thình lình mắt sáng lên, nói:
- A!
Rồi nhìn kỹ Yến Nhi. Chàng cười bảo:
- Ðó là “Dường như quen nhau én lại về” đấy.
Cô gái ràn rụa nước mắt, nói:
- Phải rồi. Nghe mẹ bảo, lúc thiếp mới sinh ra đã biết nói, nghĩ là điềm không lành, lấy máu chó cho uống nên mới lú lấp cả nhân duyên kiếp trước. Hôm nay thực như trong mơ chợt tỉnh. Nương tử đây có phải là em Lý vẫn hổ thẹn vì phải làm ma không ?
Bèn cùng nhau trò chuyện về quãng đời thuở trước, buồn vui xen lẫn tuôn trào.
Một hôm, gặp tiết hàn thực, Yến bảo:
- Ðây là ngày hàng năm em và chàng vẫn khóc chị đấy.
Nói đoạn cùng nhau thân hành đi thăm mộ. Cỏ hoang đã xanh rờn, cây đã vừa ôm, nàng cũng động lòng than thở.
Yến bảo chàng rằng:
- Thiếp và chị Liên đã hai đời tình nghĩa, không nỡ lìa nhau, nên cho nắm xương trắng được cùng huyệt.
Chàng làm theo lời, đào mộ Lý, lấy xương mang về hợp tán ở mộ Liên. Họ hàng, bè bạn nghe câu chuyện lạ, mặc lễ phục kéo đến tận huyệt, không hẹn mà tụ họp đến vài trăm người.
Năm Canh tuất, ta đi chơi miền Nam đến đất Nghi, vì mưa ngăn trở, phải nghỉ lại ở quán trọ. Có thư sinh Lưu Tử Kính là thân thích bên ngoại của chàng Tang, đưa cho xem chuyện chàng Tang do người trong cùng văn xã là Vương Tử Chương soạn, khoảng hơn một vạn chữ, được đọc hết. Trên đây chỉ là tóm lược mà thôi.
-------------------- Hết ---------------------------------

nhan_voky
11-09-2013, 11:45 AM
5. Một điển hình "Võ Dõng"

TẦN VŨ VƯƠNG SÍNH TÀI TÁNG MỆNH


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Dong_chu/tn%20thy%20hong.jpg
Tần Vũ Vương 秦武王 vị vua thứ 32 của nước Tần (311 - 307 TCN)

Năm 311 TCN, Tần Huệ Văn vương qua đời, Doanh Đảng (嬴蕩) lên nối ngôi, tức là Tần Vũ Vương (秦武王) còn gọi Tần Vũ Liệt vương (秦武烈王), là vị vua thứ 32 của nước Tần, một nước chư hầu của nhà Chu Trung Quốc.

Theo sử ký, Tần Vũ vương là một người cao lớn, sức khỏe phi thường, thích du hý và làm những việc hơn người. Ngay khi vừa lên ngôi, Vũ Vương đã có ý muốn thâu tóm thiên hạ và dòm ngó đất nhà Chu. Ông tuyển mộ những kẻ lực sĩ như Nhâm Bỉ, Ô Hoạch, Mạnh Thuyết..., những kẻ tài trí hơn người phân thành hai ban, phong cho chức tước cho theo hầu bên cạnh.
Một bữa, vua Tần cho gọi Tả Hữu Thừa Tướng đến và bảo:
- Quả nhân sinh ở Tây Nhung, chưa được thấy cảnh phồn thịnh ở Trung nguyên, nếu được vua Tam Xuyên, đến chơi miền Củng, Lạc, thì dù chết cũng không tiếc. Hai khanh hãy vì quả nhân đi đánh Hàn một chuyến...
...

Năm 307 TCN, sau khi đánh thắng Hàn vua Tần lại sai hữu thừa tướng là Vu Lí Tật đi trước đến Tam Xuyên mở đường, sau đó vua Tần đem theo bọn dũng sĩ là Nhâm Bỉ, Mạnh Bôn tiến thẳng vào Lạc Dương. Vua Chu Noản Vương nhà Chu sợ thế quân Tần phải đích thân ra tận ngoài thành và dùng lễ khách chủ để nghênh đón. Tần Vũ vương giả vờ từ tạ không dám tiếp kiến.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Dong_chu/nh%20nh%20thng.jpg
Một chiếc đỉnh trong "cửu đỉnh", báu vật truyền quốc của nhà Chu

Vũ Vương biết nhà Đông Chu có chín cái đỉnh là bảo vật truyền quốc cực quý nên đòi xem. Chín cái đỉnh ấy nguyên khi xưa vua Vũ lấy các kim loại của chín châu đem cống mà đúc nên, mỗi cái thân đỉnh có chép núi sông nhân vật và số cống phú điền thổ của mỗi châu, tai vạc đều có chạm rồng, nên lại gọi là Cửu Long thần đỉnh. Nhà Hạ truyền lại cho nhà Thương làm của quí trấn quốc, đến khi vua Vũ vương nhà Chu đánh được nhà Thương bèn đem về cả Lạc ấp, khi đem đi dùng phu phen dắt kéo, xe thuyền khuân chở trông như chín toà núi sắt nhỏ, không biết mỗi cái sức nặng bao nhiêu. Vũ vương xem khắp một lượt, khen ngợi mãi không thôi. Trên sườn những cái đỉnh đó có khắc tên chín châu: Kinh, Lương, Ung, Đại, Từ, Dương, Thanh, Duyện, Ký để phân biệt đỉnh nào thuộc về châu nào. Vũ vương chỉ cái đỉnh chữ Ung nói rằng:
- Cái đỉnh là cái đỉnh nước Tần, quả nhân sẽ mang nó về Hàm Dương.
Rồi hỏi viên giữ đỉnh rằng:
- Những cái đỉnh này, có người nào mang nổi không ?
Viên ấy dập đầu thưa rằng:
- Từ khi có đỉnh đến giờ chưa hề có xê xích, nghe nói mỗi cái nặng đến nghìn cân, chẳng ai là người mang nổi được .
Vũ vương liền hỏi Nhâm Bỉ, Mạnh Bôn rằng:
- Hai người có sức khoẻ, có thể cất nổi cái đỉnh này không ?
Nhâm Bỉ biết Vũ vương cậy khoẻ hiếu thắng, từ rằng:
- Sức hạ thần chỉ có thể trăm cân, cái đỉnh này nặng gấp mười, hạ thần chịu không mang được .
Mạnh Bôn vung tay chạy lên nói rằng:
- Hạ thần xin thử xem, nếu không mang nổi, xin đừng bắt tội!


Nói rồi sai người lấy tơ xanh vặn làm cái dây to, buộc hai đầu dây vào hai tai vạc . Mạnh Bôn thắt lưng chặt chẽ, vén hai tay áo, rồi luồn hai ngón tay sắt vào giữa dây, hét lên một tiếng, nâng cao thân đỉnh lên khỏi mặt đất đựợ nửa thước, rồi lại đặt xuống, nhưng vì dùng sức quá mạnh hai con ngươi lồi lên, máu mắt chảy ra ròng ròng . Vũ vương cười nói rằng:
- Nhà ngươi dùng sức quá, nhưng nhà ngươi đã mang nổi được cái đỉnh ấy, không lẽ quả nhân lại chịu kém!
Nhâm Bỉ can rằng:
- Thân vạn thặng đại vương không nên xem nhẹ!
Vũ vương không nghe, liền cởi phăng cẩm bào, đại ngọc ra, nai nịt gọn gàng, lại dùng cái dải to buộc chặt tay áo, Nhâm Bỉ níu lại cố can, Vũ vương nói:
- Sức nhà ngươi không mang được, lại ghen với quả nhân sao ?
Nhâm Bỉ không dám nói nữa . Vũ vương hăng hái bước lên luồn hai tay vào dây, nghĩ Mạnh Bôn cất lên được, ta cất lên mà lại đi được vài bước mới là giỏi hơn, bèn dùng hết sức bình sinh, hét một tiếng, cất cái đỉnh lên cách mặt đất được nửa thước. Vũ vương vừa chực bước đi, không ngờ sức kiệt tay đuối, cái đỉnh rơi xuống đất, đè lên chân phải Vũ vương, nghe rắc rắc mấy tiếng, ống chân dập bét ra, Vũ vương kêu to một tiếng "đau quá!" rồi ngất đi. Các người tả hữu hoảng sợ vực Vũ vương về nhà công quán, máu chảy đầm đìa ướt cả giường chiếu. Vũ vương đau quá không chịu nổi, đến nửa đêm thì chết.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Dong_chu/b%20vng%20c%20nh.jpg
Một vận động viên đang: Cử đỉnh

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Dong_chu/c%20nh%20ng.jpg
Hội thi nâng đỉnh đồng tại quê hương Sở Bá Vương Hạng Vũ

Trước kia, Vũ vương có nói được đến chơi miền Củng, Lạc, dẫu chết cũng không hối hận, ngày nay quả chết ở Lạc Dương, lời nói ấy há chẳng phải là lời sấm ư ? Chu Noãn vương nghe biết cả sợ, vội sắp sửa áo quan tốt, thân đến coi liệm, khóc than hết lễ. Vu Lí Tật rước tang Vũ vương về Sở, Vũ vương không con, đón người em khác mẹ là Tắc nối ngôi, đó là Chiêu Tương vương.
Thừa tướng Vu Lí Tật trị các tội nhấc đỉnh, giết bọn Mạnh Bôn và chu diệt cả họ, lại cho Nhâm Bỉ là người biết can vua, dùng làm thái thú Hán trung. Tật lại nói ở triều rằng:
- Thông Tam Xuyên (ý dẫn đến cái chết của vương) là cái mưu của Cam Mậu bày ra.
Cam Mậu sợ bị Tật làm hại, bèn chạy sang Ngụy, sau chết ở Ngụy.

Đọc mới thấy vua Tần và những người hộ vệ của nhà vua khỏe thật. Tiếc cái là không biết cái đỉnh mà vua tôi nước Tần nâng là bao nhiêu ký? Mình nghĩ sử đã tả như vậy thì chắc chắn cái đỉnh phải to và nặng lắm chứ không như mấy cái đỉnh kia. Có bác nào biết số liệu thực của cái đỉnh nhà Chu ấy không post lên cho pa con biết với ?

fangzi
15-09-2013, 10:47 AM
Hồ gả con

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/cng%20sinh%205.jpg
Ân Thiên Quan

Có thư sinh tên là Ân Thiên Quan, người Lịch Thành thuở nhỏ, nhà nghèo, thường tỏ ra gan dạ. Trong ấp có khu nhà của một cố gia, rộng vài chục mẫu, lầu viện liền nóc, thường thấy chuyện quái dị, vì thế mà bỏ hoang, không ai ở. Lâu ngày tranh cỏ mọc um tùm, giữa ban ngày cũng không ai dám bén mảng đến. Một hôm, Ân đang cùng các bạn học trò uống rượu, có người nói đùa:

- Ai dám ngủ trong nhà đó một đêm, chúng tôi sẽ góp tiền đãi bữa rượu.

Ân ngồi nhổm ngay dậy, nói:

- Khó gì việc ấy.

Rồi cắp một chiếc chiếu mà đi. Chúng bạn tiễn Ân đến cổng, bảo đùa rằng:

- Chúng tôi hẵng đợi ngoài này, nếu như có thấy điều gì thì kíp gọi to lên.

Ân cười đáp lại:

- Nếu có ma hay hồ thì sẽ tóm cổ đưa về làm bằng.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/bit%20th%20hoang.jpg
Khu nhà hoang

Nói rồi đi vào. Thấy lau sậy mọc khuất cả lối đi, các loài cỏ dại mọc rậm như gai. Hôm đó, nhằm khoảng đầu tháng, trăng non mờ nhạt, nên cửa ngõ cũng phân biệt được. Ân đưa tay lần vách mà đi mãi, mới đến khu lầu phía sau. Trèo lên sân thưởng nguyệt, thấy sáng sủa, sạch sẽ, một vành trăng sáng ngậm trên đầu núi, ngồi một lúc lâu, không thấy có gì lạ, trong bụng cười thầm cho là thiên hạ đồn hão. Rồi giải chiếu xuống đất, gối đầu lên hòn đá, nằm ngắm sao Ngưu Lang Chức Nữ. Canh khuya, lơ mơ muốn ngủ, Ân chợt nghe dưới lầu có tiếng giầy lẹp kẹp đi lên. Ân vờ ngủ, ghé mắt xem, thấy một nàng áo xanh xách chiếc đèn hoa sen, thốt nhiên nhìn thấy Ân thì giật mình lùi bước, bảo với người đi sau rằng:

- Có người lạ trên này.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/ma%203.jpg


Người bên dưới hỏi:
- Ai vậy?

Cô gái đáp rằng:

- Không biết.

Giây lát, một ông già bước lên, đến tận nơi nhìn kỹ, nói:

- Ðây là quan thượng thư họ Ân. Ngài đã ngủ say, ta cứ làm việc mình. Ông lớn là người không câu nệ, chắc không lấy làm lạ mà quở trách đâu.

Họ bèn đưa nhau lên, vào cả trong lầu. Các cửa lầu mở hết. Một lát nữa, kẻ đi người lại càng nhiều. Trên lầu, đèn sáng như ban ngày. Ân khẽ cựa mình, cất tiếng ho hắng. Ông già thấy Ân đã tỉnh, bèn bước ra, quỳ xuống thưa rằng:

- Kẻ hèn mọn này có đứa con gái sắp gả chồng, đêm nay cho cháu làm lễ vu quy; không ngờ xúc phạm đến quan nhân, mong ngài lượng thứ.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/kt%20hoa%20ng.jpg
Đèn trên lầu sáng như ban ngày

Ân ngồi dậy, đỡ ông lão lên nói:

- Không biết hôm nay là ngày vui mừng của nhà ta, thật áy náy vì không có gì để mừng tặng.

Ông già đáp:

- Ðược quan nhân hạ cố, trấn áp điềm hung hiểm, là may lắm rồi. Lại xin được phiền ngài ngồi lại cùng vui, quý hóa biết chừng nào.

Ân cũng mừng, nhận lời. Vào trong lầu, nhìn xem, thấy bày biện đẹp đẽ, trang nhã. Lúc ấy, có người đàn bà bước ra vái chào, tuổi đã ngoại bốn mươi. Ông già nói:

- Ðây là tiện nội.

Ân vái chào lại.

Bỗng nghe tiếng sênh, tiếng nhạc cất lên inh tai, có người nhà chạy vội lên thưa:

- Ðến rồi!


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Datviet_Namxua/Tranh_Hoi_Hoa_Viet/m%20ci%20chut.jpg
tiếng sênh, tiếng nhạc cất lên inh tai

Ông lão chạy ra đón, Ân cũng đứng đợi. Phút chốc, một chiếc đèn lồng bằng sa mỏng dẫn chú rể vào. Chú rể tuổi khoảng mười bảy mười tám, vẻ người sáng sủa, thanh tú. Ông già bảo hãy chào quan khách trước. Chàng trai đưa mắt nhìn Ân. Ân giữ chân tiếp khách dùm chủ nhà, nên nhận lễ nửa khách nửa chủ. Thứ đến là bố vợ và chàng rễ giao bái. Xong, bèn ngồi vào bàn tiệc. Một loáng, đám người phấn sáp kéo lên như mây. Rượu thịt bày la liệt. Chén ngọc, bình vàng sáng nhoáng, chiếu rọi lên bàn ghế. Rượu được vài tuần, ông già bảo con hầu vào mời tiểu thư ra. Con hầu vâng lời đi vào, lúc lâu vẫn không thấy ra. Ông lão tự mình đứng lên, vén bức màn, giục ra. Phút chốc, một bọn hầu gái, trẻ có già có, cùng đỡ cô dâu ra. Tiếng ngọc đeo vang lên lanh canh, mùi lan thơm sực nức. Ông già truyền bảo nàng hãy trông lên mà chào lạy. Lạy xong cô dâu đứng dậy, ngồi bên cạnh bà mẹ. Ân đưa mắt liếc nhìn, thấy cô tóc phượng cài trâm thu, tai đeo ngọc minh châu, dung nhan tuyệt đẹp. Thế rồi, rót rượu vào chén vàng, mỗi chén lớn chừng vài đấu. Ân nghĩ: Vật này có thể đưa cho bạn bè làm chứng được, bèn giấu vào trong tay áo rồi vờ say, tựa xuống ghế, gục đầu mà ngủ.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Datviet_Namxua/Tranh_Hoi_Hoa_Viet/m%20ci%20chut%202.jpg

Mọi người đều nói:

- Ông lớn say rồi!

Không bao lâu, nghe tiếng chú rễ có lời xin rước dâu. Tiếng nhạc, tiếng sênh lại nổi lên, mọi người nhộn nhịp xuống lầu ra đi. Xong xuôi, chủ nhân thu dọn bàn tiệc, thấy thiếu mất một cái chén, tìm khắp không thấy. Có người bàn, vụng ngờ cho ông khách đang nằm ngủ. Ông già vội gạt đi không cho nói hết, chỉ sợ Ân nghe được. Lúc lâu nữa, trong ngoài im lặng cả, Ân mới trở dậy. Tối mò không có đèn đuốc gì, chỉ có mùi thơm của phấn sáp và hơi rượu, như còn đầy cả bốn quanh tường. Trông ra, hừng đông đã rạng, bèn thong thả bước ra. Sờ vào trong tay áo, cái chén vàng vẫn còn. Ra đến cổng thì bạn bè đã đợi sẵn, họ cứ ngờ Ân đang đêm lẻn ra, gần sáng mới trở vào. Ân đưa chén cho xem, ai cũng kinh ngạc, dò hỏi. Ân bèn kể rõ đầu đuôi cho biết. Chúng đều nghĩ vật này thì anh học trò nghèo chẳng thể nào có, mới tin là chuyện thực.

Về sau, ông thi đỗ Tiến sĩ, nhậm chức ở Phù Khâu. Có nhà gia thế họ Chu thết tiệc ông, sai lấy bộ chén lớn, mà mãi vẫn không thấy người hầu mang ra. Có đứa hầu nhỏ che miệng nói thầm với chủ nhân điều gì đấy, nét mặt chủ nhân có vẻ tức giận. Một lát sau đem bộ chén vàng ra, rót mời khách uống. Nhìn kỹ kiểu chén cùng đường trạm trổ, không khác chút gì với thứ chén của hồ dạo nào. Ân lấy làm lạ, Ân hỏi chén này chế tạo ở đâu. Chủ nhân đáp:

- Bộ chén này cả thảy có tám chiếc, đời ông thân tôi làm quan Khanh tại kinh, kén tìm thợ khéo chế ra, nên lấy làm vật gia bảo truyền thế, cất kỹ từ lâu. Vì được đại nhân hạ cố mới lấy ở trong hòm ra, thì chỉ còn bảy chiếc. Ngờ đâu người nhà lấy trộm, mà dấu niêm phong mười năm vẫn như cũ, thật chẳng hiểu sao nữa.

Ân cười bảo:

- Chén vàng mọc cánh bay mất rồi, những vật báu truyền đời không nên để cho mất. Tôi có một chiếc cũng gần giống, xin đem để tặng ngài.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/chn%20ngc.jpg
Vật gia bảo truyền thế...

Tiệc xong, về dinh, ông lấy chén ra, cho người mang đến. Chủ nhân xem kỹ, rất kinh hãi, đích thân đến tạ ơn, và hỏi nguyên do chiếc chén từ đâu mà có. Ân bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện.

Mới hay rằng vật ngoài nghìn dặm, hồ cũng có thể lấy được, duy chỉ không dám giữ làm của mình.

doancongtu
26-09-2013, 12:16 PM
VƯƠNG SANH

Vương Sanh là người huyện Nghi Thuỷ, tỉnh Sơn Đông mồ côi từ nhỏ. Chàng là một thiếu niên đàng hoàng, tâm hồn cao thượng, tuy nhà nghèo, nhưng ăn mặc khá tươm tất. Phú ông họ Lan biết chàng là người tốt nên đem lòng yêu mến, gả con gái cho và hứa sẽ cất nhà giúp của cho con rể.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/thiu%20nin%203.jpg
Vương Sanh

Sanh thành hôn chưa bao lâu thì phú ông qua đời. Các anh em vợ khinh chàng chẳng xứng, người vợ vốn thói kiêu kỳ, cư xử với chàng như đầy tớ! Nàng thích tận hưởng những món ngon vật lạ, nhưng khi Sanh đến thì dọn cơm rau nước lã, đem sậy hút canh thay muỗng cho chàng dùng bữa. Sanh cố nhịn nhục.

Năm mười chín tuổi, Sanh đi thi đồng tử khoa, bị đánh rớt. Ở chợ quận về, nhằm lúc vợ không có dưới bếp, chàng thấy một nồi hầm đùi dê vừa chín tới, bèn đem xuống ăn. Bất chợt vợ về, chẳng nói một tiếng, nàng bưng nồi đi chỗ khác. Sanh xấu hổ quá, ném đũa xuống đất, than: "Có vợ thế này thà chết còn hơn!"

Vợ nổi giận hỏi chừng nào chết, rồi trao cho Sanh một sợi dây, nói là để chàng tiện thắt cổ. Sanh nộ khí xung thiên, chụp lấy tô canh ném vào trán người vợ.

Sanh ngậm hờn bước ra khỏi nhà, lòng buồn tủi chỉ muốn chết. Chàng giấu sợi dây lưng trong áo, đi mãi vào rừng sâu. Đến dưới một lùm cây, chàng đang tìm một cành cây để cột dây vào thì thấy lưng chừng bờ đất cao, ló ra một tà áo. Rồi một cô gái hiện ra, vừa trông thấy Sanh nàng vội trở gót, thoáng chốc mất hút như một cái bóng. Sanh kinh ngạc vì thấy vách đất không có khe hở. Biết là yêu quái, nhưng lòng đã muốn chết nên chàng chẳng chút sợ hãi, buông dây ngồi ngóng. Một lát sau cô gái lại ló nửa mặt ra, liếc nhìn Sanh một cái rồi rụt vào ngay. Sanh sực nhớ rằng nếu gặp ma quỷ mà muốn theo thì sẽ được thuốc độc. Chàng liền lượm đá, khẽ đập lên vách và nói: "Xin chỉ cho tôi một nẻo để chui vào vách đất này. Tôi đang muốn chết đây". Hồi lâu không có ai trả lời, Sanh lại nói nữa. Bên trong bỗng vang lên tiếng nói du dương: "Nếu thật muốn chết thì xin tạm lui về đi, tối lại cũng được". Sanh đáp: "Vậy cũng được", rồi chàng ngồi đợi trời tối.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/ma%2013.jpg

Màn đêm bắt đầu buông xuống, lấp lánh những vì sao trên bầu trời. Bờ đất bỗng dưng biến thành nhà cao cổng rộng, hai cánh cửa nhẹ nhàng mở ra. Sanh bước lên bậc tam cấp đi vào. Mới đi vài bước chàng thấy khe nước cuồn cuộn chảy ngang, giống như suối. Thọc ngón tay thử, chàng thấy nóng như nước sôi, mà chẳng biết sâu cạn cỡ nào. Nghĩ là quỷ thần đã chỉ chỗ cho mình chết, Sanh bèn nhảy ùm xuống và cảm thấy nóng khủng khiếp, da thịt nhức buốt tưởng chừng như muốn rã. May sao chàng không chìm. Lặn ngụp hồi lâu, Sanh dần dần quen nóng, cố gắng bơi và cuối cùng ngoi lên được bờ phía nam. Toàn thân chàng chẳng phỏng chỗ nào cả.

Đi một hồi Sanh thấy nhà cửa xa xa có ánh đèn lập loè, chàng bèn rảo bước tiến tới. Bỗng từ đâu chó dữ vụt xông ra, táp rách áo Sanh và cắn rách vớ. Chàng quờ quạng kiếm đá để ném, chúng mới chịu lui một chút. Sau đó một bầy chó khác xồ đến muốn sủa, con nào con nấy lớn bằng con bê. Sanh đang trong cơn nguy cấp thì cô gái chợt bước ra, quát chó trở vào rồi hỏi chàng: "Có phải người muốn chết không? Hỡi chàng trai khốn khổ, để thiếp đưa chàng vào chốn an vui. Từ giờ này chàng không còn hoạn nạn nữa." Nàng khêu đèn, dẫn đường cho Sanh rồi hé mở cửa sau, âm thầm đi tới. Đến một ngôi nhà có ánh nến loè ngang cửa sổ, nàng quay lại nói: "Chàng hãy tự nhiên vào, thiếp xin đi."


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0023.jpg

Sanh bước vào phòng, nhìn quanh bốn phía thì phát hiện ra đó là... nhà mình. Lật đật quay trở ra, Sanh gặp bà già là người phục dịch vợ mình. Bà lão nói: "Kiếm trọn ngày nay mà tôi chẳng thấy cậu đâu cả?" rồi bà kéo Sanh trở vào. Vợ Sanh, trán quấn khăn rịt vết thương, tươi cười bước xuống giường: "Vợ chồng vui thú với nhau hơn một năm trời, giờ chàng chẳng muốn nhìn thiếp ư? Thiếp đã biết lỗi rồi". Nói xong nàng bèn thò tay xuống đầu giường lấy ra hai thoi vàng, nhét vào ngực áo Sanh rồi lên tiếng: "Từ nay về sau, mọi việc ăn ở tuỳ chàng định liệu, chàng chịu không?" Sanh không nói gì, quăng vàng xuống đất, đi một mạch ra cửa rồi cắm đầu chạy mất. Chàng muốn vào lũng sâu, để gõ cửa ngôi nhà cao rộng.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0077.jpg

Ra tới đồng vắng, Sanh thấy cô gái lúc trước lững thững bước đi ở phía xa, hình như trên tay có cầm đèn. Chàng vừa chạy theo vừa gọi giật lại, đèn mới đứng yên. Cô gái ngạc nhiên nhìn Sanh: "Kìa, sao chàng trở lại đây, muốn phụ lòng thương của cô chủ ư ?" Sanh nói: "Tôi chỉ cần chết chứ không muốn cùng người ấy chung sống. Cô nương nhà cao cửa rộng; tuy ở dưới đất song chắc cũng cần dùng người, tôi nguyện phục dịch cho cô nương, chớ quả thật không muốn sống nữa".

Còn nữa...

doancongtu
26-09-2013, 04:25 PM
Vương Sanh

Tiếp theo…


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0021.jpg

Cô gái nói: "Chết vui cũng không bằng sống khổ. Suy nghĩ của chàng lầm lạc quá. Trong nhà thiếp không có việc gì khác hơn là đào kinh, quét rác, nuôi chó và khiêng thây chết. Làm không tròn phận sự thì bị xẻo tai, cắt mũi, gọt giò, xén gót. Chàng nhắm sức làm nổi không ?" Sanh đáp: "Đủ sức". Rồi cùng cô gái bước vào cửa sau.

Chàng hỏi: "Công việc trong nhà là những gì? Cô nương vừa nói là khiêng thây. Vậy xác chết đâu mà nhiều đến thế?" Cô gái đáp: "Nữ chủ vốn là người từ thiện, bắt chước ông trưởng giả thành Xá Vệ bên Ấn Độ ngày xưa, lập "Cấp cô độc viên" cho Phật có nơi yên ổn mà thuyết pháp, nay cũng lập vườn, gọi là "Cấp cô viên", để đón các oan hồn chết bất đắc kỳ tử, vất vưởng khắp cõi u minh, không nơi nương tựa, mục đích là muốn nuôi họ. Oan hồn có nhiều đến hàng nghìn. Ngày nào cũng có kẻ tử vong, thì phải khiêng đi chôn. Xin mời chàng đi xem qua".


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/treo%20c%20t%20t.png

Lát sau đến một cái cửa lớn, đề ba chữ "Cấp cô viên" Sanh bước vào thì thấy nhà cửa ngổn ngang, mùi hôi tanh nồng nặc khắp nơi. Các oan hồn trong vườn thấy ánh đèn bèn đổ xô lại rất đông, kẻ đứt đầu, người cụt cẳng. Sanh hơi sợ, ngoảnh mặt muốn bỏ đi, lại thấy thây ma nằm sóng sượt ở chân tường.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/ma%2020.jpg

Thấy chàng tỏ vẻ ghê tởm cô gái bèn nói: "Nhắm làm không nổi, xin chàng hãy trở về chốn cũ mà hưởng thú yên vui". Sanh bất đắt dĩ phải cố gắng đem thây ma đi chỗ khuất nẻo mà bỏ. Rồi chàng van cô gái làm sao để chàng khỏi ngửi cái ô uế của tử thi. Cô gái bằng lòng.

Đến gần một gian nhà, nàng bảo: "Chàng ngồi đây đi. Để thiếp vào nói chuyện đó. Việc nuôi chó có phần nhẹ nhàng hơn. Thiếp ráng lo cho người ta được việc, ý cũng mong được người ta báo đáp".

Đi một lát, cô gái chạy ra bảo Sanh bước theo. Chàng đi vào, thấy bốn bên phòng lớn đều treo lồng thắp đèn sáp. Có một thiếu nữ ngồi gần vách phía trong, người đẹp độ hai mươi tuổi. Cô gái sụp xuống phía dưới thềm. Thiếu nữ liền bảo cô gái đứng dậy và nói: "Chàng nho sinh nầy nuôi sao cho đủ sức. Nên cho ở gian phía tây coi bộ sổ". Sanh mừng thầm quỳ lạy cám ơn. Thiếu nữ nói: "Chàng trông có vẻ chất phác thành thực, có thể chăm lo việc ấy được. Nhưng nếu làm sai sổ sách thì tội ấy không nhẹ đâu". Sanh cúi người vâng dạ.

Tì nữ dẫn chàng sang căn nhà phía tây. Thấy nhà cửa sạch sẽ Sanh rất mừng, ngỏ lời cảm ơn cô gái. Sau đó Sanh hỏi qua tông tộc của thiếu nữ, thì cô gái nói: "Nữ chủ tên là Cẩm Sắt, nàng là con gái của hầu tước họ Tiết ở huyện Đông Hải. Còn thiếp tên là Xuân Yến. Nếu cần dùng chi, xin chàng cứ cho thiếp hay". Tì nữ lui ra, rồi mang vào quần áo, chăn nệm đặt trên giường chàng. Sanh mừng vì có chỗ yên tĩnh.

Sáng sớm Sanh thức dậy làm việc và biên sổ ma. Tất cả người hầu trong nhà đều đến thăm chàng. Họ đem rượu và thịt khô đến biếu rất nhiều, chàng sợ sinh chuyện hiềm nghi, nên từ khước tất cả. Ngày hai bữa cơm, đều do trong nhà dọn ra. Cô chủ xét thấy chàng thanh liêm, đặc biệt tặng chàng khăn nho sinh và y phục mới. Hễ có tưởng phẩm gì cần trao gởi, nàng đều nhờ Xuân Yến trao giùm cho Sanh.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0019.jpg
Thấy nhà cửa sạch sẽ Sanh rất mừng.

Tì nữa có vẻ thích Sanh lắm. Lúc đã quen thân, nàng thường khi liếc mắt đưa tình với Sanh. Chàng một mực giữ mình, chẳng dám để sa ngã nên giả bộ ngu ngơ, không hiểu ý cô gái. Thế rồi hơn hai năm trôi qua, Sanh nhận thưởng nhiều gấp đôi số lương đã định và chàng vẫn một mực cẩn trọng như trước.

Một đêm đương ngủ, Sanh nghe có tiếng kêu la bèn vội vàng thức dậy, rút dao xông ra, thấy ánh đuốc rực trời. Chàng nhìn lén thì thấy trong sân đầy kẻ cướp. Đầy tớ hoảng sợ đã lẩn trốn cả. Có một gã người hầu nắm tay Sanh rủ cùng chạy nạn, chàng không chịu, lẻn đi bôi lọ mặt mũi và nai nịt gọn ghẽ, rồi trà trộn vào bọn cướp mà hô to lên: "Không cần làm kinh động cô chủ họ Tiết. Chỉ nên lo vơ vét tiền của, đừng bỏ sót lại cái gì cả."

Lúc ấy gian nhà nào cũng đầy kẻ cướp sục sạo tìm Cẩm Sắt mà chẳng thấy. Sanh biết là cô chưa bị bắt, bèn lẻn vào cửa sau, một mình cố lục tìm. Gặp một bà lão lom khom núp, mới hay cô chủ cùng với Xuân Yến đã vượt tường rào từ bao giờ rồi.

Chàng cũng trèo qua tường, thấy chủ tớ cùng núp trong xó tối. Chàng nói: "Chỗ nầy trốn gì được". Cô chủ nói: "Tôi chẳng còn sức đâu mà đi xa hơn". Sanh bèn bỏ dao, cõng nữ chủ chạy chừng hai ba dặm, mồ hôi vả ướt cả mình. Cuối cùng chàng mới hay đã vào sâu trong thung lũng, bèn đặt nàng xuống đất để nghỉ ngơi.

Bỗng một con hổ từ đâu chạy đến khiến Sanh khiếp đảm, nhưng chàng vẫn còn đủ bình tĩnh định tìm cách chống lại. Tuy nhiên hổ đã ngoạm thiếu nữ. Sanh vội vàng chụp lấy tai hổ, lấy hết sức thẳng cánh tay thọc mạnh vào miệng hổ, cố ý thế mạng cho Cẩm Sắt. Cọp điên tiết, buông thiếu nữ ra, táp lấy cánh tay chàng, giật kêu răng rắc. Một khúc tay của Sanh lìa ra, rơi xuống đất, rồi cọp bỏ chạy đi.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/tap_luc_truyen/Ngu_thuong/hiu%202%20.jpg
chàng vẫn còn đủ bình tĩnh định tìm cách chống lại

Cô chủ khóc ngất: "Thật khổ cho chàng! Thật khổ quá." Trong khi hồn phi phách tán Sanh chưa biết đau đớn, chỉ thấy máu tuôn lênh láng. Chàng nhờ tì nữ xé vạt áo băng bó giùm chỗ đứt, song cô chủ ngăn lại rồi cúi xuống tìm khúc tay gãy, tự mình chắp nối và bó tay lại cho Sanh. Bình minh dần ló dạng, cả nhóm mới cùng nhau đi chậm rãi về. Bước lên nhà, họ thấy như bãi đất hoang. Lúc trời đã sáng tỏ, người tớ già mới dần dần hợp lại đủ mặt. Cô chủ thân hành sang gian nhà phía tây, hỏi thăm Sanh đau nhức thế nào. Nàng cởi băng ra và thấy xương tay của Sanh đã dính liền lại, bèn lấy thuốc mang sẵn ra, rịt vào vết thương rồi mới đi. Kể từ đó nàng càng trọng Sanh, cho phép những gì chàng hưởng dụng đều đồng đẳng với của nàng. Lúc cánh tay Sanh lành hẳn, nàng thết tiệc rượu trong nội thất để tuyên dương chàng. Nàng mời Sanh ngồi, chàng khiêm tốn ba lần rồi cuối cùng ngồi ghé một góc ghế. Nàng nâng chén quan khách rồi hồi lâu mới nói: "Sinh mạng thiếp đã nhờ chàng cứu giúp, hôm nay không có người môi giới, thiếp đành nén thẹn mà tự hiến cuộc đời cho chàng vậy." Sanh bàng hoàng nói: "Tôi thọ ân cô rất nhiều, dẫu có nát thân cũng chưa đền đáp được. Nhưng nếu tuân lệnh cô thì trái với thân phận, tôi sợ rằng Trời cao sẽ trừng phạt nên chẳng dám... Nếu như cô có lòng thì cho tôi được cùng tì nữ kết duyên, như vậy đã quá lắm rồi."

Một hôm chị cả của nữ chủ là Diêu Đài đến chơi. Nàng khoảng bốn mươi tuổi trông khá xinh đẹp. Tối lại, nàng cho mời Sanh vào buồng. Diêu Đài bảo ngồi chàng ngồi rồi nói: "Tôi từ ngàn dặm đến đây, để đứng làm chủ hôn cho em gái tôi. Đêm nay có thể cho nó sum họp cùng người quân tử được chăng." Sanh đứng lên, nhắc lại lời từ khước. Diêu Đài chợt bảo đem rượu ra rồi bảo Sanh và nữ chủ đổi chén lẫn nhau. Chàng cố từ chối, Diêu Đài giựt lấy tự tiện trao đổi. Chàng bấy giờ sụp quỳ xuống đất tạ tội, đỡ lấy chén rượu mà uống cạn.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/tap_luc_truyen/Ngu_thuong/hiu%204.jpg
Chàng bấy giờ sụp quỳ xuống đất tạ tội

Lúc Diêu Đài ra ngoài nàng nói: "Thưa thật cùng chàng, thiếp vốn là tiên nữ, vì phạm lỗi mà bị đày. Thiếp tự nguyện xuống trần, gom các oan hồn lại nuôi dưỡng để chuộc tội đối với thượng đế. Hôm nọ bị lũ thiên ma đến cướp phá, thành ra có cái duyên nương tựa vào chàng. Thiếp mời chị cả về đây làm chủ hôn và lo việc nhà nầy cho thiếp, để thiếp tiện việc theo chàng về bên ấy". Sanh kính cẩn nói: "Sống dưới mặt đất, lạc thú vô cùng. Chớ ở nhà tôi thì có người vợ dữ. Vả lại, nhà cửa tôi chật hẹp khó mà lo liệu chu tất lâu dài". Nàng cười khẽ, nói rằng không hại gì. Lúc đã say, họ cùng nhau vào phòng, giao hoan luyến ái lên đến cực điểm. Mấy ngày sau, nàng bảo chàng: "Việc sum họp ở cõi âm không thể nào kéo dài được. Xin mời chàng tính gấp chuyện trở về. Chàng thu xếp việc nhà xong, tự khắc thiếp sẽ đến với chàng".

Còn nữa...

doancongtu
26-09-2013, 04:38 PM
Vương Sanh
http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0008.jpg


Tiếp theo và hết.

Nàng dắt ngựa trao cho Sanh, mở cửa kêu chàng ra đi. Bức vách khép chặt lại. Chàng cưỡi ngựa vào xóm. Người trong làng ai nấy đều kinh hãi. Về đến cửa Sanh thấy trong nhà sáng rực. Trước đó, lúc chàng bỏ ra đi, vợ chàng nhắn hai anh của y lại, định đem việc đánh đập kia mà thưa chàng lên quan. Đợi mãi đến chiều tối, không thấy chàng về, họ mới đi. Có kẻ bắt gặp giày chàng đánh rơi dưới rãnh nước, ngờ chàng đã chết.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0013.jpg

Thế rồi hơn một năm qua, Sanh biệt vô âm tín. Có người chủ hiệu buôn ở huyện Thiểm thuộc tỉnh Hà Nam, cậy mai mối đến cưới vợ Sanh. Người ấy đến ngay nhà chàng để vui vầy cùng vợ chàng. Trong vòng nửa năm, ông ta cất thêm nhà ngang dãy dọc. Người chủ tiệm lại đi xa, lo việc buôn bán rồi mua một người tì thiếp đem về. Từ đó trong nhà không yên. Rồi nhiều khi luôn mấy tháng người lái buôn vắng bặt không về. Sanh dò hỏi sự tình, tức giận quá, buộc ngựa ngoài ngõ mà vào. Gặp người tớ già ngày trước Sanh chưa kịp nói thì bà già kinh hãi, sụp quỳ xuống đất. Chàng quở mắng hồi lâu, rồi bảo dẫn chàng đi ngay đến phòng vợ. Lục soát một hồi Sanh mới nhận ra người vợ đã lẩn đâu mất. Sau đó Sanh gặp nàng ở hàng ba phía sau, tự treo cổ chết. Sanh bèn sai người khiêng nàng về nhà họ Lan, xong xuôi chàng gọi người thiếp ra, thấy nàng độ mười tám mười chín tuổi, dáng người khá đẹp. Sanh bèn cùng người thiếp sum vầy.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0050.jpg

Người chủ hiệu buôn cậy người trong xóm đến xin trả thiếp lại cho y. Người thiếp van nài tha thiết không chịu đi. Sanh làm đơn, định thưa người kia về tội giựt nhà đoạt vợ. Chủ hiệu buôn không dám hó hé gì nữa, thu dọn cửa hàng dời sang miền tây.

Đến lúc này Sanh đâm ra hồ nghi Cẩm Sắt quên lời ước. Nhưng một tối nọ, giữa lúc cùng người thiếp uống rượu, Sanh bỗng nghe có tiếng ngựa xe đậu trước cửa. Thì ra nàng đến. Nàng chỉ giữ một mình Xuân Yến và bảo tất cả người hầu ra về. Nàng bước vào phòng thì người thiếp đứng lên chắp tay vái chào. Nàng nói: "Dì ấy có tướng sanh con trai, có thể chịu khổ thay thiếp." Nói xong nàng đi lấy áo gấm, châu báu đem cho ả. Tì thiếp đưa hai tay nhận lãnh, rồi đứng đó hầu hạ. Nàng kéo Sanh ngồi xuống, cùng nhau cười nói vui vẻ. Hồi lâu nàng nói: "Tôi say rồi, chỉ muốn đi ngủ thôi." Sanh cũng bỏ giày lên giường cùng nàng. Bấy giờ người thiếp mới bước ra nhà ngoài. Khi ả vào buồng mình thì thấy Sanh đã nằm trên giường, lấy làm lạ, quay lại nhìn lén vào phòng Cẩm Sắt, thấy nến đã tắt. Sanh đêm nào cũng ở buồng người thiếp. Một đêm, người thiếp thức giấc, lén nhìn vào phòng Cẩm Sắt, thấy chàng và cô gái đang cùng nhau nói cười. Lấy làm quái lạ về việc ấy, nàng vội trở gót về định mách chàng hay nhưng trên giường không có ai cả. Sáng ra, nói nhỏ riêng cho chàng nghe, thì ra chính chàng cũng chẳng hay biết gì, chỉ biết rằng có lúc ở phòng cô chủ, có lúc lại ngủ ở phòng tì thiếp. Chàng dặn người thiếp hãy giấu kín chuyện quái dị ấy. Lâu ngày tì thiếp bắt đầu có mang. Cẩm Sắt dường như không biết. Một hôm tì thiếp lên giường chuẩn bị sinh con, nhưng thấy sinh khó quá. Nàng chỉ biết kêu lên: "Cô ơi!" Cô chủ bước vào, là thai ra ngay. Nàng ẵm giơ lên, nhận ra là con trai. Nàng cắt rún rồi đặt nó vào lòng tì thiếp.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0018.jpg

Làm vợ Sanh suốt ba mươi năm trời, thỉnh thoảng Cẩm Sắt về thăm nhà, ra đi hay trở lại đều vào lúc ban đêm. Một hôm nàng dẫn Xuân Yến cùng đi, mà chẳng trở lại. Còn chàng thì đến năm tám mươi tuổi, bỗng một đêm kia dắt lão bộc ra đi và mãi cũng không trở về ngôi nhà cũ nữa./.
----------------------------------
Doancongtu theo Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh

doancongtu
30-09-2013, 09:50 PM
Liên Tỏa Truyện


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0025.jpg

Tỉnh Sơn Tây có nho sinh họ Dương, tên Tử Úy, gia tư khá giả nhờ ở gia sản của cha mẹ để lại. Năm ấy, Tử Úy bỏ Sơn Tây sang Sơn Ðông, mua một ngôi nhà ở huyện Tứ Thủy để cư ngụ. Ngôi nhà nằm giữa một vườn bạch dương, có hàng rào dâm bụt vây quanh. Ðêm đêm, gió thổi vào lá bạch dương gây nên tiếng rì rào như tiếng sóng vỗ. Cổng chính ngôi nhà trông ra một cánh đồng trống trải, đầy cổ mộ. Một tối, Tử Úy vừa thắp đèn lên để đọc sách thì chợt nghe có tiếng thiếu nữ ngâm thơ, từ ngoài hàng rào vọng vào nhà. Âm thanh trong vắt song đượm vẻ ai oán thê lương, ngâm đi ngâm lại mãi hai câu:


Nguyên dạ thê phong khước đảo xuy,
Lưu huỳnh thông thảo phục triêm vi.
(Ðêm xuân gió nhẹ lạnh căm căm,
Ðom đóm theo hoa lướt buổi rằm).

Tử Úy cứ thắc mắc, chẳng hiểu là tiếng người hay tiếng ma. Sáng sau, Tử Úy ra ngoài hàng rào để coi xem có vết chân người hay không thì chẳng thấy gì ngoài một chiếc nịt bít tất mắc trong bụi cỏ gai. Tử Úy nhặt lên, đem về nhà, để trên thành cửa sổ. Tối ấy, quá canh hai, lại nghe có tiếng ngâm thơ, Tử Úy bèn bắc ghế đứng nghển cổ nhìn qua hàng rào xem là ai thì bỗng thấy tiếng ngâm im bặt. Vì thế, Tử Úy nghĩ chắc là ma. Tuy nhiên, Tử Úy vẫn ưa thích tiếng ngâm ấy.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0034.jpg
đứng tựa vào cây, cúi đầu ngâm thơ...

Tối sau, Tử Úy ra phía ngoài hàng rào, nấp trong bụi rậm để rình. Sắp sang canh hai, chợt thấy từ trong bụi cỏ ở đằng xa, có một nữ lang, dáng điệu tha thướt, lướt tới một cây nhỏ cạnh hàng rào nhà mình, đứng tựa vào cây, cúi đầu ngâm thơ, Tử Úy khẽ lên tiếng đằng hắng. Nữ lang nghe có tiếng người, vội lướt trở lại bụi cỏ rồi lẩn mất.
Từ đó, tối nào Tử Úy cũng ra nấp trong bụi rậm để chờ nghe lén. Ðến khi nữ lang ngâm xong, lẩn vào bụi cỏ, Tử Úy mới quay vào nhà.
Một tối, khi nghe nữ lang ngâm xong, Tử Úy chợt nghĩ ra hai câu kế, liền cất giọng ngâm tiếp:


U tình khổ tự hà nhân kiến,
Thúy tụ đan hàn nguyệt thượng thì.
(Nỗi niềm buồn tủi nào ai thấy,
Áo biếc cô đơn dưới bóng trăng) .

Ngâm xong, thấy chung quanh vắng lặng, Tử Úy bèn quay vào nhà. Vừa ngồi xuống ghế, chợt thấy nữ lang từ ngoài sân bước vào, chắp tay vái chào, Tử Úy mừng lắm, vội chắp tay đáp lễ, hỏi: "Nương tử họ tên chi?" Nữ lang đáp:"Thiếp họ Chu, tên Liên Tỏa" Hỏi: "Nhà ở đâu?" Ðáp: "Cũng ở gần đây thôi" Hỏi: "Quê cũng ở huyện này phải không? Ðáp :"Không phải! Ở huyện Lũng Tây tỉnh Cam Túc!" Hỏi: "Sao lại sang đây lưu ngụ?" Ðáp: "Vì khi trước gia phụ dời nhà sang đây, nên dắt sang theo!" Hỏi: "Nương tử có phải là người sống không?" Ðáp: "Không phải! Thiếp là ma!" Hỏi: "Sao qua đời sớm thế?" Ðáp: "Vì bị bạo bệnh!" Tử Úy hỏi: "Mộ ở đâu?" Nữ lang lấy ngón tay chỉ về phía cánh đồng trước cổng, đáp: "Cách đây một dặm, nằm cạnh gốc cổ thụ cao!" Hỏi: "Qua đời đã lâu chưa?" Ðáp: "Ðã được 20 năm rồi! Từ năm mới 17 tuổi!" Hỏi: "Sao đêm nào cũng tới đây ngâm thơ?" Ðáp: "Vì ở chốn cửu tuyền hoang dã quá! Lang thang tới đây ngâm thơ cho đỡ buồn!" Hỏi: "Hai câu thơ vẫn ngâm là của thi sĩ nào?" Ðáp: "Của thiếp!" Hỏi: "Sao lại làm thơ ai oán, thê lương thế?" Ðáp: "Vì muốn gửi gấm mối u tình!" Hỏi: "Thường lẩn trốn người sống, sao tối nay lại dám vào đây?" Ðáp: "Vào để cám ơn!" Hỏi: "Cám ơn về việc gì?" Ðáp: "Về việc đã nghĩ giùm hai câu kế vô cùng tuyệt diệu! Thiếp chỉ nghĩ được hai câu đầu, còn hai câu kế thì chịu! Nay được kẻ sĩ phong nhã nghĩ giùm cho, thiếp khâm phục lắm, nên vào đây để cám ơn!" Hai bên bèn chuyện trò thân mật, cách xưng hô cũng mỗi lúc một thân hơn. Gần tới nửa đêm, bỗng Tử Úy dang tay ra đùa bỡn. Liên Tỏa chỉ đưa tay chống cự yếu ớt. Chợt Tử Úy đưa mắt nhìn chằm chặp xuống hai chân Liên Tỏa. Thấy thế, Liên Tỏa cười, nói: "Cuồng sinh này sàm sỡ quá!" Tử Úy nói: "Chẳng phải là sàm sỡ đâu! Thấy nịt bít tất lạ thì nhìn đó thôi! Bên phải là nịt màu tím mà bên trái lại là tơ màu vàng!" Lúc đó Liên Tỏa mới vỡ lẽ. Liền đáp: "Tối nọ ngỡ là bị đuổi bắt, hốt hoảng bỏ trốn, nên bị tuột mất một chiếc nịt, chẳng biết ở đâu!" Tử Úy nói: "Ðể ta biếu nàng một chiếc khác!" Rồi tới thành cửa sổ lấy chiếc nịt đưa cho. Thấy đúng là chiếc nịt của mình, Liên Tỏa hết sức kinh ngạc, hỏi: "Lấy ở đâu ra?" Tử Úy nói thực cho nghe. Liên Tỏa liền tháo tơ ra, cột nịt vào. Thế rồi, hai người ngồi đàm luận văn thơ. Thấy Liên Tỏa thông tuệ, dễ thương, Tử Úy coi như một bạn văn tri kỷ. Quá nửa đêm, Liên Tỏa cáo biệt. Sáng sau, Tử Úy đi về phía đằng trước cổng nhà chừng một dặm thì thấy quả có một ngôi mộ nằm cạnh một gốc cổ thụ cao.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0104.jpg

Từ buổi ấy, tối nào Tử Úy cũng nghe thấy tiếng ngâm thơ, rồi một lát sau thì thấy Liên Tỏa tới. Hai bên gặp nhau, nói cười vui vẻ, đàm luận văn thơ rất tương đắc, tựa hồ như cá gặp nước vậy.

Một tối, Tử Úy ngỏ ý muốn ái ân song Liên Tỏa chẳng chịu. Thế nhưng, khi Tử Úy ngỏ ý muốn kẻ lông mày cho thì Liên Tỏa lại chịu ngay.
Tối khác, Liên Tỏa tới, dặn:"Xin chớ nói chuyện đôi ta cho ai biết!" Tử Úy hỏi: "Tại sao?" Ðáp: "Vì thiếp nhát lắm! Ngoài chàng ra, thiếp chẳng dám cho người nào gặp mặt vì sợ người ta bắt nạt mình!" Tử Úy gật đầu.

Mấy hôm sau. Một bữa, Tử Úy mượn được cuốn Liên Xương Cung Từ, đem về để trên bàn. Tối ấy, khi Liên Tỏa tới, thấy cuốn cung từ thì bất giác thở dài. Tử Úy hỏi: "Sao lại thở dài?" Liên Tỏa đáp: "Vì sinh thời, thiếp thích đọc cuốn này lắm! Nay thấy nó, thiếp lại nhớ tới thủa sinh thời nên ngậm ngùi mà thở dài đó thôi!" Tử Úy nói: "Cuốn này hay lắm! Ta cũng muốn chép lại một bản để thỉnh thoảng ngâm nga!" Liên Tỏa nói: "Nếu thế thì để thiếp chép cho!" Nói xong, liền ngồi dưới đèn mà chép, nét chữ rất ngay ngắn, mảnh mai. Rồi tự chọn cho mình một trăm bài ưa thích, chép thành một tuyển tập. Sáng sau, Tử Úy cất bản chép vào rương, để tuyển tập trên bàn, còn bản chính thì đem đi trả.

Một tối, Liên Tỏa tới, nói: "Chàng nên mua lấy một bàn cờ với một cây đàn để chúng mình giải trí với nhau!" Tử Úy gật đầu. Sáng ra, Tử Úy đi mua. Tối đến, khi Liên Tỏa tới, thấy có bàn cờ với cây đàn thì mỉm cười, nói: "Chàng hãy đấu thử với thiếp vài ván xem sao!" Tử Úy gật đầu rồi ngồi vào bàn, đấu cờ với Liên Tỏa. Tử Úy thua liền hai ván.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/liu%20trai%205.jpg

Tối sau, Liên Tỏa tới, nói: "Thiếp mới viết được khúc Tiêu Song Linh Vũ, nhưng chẳng biết chàng có thích nghe chăng?" Tử Úy gật đầu. Liên Tỏa bèn ôm đàn mà gảy, âm thanh ai oán. Mới nghe được nửa chừng, Tử Úy đã xua tay, nói: "Thôi đừng gảy nữa! Âm thanh buồn lắm!" Liên Tỏa bèn ngưng, rồi nói: "Thiếp có thuộc khúc Hiểu Uyển Oanh Thanh, nhưng chẳng biết chàng có thích nghe chăng?" Tử Úy gật đầu. Liên Tỏa lại ôm đàn mà gảy, âm thanh hoan lạc, khác hẳn khúc trước. Tử Úy thích khúc này lắm. Bèn cùng nhau vui chơi, quên cả thời khắc. Khi nhìn qua cửa sổ, thấy vừng đông đã ló rạng, Liên Tỏa mới kinh hãi, vội đứng dậy ra về.

Còn nữa...

doancongtu
30-09-2013, 10:14 PM
Liên Tỏa Truyện

Tiếp theo...

Nửa năm sau. Một trưa, Tử Úy đang nằm ngủ ở phòng khách, bỗng có người bạn nho sinh họ Tiết, tới thăm. Thấy Tử Úy đang ngủ, Tiết sinh đảo mắt nhìn quanh thì thấy có nhiều quân cờ vứt ngổn ngang trên bàn, cạnh một cây đàn. Vốn biết Tử Úy chẳng thích những thứ này, Tiết sinh lấy làm lạ nên đoán là Tử Úy mới có bạn gái. Tới bàn coi, Tiết sinh bắt gặp một bản chép các bài cung từ. Lật trang đầu ra coi, thấy nét chữ mảnh mai, ngay ngắn, lật trang cuối ra coi, thấy có ba chữ Liên Tỏa chép, Tiết sinh càng tin là mình đoán đúng.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/liu%20trai%20%20ch%20d%2010.jpg

Lát sau, khi tỉnh giấc, thấy bạn tới chơi, Tử Úy vùng dậy mặc quần áo, ngồi tiếp chuyện. Trong lúc hàn huyên, Tiết sinh hỏi:"Sao lại có bàn cờ với cây đàn?" Tử Úy đáp:"Vì muốn học đấu cờ với gảy đàn!" Hỏi:"Ai chép cho bản cung từ để trên bàn?" Ðáp:"Mới mượn được của một người bạn chứ có ai chép cho đâu!" Cười, nói:"Liên Tỏa là tên con gái chứ đâu có phải là tên người bạn nào? Nói dối làm chi?" Tử Úy chẳng biết phải trả lời ra sao nên chỉ ngồi im lặng. Tiết sinh gặng hỏi song Tử Úy nhất định không nói. Tiết sinh bèn giả vờ cắp bản cung từ ra về. Quẫn quá, Tử Úy đành phải thuật lại chuyện mình gặp Liên Tỏa. Nghe xong, Tiết sinh nói:"Chuyện này lạ lắm. Nhờ bạn nói với Liên Tỏa cho tôi gặp mặt một lần!" Tử Úy đáp:"Tôi đã hứa với nàng là sẽ chẳng nói chuyện tôi gặp nàng cho ai biết! Xin bạn đừng ép!" Tiết sinh năn nỉ: "Nghe chuyện, tôi ngưỡng mộ nàng lắm! Vì thế tôi mới nảy ý muốn xin gặp mặt một lần! Ngoài ra, tôi chẳng có ý gì khác!" Bất đắc dĩ, Tử Úy phải nhận lời. Tiết sinh bèn trả lại bản cung từ, hẹn:"Sáng mai, tôi sẽ trở lại!" rồi cáo biệt. Tối ấy, khi Liên Tỏa tới, Tử Úy thuật lại chuyện Tiết sinh yêu cầu. Nghe xong, Liên Tỏa giận lắm, nói: "Hôm nọ đã căn dặn thế nào, mà hôm nay lại đi tiết lộ cho người khác biết?" Tử Úy bèn đem tình trạng cùng quẫn của mình ra để biện bạch. Nghe xong, Liên Tỏa thở dài, nói: "Thế là đôi ta đã hết duyên nợ với nhau rồi!" Tử Úy bèn năn nỉ, giải thích, xin lỗi cả trăm lần song Liên Tỏa vẫn chẳng vui. Lát sau, Liên Tỏa đứng dậy, nói:"Thôi, thiếp đi đây! Phải tạm lánh người bạn của chàng một thời gian đã!" Nói xong, biến mất.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/liu%20trai.jpg

Ðúng hẹn, sáng sau Tiết sinh trở lại. Tử Úy nói: "Tôi đã nói giùm bạn rồi song Liên Tỏa chẳng chịu!" Tiết sinh nói:"Tôi nghi là bạn nói dối quá!" Tử Úy bất bình, nói: "Tôi nói thực, còn tin hay không là tùy bạn!" Tiết sinh bèn cáo biệt. Tối ấy, Tiết sinh trở lại nhà Tử Úy, dắt theo hai bạn nho sinh khác, một người họ Vương, một người họ Phùng, cùng tới nằm lỳ ở nhà Tử Úy như bộ ba ăn vạ, nói chuyện ồn ào suốt đêm, cố ý không cho Tử Úy ngủ, để chờ gặp Liên Tỏa. Thế nhưng, trong ba đêm liền, chẳng thấy Liên Tỏa đâu. Bộ ba chán nản, bèn bàn tính với nhau chỉ ở lại thêm một đêm nữa rồi sẽ ra về.
Tối ấy, vào khoảng canh hai, khi bộ ba sắp đi ngủ thì bỗng nghe có tiếng ngâm thơ ai oán thê lương từ ngoài hàng rào vọng vào. Vốn tính hung hãn, Vương sinh chạy ra sân nhặt một viên đá ném qua hàng rào, quát: "Làm bộ chẳng thèm tiếp chuyện ai, sao bây giờ lại tới đây mà ngâm thơ ư ử?" Lập tức, tiếng ngâm im bặt. Bộ ba bực tức với Liên Tỏa còn Tử Úy thì bực tức với bộ ba, nỗi bực tức hiện rõ trên nét mặt cũng như trong lời nói. Thấy thế, bộ ba bèn rủ nhau đi ngủ.
Sáng sau, bộ ba cáo biệt. Tử Úy hững hờ tiễn ra cổng. Bộ ba về rồi, Tử Úy lại cảm thấy vô cùng trống rỗng, chỉ cầu mong Liên Tỏa trở lại với mình. Tối ấy, Tử Úy thức chờ Liên Tỏa suốt đêm song chẳng thấy Liên Tỏa đâu.

Hai tối sau. Trong lúc Tử Úy đang buồn rầu thất vọng, ngồi gục đầu trên bàn, bỗng thấy Liên Tỏa đẩy cửa bước vào phòng. Tử Úy mừng quá, vội đứng dậy, chạy ra đón. Liên Tỏa ôm mặt khóc, nói:"Bạn bè chàng hung hãn quá, chỉ muốn bắt nạt thiếp thôi!" Tử Úy nói: "Xin nàng thứ lỗi cho ta! Hãy ngồi xuống đây cho ta phân trần!" Ðáp:"Chàng chẳng cần phải phân trần làm chi nữa! Thiếp chỉ đến để chào vĩnh biệt chàng thôi!" Nói:"Thì hãy ngồi xuống đây đã!" Ðáp: "Ðã nói đôi ta hết duyên nợ với nhau rồi mà! Thôi, từ nay xin vĩnh biệt!" Tử Úy toan lên tiếng năn nỉ thì thấy Liên Tỏa đã biến mất.

Bẵng đi hơn một tháng, chẳng thấy Liên Tỏa trở lại, Tử Úy nhớ lắm, gày dộc hẳn đi, song cũng chẳng biết phải làm thế nào. Một tối, Tử Úy buồn quá, lấy rượu ra ngồi độc ẩm. Chợt thấy có người đẩy cửa bước vào phòng, Tử Úy đưa mắt nhìn thì thấy là Liên Tỏa. Tử Úy mừng quá, vội hỏi: "Phải chăng là nàng đã thứ lỗi cho ta?" Liên Tỏa chẳng đáp, chỉ ứa nước mắt khóc. Tử Úy hỏi: "Sao lại khóc?" Liên Tỏa mấp máy môi toan nói song lại thôi. Tử Úy hỏi: "Toan nói gì rồi lại thôi?" Liên Tỏa nuốt nước mắt, đáp: "Thiếp tức giận chàng nên đã bỏ đi, quyết tâm chẳng bao giờ trở lại! Song, tối nay có việc gấp, lại phải tới đây nhờ chàng nên chẳng khỏi ngượng ngùng!" Tử Úy hỏi: "Việc gì mà gấp thế?" Liên Tỏa vẫn ngập ngừng chưa chịu nói. Tử Úy giục: "Có việc gì thì nói ra đi, ta sẽ tận tình giúp đỡ cho!" Bấy giờ Liên Tỏa mới nói: "Tối qua, tự nhiên có một con quỷ tục tằn bẩn thỉu, chẳng biết lai lịch ở đâu, tới bắt thiếp phải đi theo nó để làm vợ. Thiếp nghĩ mình là con nhà gia giáo nên quyết tâm chẳng chịu, nhưng cũng biết mình là kẻ yếu đuối, chẳng thể chống cự được với nó nên mới tìm kế hoãn binh, xin nó cho hai ngày để thu xếp. Nó ưng thuận, hẹn tối mai sẽ tới đón. Vì trộm nghĩ đôi ta đã thân mật như vợ chồng nên tối nay thiếp mới tới đây để nhờ chàng diệt trừ nó giùm thiếp!" Thoạt nghe, uất khí trào lên cổ, Tử Úy nói ngay: "Ta thề là sẽ giết chết nó cho nàng!" Nói xong, như chợt nghĩ ra điều gì, Tử Úy lại nói: "Thế nhưng, nó với ta, âm dương đôi ngả, làm sao mà ta có thể giết nó được?" Liên Tỏa đáp: "Chàng chớ lo về việc này! Thiếp đã có cách!" Tử Úy hỏi: "Cách nào?" Liên Tỏa đáp: "Tối mai thiếp sẽ nói, bây giờ xin đừng hỏi! Chỉ cần tối mai chàng đi ngủ sớm là được rồi!" Tử Úy thắc mắc lắm song cũng đành gật đầu. Liên Tỏa bèn ngồi lại đàm luận văn thơ với Tử Úy cho tới rạng đông mới đứng dậy ra về. Trước khi đi, Liên Tỏa còn dặn: "Tối mai, xin chàng nhớ đi ngủ sớm!" Tử Úy lại gật đầu.

Tối sau, Tử Úy mặc sẵn quần áo rồi lấy rượu đem vào phòng ngồi độc ẩm. Khi đã ngà ngà say, Tử Úy cứ để nguyên quần áo, lên giường nằm. Chợt thấy Liên Tỏa đẩy cửa bước vào, tiến tới cạnh giường, trao cho mình một bội đao, Tử Úy vội vùng dậy để đỡ. Chú mục nhìn thì thấy bội đao dài hơn thước, chuôi có nạm minh châu. Tử Úy chưa kịp hỏi chuyện thì Liên Tỏa đã nắm lấy tay, kéo ra khỏi phòng, chạy nhanh như gió.

Lát sau, tới một ngôi nhà, Liên Tỏa đẩy cửa, kéo Tử Úy vào, rồi đóng sập lại, cài then thật kỹ. Tử Úy hỏi: "Nhà này của ai?" Liên Tỏa đáp: "Của thiếp!" Vừa đáp xong thì bỗng có tiếng đập cửa ầm ầm. Liên Tỏa tái mặt, nói: "Con quỷ tới rồi đó!" Tử Úy vội nắm chắc bội đao trong tay, chạy ra mở cửa, phóng mình ra sân. Thấy một con quỷ, đầu đội mũ đỏ, mình mặc áo xanh, đứng ở giữa sân, Tử Úy liền quát: "Loài quỷ tục tằn bẩn thỉu kia, mi ở đâu mà dám tới đây quấy nhiễu?" Con quỷ tức giận, trừng mắt nhìn Tử Úy, quát lại: "Cái thằng khốn nạn này! Mi ở đâu mà dám tới đây xen vào chuyện của tao?" Tử Úy nổi giận, múa tít bội đao, xông vào loạn trảm. Con quỷ bèn cúi xuống nhặt một viên đá, ném Tử Úy, trúng cổ tay, làm thanh bội đao suýt bị văng đi. Liên Tỏa ở trong nhà nhìn qua cửa sổ, thấy Tử Úy bị lâm nguy thì kinh hãi quá, vội chạy tới ngồi bệt ở góc phòng, co rúm người lại. Trong cơn nguy cấp, Tử Úy chợt thấy một thợ săn ở đằng xa, vội hét lớn:"Cứu tôi với! Cứu tôi với!" Thợ săn phóng mình chạy tới. Con quỷ lại cúi xuống nhặt một viên đá, ném thợ săn, nhưng không trúng. Thợ săn bèn giương cung bắn quỷ, mũi tên cắm phập vào bắp vế, làm quỷ ngã lăn xuống đất. Thợ săn vội bắn bồi một mũi nữa, xuyên qua sọ, làm quỷ chết ngay.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/tng%20qun%20x%20tin.jpg

Tử Úy mừng quá, chạy tới gần thợ săn để cám ơn thì chợt nhận ra thợ săn chính là Vương sinh. Vương sinh cũng nhận ra Tử Úy. Hai người cùng kinh ngạc. Vương sinh hỏi: "Bạn đi đâu mà lại tới đây?" Tử Úy đáp: "Liên Tỏa nhờ tôi tới đây để diệt trừ con quỷ giùm nàng song tôi bị nó lấy đá ném trúng cổ tay. Ðang bị lâm nguy thì may được bạn tới cứu! Xin cám ơn bạn nhiều! Ðây là nhà của Liên Tỏa! Vậy xin mời bạn hãy vào nhà nói chuyện một lát đã!" Vương sinh mừng lắm, nghĩ bụng mình vừa giết được con quỷ để cứu Tử Úy và Liên Tỏa thì chắc là đã chuộc được cái lỗi ném đá và quát thét trước kia. Vì thế, Vương sinh theo Tử Úy vào nhà. Thấy Liên Tỏa ngồi ở góc phòng Vương sinh gật đầu chào. Vì còn hồi hộp, Liên Tỏa chỉ khẽ gật đầu đáp lễ. Tử Úy đặt bội đao lên bàn. Vương sinh thấy bội đao lạ, bèn tới cầm lên coi. Thấy bội đao sáng quắc và nhọn hoắt, Vương sinh cứ tấm tắc khen: "Bội đao này đẹp quá! Bội đao này tốt quá!" Vương sinh cầm bội đao ngắm nghía hồi lâu rồi mới đặt trở lại bàn, hỏi: "Bạn lấy bội đao này ở đâu ra?" Tử Úy đáp: "Bội đao này là của Liên Tỏa trao cho tôi để diệt trừ con quỷ chứ chẳng phải là của tôi! Nay bạn đã giết được con quỷ giùm tôi rồi thì tôi chẳng còn phải dùng tới bội đao này nữa! Vì thế, bây giờ tôi đem trả lại cho nàng!" Thấy chẳng còn chuyện gì, Vương sinh bèn nói: "Thôi, tôi về đây!" rồi quay về phía góc phòng, gật đầu chào Liên Tỏa. Liên Tỏa cũng gật đầu đáp lễ. Vương sinh liền mở cửa, bước ra khỏi nhà. Thấy Vương sinh ra về, Tử Úy cũng muốn về theo nên quay nhìn Liên Tỏa, nói: "Thôi, ta cũng về đây!" Liên Tỏa chưa kịp đáp thì Tử Úy đã phóng mình chạy theo Vương sinh. Vì chạy nhanh quá, Tử Úy vấp phải đá rồi tỉnh giấc, biết là mình nằm chiêm bao.

Còn nữa...

doancongtu
30-09-2013, 10:28 PM
Liên Tỏa Truyện

Tiếp theo...


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Thanh_Ngu/hi_su/gi%20bo%20ngc%201.jpg

Thấy cổ tay đau nhức, Tử Úy kinh ngạc lắm, cứ thắc mắc chẳng lẽ chuyện mình bị ném đá trong mộng lại là chuyện có thực hay sao? Sáng ra, coi kỹ lại thì quả nhiên thấy cổ tay mình đã bị sưng vù.

Trưa ấy, Tử Úy thấy Vương sinh tới thăm mình thì càng kinh ngạc. Vương sinh bước vào phòng khách, nói: "Ðêm qua tôi nằm mộng thấy một chuyện lạ!" Tử Úy hỏi: "Có phải là chuyện đã dùng cung tên bắn chết một con quỷ hay không?" Vương sinh cực kỳ kinh hãi, hỏi: "Sao bạn biết?" Tử Úy bèn chìa cổ tay ra cho coi, rồi thuật lại giấc mộng cho nghe. Nghe xong, Vương sinh nói: "Tôi cũng nằm mộng thấy như thế!" Hai người cùng hết sức kinh nghi. Vì nhớ rõ nhan sắc của Liên Tỏa trong giấc mộng nên Vương sinh nói: "Nhờ bạn làm ơn nói với Liên Tỏa cho tôi được gặp mặt nàng một lần nữa!" Tử Úy đáp: "Ðược! Ðể rồi tôi sẽ nói cho!"

Tối ấy, Liên Tỏa tới, nói: "Cám ơn chàng đã diệt trừ được con quỷ cho thiếp!" Tử Úy nói: "Ðó là công của Vương huynh chứ có phải là công của ta đâu! Vương huynh muốn được gặp mặt nàng một lần nữa đó!" Ðáp: "Vương huynh đã cứu mạng thiếp, thiếp chẳng dám quên ơn! Tuy nhiên, vì Vương huynh hung hãn quá nên thiếp kinh hãi lắm, chẳng dám gặp lại nữa! Thiếp thấy Vương huynh thích bội đao của thiếp nên thiếp muốn nhờ chàng đem bội đao ấy biếu Vương huynh giùm thiếp để tạ ơn!" Hỏi: "Nàng lấy bội đao ấy ở đâu ra?" Ðáp: "Nguyên bội đao ấy là của gia phụ mua ở đất Việt với giá trên trăm lượng vàng. Thiếp thấy bội đao thì thích, cứ đòi xem. Gia phụ thấy thế bèn cho thiếp. Thiếp thuê thợ nạm minh châu trên chuôi và quấn kim tuyến chung quanh cho đẹp. Khi thiếp qua đời, gia phụ thương thiếp quá nên sai gia nhân chôn bội đao cùng với thi thể thiếp. Nay thiếp xin tình nguyện dứt tình với bội đao để đền ơn cứu mạng của Vương huynh. Vương huynh có bội đao thì cũng như đã gặp mặt thiếp một lần nữa rồi!"

Hôm sau, Vương sinh tới. Tử Úy thuật lại ý của Liên Tỏa. Nghe xong, Vương sinh tỏ vẻ buồn vì chẳng được gặp lại Liên Tỏa song cũng mừng vì sắp được biếu bội đao. Tối ấy, quả nhiên Liên Tỏa đem bội đao tới trao cho Tử Úy, nói: "Chàng nhớ dặn Vương huynh giữ gìn bội đao này cho cẩn thận! Nó chẳng phải là vật tầm thường đâu! Ở Trung Quốc chẳng có ai chế tạo được loại bội đao này cả!" Hôm sau, Vương sinh tới. Tử Úy đem bội đao ra biếu giùm. Vương sinh thích lắm, gửi lời cám ơn Liên Tỏa rồi cầm bội đao ra về.

Từ đó, Liên Tỏa lại lui tới với Tử Úy như trước. Ba tháng sau. Một tối, Liên Tỏa đang ngồi đàm luận văn thơ với Tử Úy thì bỗng đôi má ửng hồng, đôi mắt cứ nhìn Tử Úy chằm chặp, đôi môi mấp máy tựa hồ như muốn nói điều gì rồi lại thôi. Tử Úy lấy làm lạ, hỏi: "Nàng muốn nói điều gì, sao chẳng nói ra?" Liên Tỏa đáp: "Bấy lâu nay thiếp đội ơn chàng quyến luyến nên đã tiếp thụ được sinh khí. Vì thế, bây giờ thiếp muốn sống lại. Tuy nhiên, muốn sống lại thì phải ân ái với nam nhân trần thế để có tinh huyết của người sống!" Tử Úy cười, nói:"Tưởng chuyện gì khó chứ chuyện ấy thì dễ quá mà! Trước kia ta đã đề nghị với nàng mà nàng chẳng chịu chứ có phải là tại ta tiếc gì nàng đâu!" Liên Tỏa càng ửng hồng đôi má, nói: "Thế nhưng nếu chàng chịu làm như vậy thì chàng sẽ bị bệnh nặng đó! Tuy nhiên nếu chàng chịu khó uống thuốc thì chỉ trên dưới mươi ngày là khỏi!" Tử Úy liền gật đầu rồi chạy tới bồng Liên Tỏa lên giường mà ân ái. Sau cuộc mây mưa, Tử Úy tưởng là đã xong thì lại nghe thấy Liên Tỏa nói: "Chưa xong đâu! Còn phải có ba giọt máu của người sống nhỏ vào rốn nữa! Chàng có thể chịu đau một chút mà cho thiếp ba giọt máu ấy không?" Tử Úy gật đầu rồi xuống giường, đi lấy dao sắc chích vào cổ tay, nhỏ ba giọt máu vào rốn cho Liên Tỏa.

Lát sau, Liên Tỏa ngồi dậy mặc quần áo, nói: "Bây giờ thì xong rồi! Xin tạm biệt. Tối tối thiếp sẽ chẳng trở lại đây nữa!" Tử Úy hỏi: "Bao giờ thì nàng mới sống lại?" Ðáp: "Tính từ hôm nay, đúng một trăm ngày!" Hỏi: "Khi nàng sống lại thì tìm nàng ở đâu?" Ðáp: "Ở dưới mộ!" Hỏi: "Ở dưới mộ thì làm sao đón về nhà được?" Ðáp: "Ðể thiếp chỉ cách cho!" Hỏi: "Cách nào?" Ðáp: "Vào buổi chiều ngày thứ một trăm, chàng cứ dẫn gia nhân vác thuổng cuốc tới mộ thiếp. Khi thấy một đôi chim xanh bay tới đậu trên ngọn cây bên mộ rồi hót đủ bốn tiếng thì chàng phải cho gia nhân đào mộ thiếp lên ngay, đưa thiếp về nhà! Xin chàng nhớ kỹ cho một điều là sớm một chút cũng hỏng mà trễ một chút cũng chẳng xong!" Tử Úy gật đầu. Liên Tỏa bèn cáo biệt.

Mười ngày sau, quả nhiên Tử Úy lâm trọng bệnh, bụng cứ sình lên như cái trống. Tử Úy bèn sai gia nhân đi mời thày lang tới hốt thuốc cho mình. Uống thuốc xong, Tử Úy đi cầu ra phân đen như bùn. Sau đó mười ngày, quả nhiên Tử Úy khỏi bệnh. Tử Úy bèn đi mua sẵn một bộ quần áo phụ nữ với một cái chăn mới, rồi ngồi đếm ngày rất cẩn thận.

Vào sáng ngày thứ một trăm, theo đúng lời dặn, Tử Úy dẫn gia nhân vác thuổng cuốc tới mộ Liên Tỏa, đem theo bộ quần áo với cái chăn. Chờ từ sáng tới chiều, khi mặt trời đã ngả về tây, Tử Úy mới thấy một đôi chim xanh bay tới đậu trên ngọn cây cạnh mộ. Ðôi chim cất tiếng hót bốn tiếng rồi bay đi. Tử Úy mừng quá, vội giục gia nhân: "Ðược rồi đó! Hãy phạt cỏ, đào mộ lên đi!" Gia nhân vâng lời mà đào. Ðào tới quan tài thì thấy gỗ đã mục. Mở nắp ra coi thì thấy mặt mũi Liên Tỏa vẫn còn tươi như người sống. Tử Úy bèn lấy tay chà xát khắp châu thân Liên Tỏa, lấy bộ quần áo mới ra mặc cho, lấy chăn quấn kín châu thân. Rồi sai gia nhân khiêng về nhà trước, đặt lên giường, đốt lò sưởi, đắp chăn ấm.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/n%20mng.jpg
thấy có chút hơi thở nhè nhẹ, mong manh như sợi tơ...

Lát sau, Tử Úy về nhà, đưa tay sờ mũi Liên Tỏa, thì thấy có chút hơi thở nhè nhẹ, mong manh như sợi tơ. Tử Úy bèn sai gia nhân lấy nước cháo rót vào miệng. Gần sáng, Liên Tỏa sống lại. Tuần sau, Liên Tỏa sinh hoạt bình thường, chẳng khác chi người sống. Từ đó, hai người chung sống bên nhau vô cùng tương đắc. Một hôm, Liên Tỏa nói với Tử Úy: "Trên hai chục năm qua thiếp nằm dưới mộ mà bây giờ thiếp cứ tưởng như mình vừa tỉnh một giấc mơ dài!" .


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/liu%20trai%20%20ch%20d%202.jpg

--------------------------------------- Hết ---------------------------------

Đoàn Công tử, theo Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh

bach_ho
11-10-2013, 05:01 PM
Thư sinh họ Đổng

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Co_su/th%20sinh%202.jpg
Ðổng Hà Tư

Thư sinh họ Ðổng, tên tự là Hà Tư, người ở ấp Tây đất Thanh Châu. Vào tháng đông, trời gần tối, trải chăn ra giường và đốt mẻ than dưới gầm. Ðang định thắp đèn lồng thì vừa có người bạn mời đi uống rượu, bèn đóng cửa mà đi.

Ðến chỗ bạn, thấy trong bàn tiệc có một thầy lang sành xem mạch thái tố, chẩn mạch cho khắp mọi người.
Sau cùng, nhìn đến thư sinh Vương Cửu Tư và chàng Ðổng, ông thầy nói:
- Tôi xem cho người đã nhiều, chưa thấy ai có mạch lạ như hai ông; mạch thì sang mà có điểm hàn, mạch thọ mà có điểm yếu. Thật bỉ nhân chẳng dám hiểu ra sao nữa.
Mà riêng ông Ðổng lại càng lạ lắm. Mọi người cùng kinh ngạc nhao lên hỏi.
Ông lang đáp:
- Thuật của tôi chỉ biết đến đấy là cùng rồi, không dám đoán liều nữa. Chỉ xin hai ông tự mình cẩn trọng mà thôi.
Hai người mới nghe sợ lắm, sau rồi cùng nghĩ là câu nói nước đôi mơ hồ, nên bỏ qua chẳng để tâm nữa.
Nửa đêm, Ðổng ra về, thấy cửa nhà học khép hờ, ngờ quá. Trong cơn say, cố nhớ lại, tất là khi đi vội vã, quên khoá cửa. Vào phòng, chưa kịp đốt đàn lên, hãy đưa tay sờ vào trong chăn trước xem có ấm hay không. Vừa mới thọc tay vào, đụng ngay da thịt mịn màng của ai đang nằm sẵn, kinh ngạc hết sức, vội rụt tay lại. Ðốt gấp đèn lên, thì ra một cô em tuyệt mỹ, mặt sáng sủa, tuổi còn non, không khác gì thần tiên. Mừng cuống cuồng, đùa bỡn, đưa tay xuống phần dưới cơ thể, thì xù xì một nắm lông đuôi. Hốt hoảng quá định chạy, thì cô gái đã tỉnh dậy, đưa tay ra nắm lấy cánh tay hỏi:
- Chàng định đi đâu?
Ðổng càng sợ, người run lên, năn nỉ xin người tiên tha cho.
Cô gái cười, nói:
- Thấy cái gì mà cho người ta là tiên?
Ðổng đáp:
- Tôi chẳng sợ phần đầu mà sợ phần đuôi.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/ma%2012.jpg
Thấy cái gì mà cho người ta là tiên?

Cô gái lại cười bảo:
- Ðuôi đâu mà đuôi? Chàng lầm rồi.
Ðoạn cầm tay Ðổng kéo vào cho sờ lại, thì thịt ở đùi mềm mại như mỡ, chỗ xương cụt nhẵn thín.
Cô gái cười nói:
- Thế nào? Rượu say mê mẩn, chẳng biết thấy gì đâu đâu mà lại vu cho người ta như vậy?
Ðổng vốn thấy người đẹp đã thích rồi, nay hết sợ lại càng mê mẩn, nghĩ lại tự trách mình là lầm. Nhưng vẫn còn điều nghi ngờ, không hiểu nàng vì sao mà đến.
Nàng đáp:
- Chàng không nhớ cô bé tóc vàng nhà hàng xóm phía Ðông sao? Bấm đốt ngón tay, từ lúc dời đi nơi khác, đến nay đã được mười năm rồi. Lúc ấy thiếp chưa cài trâm, mà chàng cũng còn để tóc trái đào cơ đấy.
Ðổng chợt nhớ ra, hỏi:
- Thế nàng là cô Toả nhà họ Chu đấy ư?
Nàng đáp:
- Phải đấy.
Ðổng nói:
- Bây giờ nàng nói, ta mới mang máng nhớ lại. Mười năm không gặp, thế mà đã thành người yểu điệu thế này rồi đấy! Nhưng sao mà lại đến được đây?
Cô gái nói:
- Thiếp lấy phải thằng chồng đần, được đâu bốn, năm năm, cha mẹ chồng theo nhau qua đời, lại chẳng may chồng cũng vừa mới mất, còn lại một mình thiếp, bơ vơ không nơi nương tựa. Nhớ lại người quen biết thuở nhỏ chỉ còn có mình chàng, nên cố gượng tìm đến gặp. Vừa tới cổng thì trời tối, xảy lại có người đến mời chàng đi uống rượu, bèn lén nấp để đợi chàng về. Ðợi đã lâu, chân lạnh cóng, nổi cả da gà lên, nên phải nhờ cái chăn cho ấm người lên một chút, xin chớ ngờ nhau.
Ðổng mừng, cởi áo cùng ngủ, lấy làm đắc ý.
Ðược hơn một tháng, người gầy rộc hẳn đi. Người nhà lấy làm lạ, thì nói là cũng không biết tại sao. Càng lâu mặt mũi càng gầy võ. Mới đâm hoảng, vội đi tìm ông thầy chẩn mạch giỏi hồi trước, nhờ chẩn cho.
Thầy lang đáp:
- Ðây là mạch bị yêu quái ám rồi. Cái điềm chết ngày trước, nay quả đã nghiệm. Bệnh không thể làm gì được nữa.
Ðổng khóc hu hu không chịu đi. Thầy lang bất đắc dĩ phải châm cho ở tay, đốt ngải cứu cho ở rốn, rồi đem thuốc tặng cho, dặn rằng:
- Nếu có gặp ai đấy thì phải gắng mà dứt đi.
Ðổng cũng tự biết nguy hiểm. Về đến thư trai, cô gái cười cợt đứng đón. Chàng tức mình nói:
- Ðừng dan díu với nhau nữa. Tôi sắp chết rồi đây.
Nói rồi bước đi không ngoái lại.
Cô gái xấu hổ quá, cũng tức lên mà nói:
- Mày còn muốn sống nữa ư ?
Ðến đêm, Ðổng uống thuốc rồi ngủ một mình. Vừa mới chợp mắt, đã thấy giao hợp cùng cô gái, tỉnh dậy thì tinh đã xuất ra rồi. Càng sợ, bèn dời giường vào nhà trong, vợ con đốt đèn canh giữ. Nhưng vẫn mơ thấy như cũ. Lén nhòm cô gái thì không thấy đâu nữa. Ðược mấy hôm, Ðổng thổ ra hơn một đấu huyết mà chết.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/tng%20trc.jpg
Vừa mới chợp mắt, đã thấy giao hợp cùng cô gái, tỉnh dậy thì tinh đã xuất ra rồi.

Vương Cửu Tư đang ở trong phòng học, thấy một cô gái tìm đến, mê thích vì sắc đẹp nên ăn nằm cùng nàng. Hỏi ở đâu đến thì đáp:
- Thiếp là láng giềng nhà Hà Tư. Hà Tư trước thân thiết với thiếp lắm, không ngờ bị hồ mê hoặc mà chết. Cái giống yêu quái ấy thật đáng sợ. Phàm người đã đọc đến sách vở, phải nên cẩn thận đề phòng.
Vương càng phục, bèn ân ái vui vầy với nhau. Ðược vài hôm, đâm mê hoảng, gầy ốm. Chợt mộng thấy Ðổng về bảo:
- Kẻ đang cùng huynh mặn nồng là hồ đấy. Giết hại tôi rồi, nó lại còn muốn giết hại cả huynh đài nữa. Tôi đã kiện nó ở dưới Âm ty, để rửa mối hờn. Trong vòng bảy hôm, cứ đêm đêm huynh nên thắp hương ở bên ngoài phòng ngủ nhà mình đừng có quên.
Tỉnh dậy, lấy làm lạ, nói với cô gái:
- Tôi ốm lắm, e sắp bỏ thân nơi ngòi rãnh đến nơi, có người khuyên nên kiêng chuyện chung chạ.
Cô gái đáp:
- Mệnh đáng thọ, dẫu gần đàn bà vẫn sống, mệnh không thọ thì không gần đàn bà vẫn chết.
Lại ngồi kề bên mà cười đùa. Vương kìm lòng không đậu lại cùng nàng mây mưa. Xong rồi thì hối, nhưng vẫn không sao dứt hẳn được. Ðến tối, cắm hương ở trên cửa. Cô gái đến, nhổ vứt đi. Ðêm lại mộng thấy Ðổng về, trách sao làm trái lời dặn.
Ðêm hôm sau, ngầm dặn người nhà chờ lúc mình với ả ngủ rồi hãy lén đốt hương lên. Cô gái đang ở trên giường bỗng hoảng hốt nói:
- Lại đốt hương nữa đấy à?
Vương đáp:
- Không biết.
Nàng vội trở dậy tìm thấy hương bẻ dụi tắt đi, rồi trở vào nói:
- Ai xúi chàng làm như vậy?
Vương đáp:
- Có thể là đàn bà con gái trong nhà lo tôi đau ốm, tin lời thầy bói, thắp hương để trừ tà đấy thôi.
Cô gái bối rối không vui. Người nhà lén dòm thấy hương tắt, lại đốt nén khác. Cô gái chợt thở dài, bảo:
- Phúc trạch nhà chàng còn dầy thật. Tôi đã lầm lỡ giết Hà Tư rồi lại chạy đến với chàng, thật đúng là lỗi của tôi. Thiếp sắp phải cùng chàng ta đến đối chất trước toà án Âm ty. Nếu chàng không quên chút tình cũ, xin chớ làm hỏng mất cái túi da của thiếp.
Nói xong, rụt rè bước xuống giường, ngã lăn ra đất mà chết.
Ðốt lửa soi, đã thành một con chồn. Còn sợ nó sống lại, vội gọi người nhà lột da, treo lên.
Bệnh Vương rất nặng, thấy hồ hiện về nói:
- Tôi đã kêu oan ở pháp toà. Pháp toà bảo chàng Ðổng thấy gái mà mê, chết là đáng tội. Nhưng cũng buộc tội thiếp mê hoặc người không đúng, thu mất viên kim đan, rồi lại cho sống lại. Vậy bộ da của thiếp ở đâu ?


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/chn%20tinh.jpg
Tội thiếp mê hoặc người không đúng, thu mất viên kim đan, rồi lại cho sống lại.

Ðáp:
- Người nhà không biết đã đem lột mất rồi.
Hồ thảm đạm nói rằng:
- Ta giết người đã nhiều, nay chết kể cũng đã muộn. Nhưng chàng thật nhẫn tâm thay!
Hờn giận mà bỏ đi.
Vương ốm tưởng nguy, nửa năm mới khỏi.

--------------------------------------------

fangzi
14-10-2013, 01:57 PM
Tá Quan Vi Xa

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Vui_qua_vui/Quan_tai/quan%20ti%20.jpg

Trương Nguyên Công người Thiệu Hưng, mở cửa hiệu bán vải ở Xương Môn. Mời Tôn Mỗ người Thiểm Tây làm Kinh lý, tính thành thật cẩn thận mà chăm chỉ, buôn bán gì tính ra cũng lãi ba phần, vì thế chủ khách rất tương đắc. Trong mươi năm, giúp Trương có được gia tư mười vạn lượng. Mấy lần xin về nhà, Trương cố giữ lại không cho. Tôn giận lắm nói “Nếu ta chết cũng không cho về à?”. Trương cười nói “Nếu đúng là chết thì ta đích thân đưa ông về, ba bốn ngàn dặm cũng không nề hà”.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Vui_qua_vui/Xua_that_xua/th%20m%204.jpg
Nếu đúng là chết thì ta đích thân đưa ông về...

Được hơn một năm, bỗng nhiên Tôn bị bệnh nặng, Trương tới cạnh giường hỏi chuyện hậu sự, đáp “Nhà ta ở cạnh lầu chuông huyện Trường An, Thiểm Tây, có hai con trai hiện đang ở nhà. Nếu nghĩ tới tình nghĩa trước đây thì xin chở quan tài về giúp”, kế tắt hơi. Trương khóc lớn, hối hận trước đây chơi ác giữ lại, lại nghĩ gia tư mười vạn đếu là nhờ sức Tôn giúp mới có được sao lại nuốt lời không đưa Tôn về. Bèn sắm lễ vật ngàn vàng, đích thân đưa quan tài tới Trường An.
Gõ cửa gặp con lớn của Tôn, Trương kể lại nguyên do Tôn ông bệnh mất, lại khóc ròng. Đứa con nghe nói cha chết mặt vẫn tỉnh bơ, không tỏ ra đau thương, không mặc áo tang lại còn thản nhiên gọi người nhà đến, nói “linh cửu của cha đã về, cứ đặt ở cạnh sảnh”. Trương hoảng sợ không biết nói gì. Trong khoảnh khắc, đứa con thứ ra, cảm tạ Trương mấy câu rồi cũng cứ nghênh ngang như thường. Trương cho rằng hai đứa con của họ Tôn không phải là người, chẳng nhẽ người tốt như Tôn Mỗ lại đẻ ra hai đứa con như cầm thú thế này sao?


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Vui_qua_vui/Xua_that_xua/xe%20nga%2010.jpg

Còn đang hoảng sợ than thở thì nghe người mẹ ở trong nói vọng ra “Chủ hàng từ xa tới, có đói bụng không? Ta đã chuẩn bị cơm rượu, tiếc là không có ai bồi tiếp, làm sao bây giờ?”. Hai đứa con nói “Trương tiên sinh là bậc phụ chấp, bọn nhỏ như chúng con không dám bồi tiếp”. Người mẹ nói “Vậy thì không phải cha các ngươi thì không xong”. Nói xong bèn sai hai con bày mâm bát dọn rượu, mình thì cầm búa lớn ra chẻ quan tài, mắng “Đã về toiwí nhà còn giả ngây ngô à ?”. Người chết cười rộ, mở nắp quan tài đứng lên vái lạy Trương, nói “Ông đúng là có phong thái người xưa, đưa ta về thật, chết cũng không nuốt lời”. Trương hỏi “Sao lại giảo hoạt như thế?”. Nói “Ta mà không chết, ông có chịu đưa ta về không? Và lại, xe ngựa nhọc nhằn, chẳng bằng nằm trong quan tài cho nhàn nhã”. Trương nói “Ông đã khỏi bệnh lại về Tô Châu chứ?” Đáp “Số mạng ông chỉ có tư gia mười vạn lượng, cho dù ta trở lại cũng không có thêm được đâu”. Nói rồi lưu Trương ở lại mấy ngày.

Rốt lại, không biết Tôn là người như thế nào.

thanh_long
19-10-2013, 11:40 PM
Thư Sinh Họ Diệp

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0071.jpg

Miền Hoài Hương có chàng thư sinh họ Diệp, không rõ cả tên và tự. Văn chương từ phú trội nhất đương thời, nhưng đến đâu cũng lận đận, long đong khốn khổ mãi trong trường công danh. Gặp lúc ông Ðinh Thừa Hạc, người Ðông Quan, đến làm quan ở ấp ấy, xem văn chương của chàng, cho là kỳ tài, bèn mời đến đàm đạo. Ông rất bằng lòng, cho chàng đến ở trong dinh thự, cơm nước đèn sách, cấp cho đầy đủ, thỉnh thoảng lại gửi tiền thóc về giúp đỡ gia quyến nữa. Ðến kỳ sơ thí, ông hết sức tán dương văn tài của chàng trước mặt quan học sử, rồi đó chàng đỗ đầu hàng xứ. Ông trông mong vào chàng rất tha thiết; sau khi vào trường thi Hương, cho lấy văn của chàng để xem và đọc vừa gõ bàn đánh nhịp, ngợi khen không ngớt. Ngờ đâu thời vận neo người, văn chương ghen mệnh, bảng đã treo, lại hỏng tuột. Chàng trở về, choáng váng tê mê, trong lòng lại thẹn là mình đã phụ người tri kỷ, thân hình gầy ruộc như bộ xương còn đứng, người ngây ra như khúc gỗ. Ông nghe tin, cho mời đến an ủi. Chàng rơi lụy dầm dề. Ông rất thương tình, hẹn đến khi nào mãn kỳ khảo tích về kinh thì đem chàng cùng đi. Chàng rất cảm kích cáo từ ra về , từ đấy đóng cửa không đi đâu nữa.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/tap_luc_truyen/Ngu_thuong/hiu%2022.jpg

Chẳng bao lâu chàng lâm bệnh, ông luôn luôn hỏi thăm và đưa quà, nhưng thuốc uống đã trăm thang mà vẫn không công hiệu. Vừa lúc ấy ông lại có điều xúc phạm đến quan trên, bị cất chức, sắp về nhà, viết thư cho chàng, đại lược nói rằng: "Tôi nay mai về Ðông, mà sở dĩ còn chần chừ chưa đi ngay, là chỉ vì muốn chờ túc hạ đi đó thôi. Túc hạ đến buổi sáng, thì buổi chiều là tôi khởi hành...". Thư đưa đến bên giường nằm, chàng cầm xem khóc sụt sùi, rồi nhắn sứ giả về nói là đang bị bệnh nặng, khó bình phục ngay được, xin cứ đi trước. Sứ giả về bẩm, ông không nỡ đi, ráng ở lại chờ.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/tap_luc_truyen/Ngu_thuong/bnh%20trng.jpg

Qua mấy hôm, người canh cổng báo có chàng họ Diệp đến, ông mừng quá, ra đón mà hỏi han. Chàng nói:

- Vì cái bệnh của thân hèn để đại nhân phải chờ đợi lâu, lòng này thật áy náy không yên. Nay, may đã có thể ráng theo kịp dấu giày chân ngựa.

Ông bèn gói buộc hành trang lại, để dậy sớm ra đi. Chẳng mấy ngày đã về đến làng, ông cho con thụ giáo với chàng, đêm ngày ở liền bên cạnh. Cậu con tên là Tái Xương lúc bấy giờ mới mười sáu tuổi, chưa biết làm văn chương nhưng thông minh lắm, phàm văn bài cử nghiệp, xem qua hai ba lần thì không quên nữa. Ở được một năm, cậu đã hạ bút thành văn, nhờ có thêm thế lực của ông, bèn được nhận vào nhà học của huyện. Chàng bàn chép lại những bài văn cử nghiệp đã làm lúc bình thời đem hết cho công tử học.

Vào trường thi, bảy đầu đề không sai đề nào, công tử liền đậu á khôi. Một hôm ông bảo chàng rằng:

- Túc hạ chỉ vứt ra một mối tơ thừa mà cũng đủ làm cho thằng trẻ nên đanh, nhưng còn quả chuông vàng kia cứ bị bỏ rơi mãi thì làm thế nào?

Chàng nói:

- Ðiều đó e rằng có mệnh. Tôi mượn cái phúc trạch của đại nhân để hà hơi cho văn chương, khiến người thiên hạ biết rằng nửa đời luân lạc không phải vì kém tài đánh trận, như thế là thỏa nguyện rồi. Vả chăng kẻ sĩ mà được một người biết, đã đủ không ân hận nữa, cần gì phải đỗ đạt mới đắc chí?

Ông thấy chàng xa nhà đã lâu, sợ nhỡ mất kỳ sát hạch năm, khuyên chàng nên về thăm nhà. Chàng rầu rĩ không vui. Ông cũng không nỡ ép, bèn dặn công tử khi đến kinh đô thì nạp thóc hộ chàng, công tử lại giật giải Nam Cung được bổ chức Chủ sự trong bộ, đem chàng vào Giám sớm tối gần nhau. Qua một năm, chàng vào trường thi Hương ở kinh, đỗ Cử nhân. Vừa lúc ông được bổ đi coi thi ở Hà Nam bàn nhân tiện nói với chàng rằng:

- Chuyến đi này không xa quê hương tiên sinh là mấy. Nay hãy nhẹ bước đường mây, tiên sinh cũng nên một phen về làng cho được khoái chí.

Chàng cũng mừng. Rồi chọn ngày tốt lên đường. Ðến địa giới Hoài Dương, công tử cho người và ngựa đưa chàng về. Ðến nhà thấy cổng ngõ tiêu điều, chàng chạnh lòng buồn bã lững thững đi vào sân. Người vợ cầm nong nia đi ra, thấy chàng thì vứt xuống sợ hãi bỏ chạy. Chàng rẫu rĩ mà nói:

- Ta bây giờ đã nên danh phận rồi. Mới ba bốn năm không thấy mặt, sao bổng như không quen biết nhau vậy?

Người vợ đứng xa mà bảo rằng:

- Chàng chết đã lâu, còn nói nên danh nên phận gì nữa? Sở dĩ còn để mãi linh cữu trong nhà, là vì nhà nghèo con bé đó mà thôi! Nay thằng cả đã khôn lớn, cũng đang tìm một ngôi đất để đưa chàng ra. Chớ nên hiện về làm gở để quấy người sống.

Chàng nghe nói thì bùi ngùi rũ rượi, bèn lững thững đi vào trong nhà, thấy linh cữu rành rành, liền ngã ra giữa đất mà biến mất. Người vợ kinh hãi nhìn xuống thấy áo mũ giày tất bỏ đấy, như cái xác lột. Nàng mũi lòng quá, ôm xống áo khóc lóc. Người con đi học về, thấy một cỗ xe ngựa buộc ở trước thì dò hỏi xem ở đâu đến, rồi kinh hãi chạy vào báo với mẹ. Mẹ gạt nước mắt kể lại chuyện vừa xảy ra. Lại hỏi kỹ những người theo hầu mới biết rõ đầu đuôi.

Người theo hầu trở về, công tử nghe tin nước mắt rơi ướt cả ngực, lập tức lên xe, đến tận nhà mà khóc, rồi bỏ tiền lo liệu việc tang, chôn cất theo lệ hiếu liêm.
Lại chu cấp rất hậu cho đứa con, mời thầy về dạy và gửi gắm cho quan học sứ, hơn một năm sau được vào nhà học phán./.

thieugia
25-10-2013, 03:19 PM
Cừu Ðại Nương


Mẫu gia dĩ đãng cánh trùng hưng

A phụ sinh hoàn hỉ cánh tăng

Tân điển điền viên từ bất thụ

Đại nương khởi đãn thiện tài năng

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Dong_chu/triu%20ai.jpg
Thiệu Thị...

Làng Ninh Trực, huyện Tấn Dương, tỉnh Sơn Tây, có người họ Cừu, tên Trọng, nhà rất giàu, có vợ họ Diêu. Diêu thị sanh một gái, tên Đại Nương, tính nết cứng cỏi. Năm Đại Nương 16 tuổi, cha mẹ gả cho một thanh niên họ Đặng, quê ở làng Thượng Các, tỉnh Sơn Đông. Vì lấy chồng xa nên mỗi năm Đại Nương chỉ về thăm cha mẹ có một lần. Mỗi lần về, thấy cha mẹ chẳng chiều mình như ý muốn, Đại Nương tỏ vẻ bất mãn, vùng vằng ra về, khiến cha ghét lắm. Từ đó, phần vì bị cha ghét bỏ, phần vì đường xá xa xôi nên ba năm sau, Đại Nương mới lại về thăm cha mẹ. Năm ấy, Diêu thị bị bạo bệnh mà mất. Hết tang vợ, Cừu Trọng cưới vợ kế, người họ Thiệu, nhan sắc mặn mà. Trong 2 năm, Thiệu thị sanh 2 trai, là Cừu Phúc và Cừu Lộc. Ở Thượng Các, Đại Nương cũng sanh trai là Đặng Thái.

Năm Cừu Phúc lên 6, ở Sơn Tây, giặc giã nổi lên, bắt nhiều tráng đinh đi theo để phục dịch và chăn ngựa cho chúng. Cừu Trọng cũng bị bắt. Thiệu thị vật vã khóc than, phải một mình nuôi dạy hai con. Vì được chồng chỉ cho biết chỗ chôn giấu tài sản từ khi mới về nên Thiệu thị vẫn còn tiền để nuôi gia đình. Tuy nhiên, vì vắng chồng nên Thiệu thị thường bị bọn cường hào trong làng chèn ép, ăn chẳng ngon, ngủ chẳng yên.

Ba năm sau. Thấy Cừu Trọng không được giặc thả về, người chú ruột của Cừu Trọng là Cừu Thượng Liêm muốn đoạt tài sản của cháu, bèn tới dỗ Thiệu thị cải giá, nhưng Thiệu thị nhất quyết chẳng nghe. Trong huyện, có nhà giàu họ Đinh tên Tuyên muốn mua Thiệu thị về làm nàng hầu. Biết ý Đinh Tuyên, Thượng Liêm bèn tới xin gặp, đề nghị để mình bày mưu cưỡng đoạt Thiệu thị cho. Đinh Tuyên ưng thuận, hứa rằng khi nào mình đoạt được Thiệu thị thì sẽ trả công hậu hĩ cho Thượng Liêm. Ngoài Đinh Tuyên và Thượng Liêm, không ai biết âm mưu ấy.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Dong_chu/m%20n.jpg
Cừu Đại Nương

Trong làng có kẻ vô lại, họ Ngụy tên Biền, tính tình giảo hoạt, vốn xích mích với Cừu Trọng đã từ lâu, lúc nào cũng tìm cách mưu hại gia đình Cừu Trọng. Nhân thấy Cừu Trọng bị giặc bắt đem đi, Ngụy Biền mừng lắm, phao tin là Thiệu thị lẳng lơ, dan díu buông tuồng, để làm nhục Thiệu thị. Nghe tin phao ấy, Đinh Tuyên bèn báo cho Thượng Liêm biết rằng mình không muốn đoạt Thiệu thị nữa. Bị mất mối lợi, Thượng Liêm tức lắm, loan truyền tin ấy đi khắp vùng. Bị vu oan, Thiệu thị uất ức, ngày đêm khóc lóc mà thành bệnh nặng, bị bại xuội tay chân, phải nằm liệt giường.

Bảy năm sau, Cừu Phúc 16. Thấy Thiệu thị bị bệnh nằm liệt giường, bà mai họ Hồng ở trong làng bèn tới khuyên Cừu Phúc nên lấy vợ để trong nhà có đàn bà trông coi gia vụ. Cừu Phúc ưng thuận. Hồng bà bèn đi hỏi cưới con gái tú tài Khương Dĩ Chiêm cho Cừu Phúc. Khương tú tài thuận gả, cho làm l*ễ cưới ngay. Khương thị về nhà chồng, chẳng những đảm đang được hết mọi gia vụ, khiến nhà chồng vẫn được dư dả như trước, mà còn cho được em chồng là Cừu Lộc đi học. Tuy trong lòng rất ghét và rất muốn hãm hại gia đình Cừu Trọng, nhưng ngoài mặt, Ngụy Biền vẫn làm ra vẻ thân thiện, thường mời Cừu Phúc tới nhà mình uống rượu. Vì thế, Cừu Phúc quý Ngụy Biền lắm, coi như ngưòi anh họ tâm giao.

Năm sau. Một hôm, Ngụy Biền manh tâm ly gián anh em Cừu Phúc, bèn nói với Cừu Phúc:"Bà thím thì bị bệnh, tay chân bại xuội, chẳng thể coi sóc gia vụ, còn Cừu Lộc thì chỉ ăn không ngồi rồi, chẳng chịu làm lụng chi, sao chú lại phải làm thân trâu ngựa cho Cừu Lộc? Thế rồi, mai mốt Cừu Lộc lấy vợ, chú lại phải bỏ tiền ra làm đám cưới, thật là hao tài tốn của. Mỗ thấy Cừu Lộc sẽ giàu, còn chú sẽ nghèo. Nay, mỗ có kế khiến cho Cừu Lộc sẽ nghèo còn chú sẽ giàu, chẳng hay chú có muốn nghe không?" Cừu Phúc vội hỏi:"Kế chi?" Ngụy Biền đáp:"Chia gia tài!" Nghe lời Ngụy Biền, Cừu Phúc nói với vợ. Kinh hãi quá, Khương thị gạt đi.

Hôm sau, Cừu Phúc tới nói cho Ngụy Biền hay là vợ mình chẳng thuận. Ngụy Biền bèn chê Khương thị là kẻ chẳng biết trông rộng nhìn xa, rồi xui Cừu Phúc cứ về xin mẹ chia gia tài. Nghe lời Ngụy Biền, Cừu Phúc về thưa chuyện với mẹ. Thiệu thị nổi giận, mắng chửi Cừu Phúc đủ điều. Cừu Phúc cũng nổi giận, đem hết tiền bạc trong nhà đi tiêu pha phung phí. Biết chuyện, Ngụy Biền bèn tập hợp bọn vô lại, cờ gian bạc lận, bàn kế lừa tiền của Cừu Phúc để chia nhau. Thế rồi Ngụy Biền dụ dỗ được Cừu Phúc đem hết tiền tới nhà mình đánh bạc. Tuy biết chuyện ấy nhưng vì nể chồng, Khương thị chẳng dám khuyên can. Chỉ ít lâu sau, gia đình Cừu Phúc chẳng còn gạo ăn hàng ngày. Thấy lạ, Thiệu thị tra hỏi con dâu. Khương thị đành phải thú thực mọi chuyện với mẹ chồng. Phẫn nộ với Cừu Phúc, Thiệu thị bèn chia đôi gia tài cho mỗi con một nửa. Tuy nhiên, Thiệu thị không giao văn tự nhà đất cho Cừu Phúc mà lại giao cho Khương thị cất giữ. Vì đảm đang, Khương thị vẫn xoay sở được đủ tiền nuôi sống cả gia đình.

Hay tin Thiệu thị đã chia nửa gia tài cho Cừu Phúc, bọn Ngụy Biền lại dụ dỗ cho Cừu Phúc vay tiền để đánh bạc. Chỉ vài tháng sau, nợ cờ bạc chồng chất, Cừu Phúc phải về nhà, lén mẹ và vợ, lấy hết các văn tự nhà đất, đem đi gán nợ cho bọn chúng. Sau khi trang trải nợ cũ, Cừu Phúc lại xin bọn chúng cho mình vay nợ mới để đánh bạc, những mong gỡ lại tiền thua. Biết Cừu Phúc đã khánh tận, bọn chúng từ chối. Cừu Phúc bèn đem vợ ra cầm để lấy tiền đánh bạc, nhưng chẳng kẻ nào chịu cầm Khương thị.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Co_su/cng%20sinh%206.jpg
Cừu Lộc

Hồi đó, ở Sơn Đông có kẻ trộm chẳng ai biết họ tên, bị quan quân bắt nhốt trong tỉnh ngục. Một hôm, kẻ ấy vượt ngục, trốn sang Sơn Tây, lấy họ tên là Triệu Diêm La, tới làng Ninh Trực cư ngụ. Cậy mình có chút sức mạnh và võ nghệ, Diêm La thường bắt nạt dân làng. Nhân thấy Cừu Phúc đem người vợ nhan sắc ra cầm để lấy tiền đánh bạc, Diêm La bèn đi tìm Cừu Phúc, xin bỏ tiền ra cầm Khương thị. Cừu Phúc mừng quá, liền cầm vợ để lấy tiền đánh bạc. Ba hôm sau, Cừu Phúc thua hết tiền, tay trắng về nhà, nảy ý bội ước, lánh mặt Diêm La. Diêm La bèn tới tận nhà Cừu Phúc, trừng mắt mà đòi nợ. Kinh hãi quá, Cừu Phúc năn nỉ, xin Diêm La cứ về trước, để mình dẫn vợ tới sau. Diêm La về rồi, Cừu Phúc vào nhà nói dối vợ, bảo theo mình tới nhà Diêm La, giúp mình khiêng một cái bàn mới mua về nhà. Tướng thực, Khương thị đi theo chồng. Tới nhà Diêm La, Cừu Phúc bảo vợ đứng chờ mình một lát, rồi lẻn trốn đi. Lát sau, Diêm La từ nhà trong bước ra, nói rõ đầu đuôi việc Cừu Phúc đã cầm vợ cho mình để lấy tiền đánh bạc. Khương thị bèn thét lên gào khóc, đòi tự tử. Diêm La lấy lời ngon ngọt dỗ dành, nhưng Khương thị nhất quyết chẳng nghe. Diêm La bèn dùng võ lực bức bách. Chẳng chịu khuất phục, Khương thị mắng chửi Diêm La. Nổi giận, Diêm La lấy gậy đánh Khương thị. Khương thị bèn rút trâm cài đầu, đâm cổ tự tử. Trâm xuyên qua thực quản, khiến máu chảy lênh láng. Diêm La vội lấy lụa bó cổ cho Khương thị, thầm nghĩ nếu mình cứu sống được Khương thị thì có thể Khương thị sẽ chịu lấy mình.Nghe tin Khương thị tự tử, Ngụy Biền mừng lắm, vội chạy đi báo cho Khương tú tài hay. Giận quá, Khương tú tài liền nạp 2 đon kiện lên quan tể huyện Tấn Dương. 1 đon kiện Cừu Phúc về tội bán Khương thị cho Diêm La để lấy tiền đánh bạc, và 1 đon kiện Diêm La về tội dụ dỗ cho Cừu Phúc vay tiền để cưỡng đoạt Khương thị. Quan liền sai lính đi bắt Cừu Phúc và Diêm La. Vì Cừu Phúc đã bỏ nhà trốn đi nên lính chỉ bắt được Diêm La. Quan hỏi:"Khương thị hiện ở đâu?" Diêm La đáp:"Thưa Quan, Khương thị hiện nằm dưỡng thương ở nhà tiểu nhân!" Quan bèn sai lính tới nhà Diêm La khiêng Khương thị về huyện đường. Thấy vết thương ở cổ quá nặng, quan sai lính khiêng Khương thị tới nhà Khương tú tài cho thân nhân chăm sóc. Rồi quan sai lính nọc Diêm La ra đánh đòn về tội bức bách và đánh đập Khương thị. Vốn vẫn sợ Diêm La, đám lính huyện chỉ đứng nhìn nhau, chẳng kẻ nào dám nọc Diêm La ra đánh. Lâu nay, quan vẫn nghe đồn Diêm La là kẻ hung bạo, hoành hành trong vùng, bắt nạt mọi người, nhưng quan không tin. Đến bấy giờ, thấy đám lính dưới quyền mình sợ Diêm La còn hơn sợ mình, quan mới tin lời đồn là đúng. Vì thế, quan nổi giận, quát thét đám cận vệ xúm lại đánh Diêm La. Bị đám cận vệ đánh quá tay, Diêm La lăn ra chết.

Còn nữa...

thieugia
26-10-2013, 10:49 AM
Cừu Ðại Nương


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Thanh_Ngu/dsc02560.jpg
Gia cảnh ngày càng xa sút

Từ hôm nghe tin Khương tú tài đi kiện Cừu Phúc và Diêm La, Thiệu bà uất ức, đau khổ vì con, ngày đêm than khóc, rồi thành bệnh, bỏ bê hết mọi gia vụ. Là nho sinh, Cừu Lộc chẳng biết trông coi gia vụ thay mẹ nên trong nhà vật dụng bừa bãi, công việc lộn xộn. Thấy bệnh của Thiệu thị mỗi ngày một nặng, Ngụy Biền mừng lắm, bèn nghĩ cách phá nốt nửa gia tài mà Thiệu thị đã chia cho Cừu Lộc. Nhân gặp một khách buôn ở Thượng Các sang Ninh Trực buôn bán, Ngụy Biền bèn nhắn tin cho Đại Nương biết rõ gia cảnh của Cừu Trọng, những mong Đại Nương sẽ về Ninh Trực đòi chia chác gia tài với Cừu Lộc.

Lúc bấy giờ, Đại Nương đã góa chồng, ở với đứa con trai nhỏ là Đặng Hòa, 16 tuổi, còn đứa con trai lớn là Đặng Thái thì đã có vợ và ở riêng. Ba hôm sau, quả nhiên Ngụy Biền thấy Đại Nương dắt Đặng Hòa tới ở nhà Cừu Trọng. Mừng quá, Ngụy Biền bèn lẻn vào núp ở sau tường phòng khách để nghe trộm. Đại Nương vào nhà. Thấy Cừu Lộc đang hầu Thiệu thị trong cảnh buồn thảm, Đại Nương cũng buồn theo. Hỏi chuyện Cừu Lộc, Đại Nương được biết là Cừu Phúc đã bỏ nhà trốn đi vì bị quan tể ra lệnh bắt. Nghe xong, Đại Nương uất ức, nói:"Nhà ta không có người lớn trông coi, nên mới bị người ngoài tới lăng nhục như thế. Nhà đất của cha ta để lại đã bị bọn vô lại cướp mất một nửa. Ta quyết sẽ kiện chúng nơi quan tể, xin quan cho bắt bọn chúng để điều tra!"

Nghe Đại Nương nói, Ngụy Biền kinh hãi, vội chạy về báo tin cho đồng bọn hay. Chúng bèn bảo nhau góp tiền, đem tới nhà Cừu Trọng, đút lót Đại Nương để xin hủy việc kiện tụng. Đại Nương nhận tiền, nhưng chẳng nói chi. Khi chúng về rồi, Đại Nương vẫn viết đơn kiện, đem lên huyện đường nạp quan tể. Quan sai lính đi bắt chúng về huyện đường, tra hỏi về tội đánh bạc. Thấy chúng đều nhận tội, quan chỉ sai lính đánh mỗi tên 10 trượng, rồi thả cho về. Thấy quan tể chẳng đả động chi đến chuyện bọn vô lại đoạt nhà đất của cha mình bằng cờ gian bạc lận, Đại Nương vô cùng bất mãn.

Nghe nói quan thái thú rất ghét bọn cờ bạc, Đại Nương bèn viết một đơn kiện khác, đem lên quận đường nạp quan thái thú, lời lẽ rất bi thiết, trình bày những chuyện cờ gian bạc lận của bọn Ngụy Biền, kể lể mọi nỗi cơ khổ của gia đình cha mình (thời trước, ở Trung quốc, một quận gồm nhiều huyện) Đọc đơn kiện của Đại Nương, quan thái thú ra lệnh cho quan tể phải làm ba việc: một là bắt bọn Ngụy Biền, tống giam mỗi tên một tháng để trừng phạt về tội cờ bạc, hai là tịch thu hết nhà đất của Cừu Phúc mà bọn Ngụy Biền đã chiếm đoạt bằng cờ gian bạc lận để trả lại cho Thiệu thị, ba là trừng trị Cừu Phúc về tội cầm vợ để lấy tiền cờ bạc. Quan tể tuân hành ngay hai lệnh đầu của quan thái thú, nhưng không thể tuân hành được lệnh thứ ba vì Cừu Phúc đã bỏ nhà trốn đi, chẳng ai biết là đi đâu. Vì Thiệu thị bị bệnh nặng, quan tể bảo Đại Nương đứng ra nhận lãnh nhà đất thay cho Thiệu thị. Thấy Cừu Lộc còn nhỏ, Đại Nương bèn quyết định ở lại Ninh Trực để quản lý tài sản của cha, chăm sóc mẹ kế, dạy dỗ em út. Để tránh việc thiên hạ dị nghị mình lấy tiền của cha đem cho con, Đại Nương thuê người đưa Đặng Hòa về Thượng Các ở với anh là Đặng Thái, dặn Đặng Hòa chẳng được bén mảng tới Ninh Trực nữa. Từ đó, trong nhà Cừu Trọng, vật dụng ngăn nắp, công việc thứ tự. Thấy thế, Thiệu thị phấn khởi tinh thần, bệnh tình thuyên giảm, đem hết mọi gia vụ ủy thác cho Đại Nương. Đại Nương rất can đảm. H*ễ thấy ở trong làng, có kẻ cường hào nào còn chèn ép Thiệu thị là lập tức Đại Nương lại vác đao tới tận nhà kẻ ấy, đòi tranh luận. Vì Đại Nương có chính nghĩa, lại có tài tranh luận, nên lần nào kẻ cường hào cũng bị Đại Nương khuất phục.

Năm năm sau.

Thấy tài sản nhà mình tăng vọt, Thiệu thị ngỡ ngàng, không ngờ tài quản lý kinh doanh của Đại Nương lại giỏi đến mức ấy. Vì Đại Nương muốn nối lại liên lạc với nhà họ Khương, nên thường mua thuốc thang, quà bánh đem tới nhà Khương tú tài, xin vào thăm Khương thị mà biếu xén. Thấy Cừu Lộc đã trưởng thành, Đại Nương lại tới nhờ bà mai họ Hồng kiếm vợ cho Cừu Lộc. Thấy thế, Ngụy Biền bèn phá đám bằng cách phao tin rằng bây giờ Đại Nương đã về Ninh Trực đoạt hết tài sản của cha thì Cừu Lộc lấy tiền đâu để nuôi vợ mà đòi lập gia đình. Tuy dân chúng trong vùng không tin lời phao của Ngụy Biền, nhưng Hồng bà đi tới đâu làm mối cho Cừu Lộc cũng bị người ta từ chối.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Co_su/c%20%20sch%20ha%20.jpg

Trong vùng, có công Tử họ Phạm, tên Tử Văn, nhà rất giàu. Công tử với phu nhân và ái nữ Huệ Nương, cư ngụ trong một biệt thự rộng lớn cùng với rất đông gia nhân, tì thiếp. Trong biệt thự có nhiều loại hoa lạ rất đẹp, nổi tiếng khắp vùng Sơn Tây, được trồng dọc theo một lối đi từ vườn hoa tới cửa nội thất. Có kẻ du ngoạn, lần theo lối ấy tới thưởng hoa, đi sâu vào cửa nội thất, đúng lúc công tử đang vui đùa với đám tì thiếp, liền bị công tử thét đám gia nhân bắt trói, đánh cho đến chết. Huệ Nương vừa tới tuần cập kê, đã xinh đẹp, lại giỏi văn nhạc, vừa làm ra một nhạc khúc, song chưa tìm được những chữ thích nghi để đặt tên, chỉ gọi là khúc Hồn Bất Tự (Chưa Được Ổn) Thấy thế, công tử liền bảo Huệ Nương ra một vế xuất về nhạc khúc ấy để công tử đem đi thử tài các nho sinh, kén chồng cho con. Huệ Nương bèn ra vế xuất là Phách danh Hồn Bất Tự " (ý nói: Làm ra một nhạc khúc, chưa biết đặt tên là gì, chỉ tạm gọi là Hồn Bất Tự (Chưa Được Ổn) Công tử liền đem vế ấy ra thử tài nhiều nho sinh, nhưng chưa thấy ai đối chỉnh.

Vào tiết Thanh Minh, Huệ Nương mộng thấy có kẻ tới nói với mình:"Chồng ngươi họ Thạch tên Sùng" Huệ Nương hỏi:"Thạch Sùng ấy hiện ở đâu?" Kẻ ấy đáp:"Ngày mai Thạch Sùng ấy sẽ tới đây, té xuống nước!" Sáng ra, Huệ Nương thuật lại giấc mộng cho cha nghe. Phạm công tử chẳng tin, vì nghĩ có ai dám bén mảng tới nhà mình đâu mà té xuống nước? Hôm tiết Thanh Minh, trên đường đi học về, Cừu Lộc chợt thấy Ngụy Biền từ đằng xa chạy tới chào, rồi rủ:"Hôm nay nhằm tiết Thanh Minh, thiên hạ đi tảo mộ và thưởng hoa đông lắm. Mỗ cũng đi thưởng hoa đây. Mời chú cùng đi cho vui!" Thấy Ngụy Biền vồn vã, Cừu Lộc thuận đi theo. Ngụy Biền dẫn Cừu Lộc tới vườn hoa của Phạm công tử. Vì Ngụy Biền quen biết với kẻ giữ vườn nên hai người được vào thưởng hoa. Lòng vòng hồi lâu, Ngụy Biền dẫn Cừu Lộc tới một lạch nước, có cầu bắc ngang. Ở bên này cầu có một cái chòi, ở bên kia cầu có một biệt thự, với hàng rào bao quanh, và một chiếc cổng sơn son thiếp vàng. Ngụy Biền dẫn Cừu Lộc qua cầu. Nhìn qua chiếc cổng để ngỏ, Cừu Lộc thấy ở trong vườn có rất nhiều loài hoa lạ rất đẹp. Bỗng Ngụy Biền nói:"Chú cứ vào mà thưởng hoa trước. Mỗ đi tiểu xong, mỗ sẽ vào sau!" Cừu Lộc bèn lững thững bước qua cổng vào trong. Thấy có lối dẫn từ cổng vào sâu trong vườn, Cừu Lộc cứ bước theo lối ấy mà thưởng hoa. Khi tới gần cửa chính biệt thự, Cừu Lộc mới đứng khựng lại.

Có một tì nữ đứng ở hành lang nhìn thấy Cừu Lộc, vội chạy vào biệt thứ. Ít phút sau, Phạm công tử dắt lũ gia nhân ra vườn. Nhìn thấy Cừu Lộc, công tử giận dữ, quát:"Bắt tên kia, trói y lại!" Kinh hãi quá, Cừu Lộc co cẳng chạy. Bị lũ gia nhân đuổi theo, Cừu Lộc quẫn quá, nhảy ùm xuống lạch. Đột nhiên, công tử chuyển giận làm vui, quát lũ gia nhân:"Nhảy xuống vớt y lên, dắt tới chòi!" rồi công tử ra chòi ngồi. Lũ gia nhân dắt Cừu Lộc tới. Công tử cười, bảo chúng:"Áo quần giày dép y ướt hết rồi. Dẫn y vào phòng tắm, lấy đồ khô cho y thay, rồi dẫn ra đây!" Khi lũ gia nhân dẫn Cừu Lộc ra chòi, công tử ôn tồn hỏi:"Tú tài họ tên chi?" Cừu Lộc đáp:"Thưa công tử, tiểu sinh họ Cừu, tên Lộc" Công Tử nói:"Đứng ở đây chờ ta!" rồi bước vào biệt thự.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Thanh_Ngu/dsc02518.jpg
Thưa công tử, tiểu sinh họ Cừu, tên Lộc.

Còn nữa...

thieugia
26-10-2013, 10:08 PM
Cừu Đại Nương

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Thanh_Ngu/hi_su/phu%20the%20giao%20bi.jpg


Tiếp theo...

Nguyên là khi thấy Cừu Lộc nhảy xuống lạch, chợt nhớ đến giấc mộng của con, công tử vội quát lũ gia nhân nhảy xuống vớt lên, dắt tới chòi. Rồi công tử vào bảo phu nhân và Huệ Nương ra vườn, núp dưới hoa mà xem mặt Cừu Lộc. Lát sau, công tử ra chòi, cầm tay Cừu Lộc mà dắt qua cầu. Thấy thế, Cừu Lộc run sợ, đứng khựng lại. Công tử cười, nói:"Có chi mà sợ? Tới kia ngồi nói chuyện với ta!" Cừu Lộc đành đi theo công tử tới ngồi ở ghế đá trong vườn. Lát sau, Cừu Lộc thấy một đám tì nữ bưng ra một hồ rượu lớn cùng những đĩa sơn hào hải vị, đặt lên bàn. Công tử rót rượu, bảo Cừu Lộc đối ẩm vớimình. Rượu được vài tuần, Cừu Lộc đứng dậy, nói:"Đa tạ công tử đã tha tiểu sinh, chẳng trừng phạt về tội vô phép xâm nhập hoa viên, mà còn cho ngồi hầu rượu. Bây giờ tiểu sinh đã quá say, xin công tử cho phép được ra về" Công Tử cười rồi đứng dậy bước tới cạnh Cừu Lộc, ấn vai cho ngồi xuống ghế, nói:"Khoan đã! Ta có làm ra một khúc nhạc, song chưa nghĩ ra được những chữ thích nghi để đặt tên. Bây giờ ta ra một vế xuất về khúc nhạc ấy. Nếu đối được thì ta thả cho về!" Cừu Lộc nói:"Xin công tử cho nghe vế xuất" Công Tử bèn đọc:"Phách danh Hồn Bất Tự" Suy nghĩ hồi lâu, Cừu Lộc đối: "Ngân thành Một Nại Hà " (ý nói: Công Tử cũng giống như nhà giàu Thạch Sùng, có nhiều bạc quá, chẳng biết dùng làm chi, bèn thuê thợ đúc thành những trái cầu, mỗi trái nặng 1000 lạng, gọi là những trái Một Nại Hà (Chẳng Làm Gì)) Thấy câu đối của Cừu Lộc nói đến một điển tích về nhà giàu Thạch Sùng, công Tử phá lên cười, nói:"Đúng là Thạch Sùng đây rồi!" khiến Cừu Lộc chẳng hiểu chi. Công Tử bèn thuật cho Cừu Lộc nghe giấc mộng của con gái mình, rồi nói: "Khúc hát, tên khúc hát và vế xuất đều do gia nữ đặt ra. Ta đã bảo nhiều nho sinh đối lại, nhưng chưa thấy ai đối chỉnh. Nay tú tài đối chỉnh thì âu cũng là duyên trời. Ta muốn gả gia nữ cho tú tài để tú tài đưa về nhà, nhưng ta lại nghĩ, biệt thự của ta rộng lớn, dư chỗ cho con gái và con rể cư ngụ, nên ta muốn tú tài dọn tới đây cư ngụ, vừa tiện cho ta, vừa tránh cho tú tài khỏi phải làm lễ rước dâu" Kinh hãi quá, Cừu Lộc đáp: "Thưa công tử, lẽ ra tiểu sinh phải tuân lệnh công tử ngay, nhưng vì gia mẫu đang bị đau yếu, tiểu sinh chẳng thể đi ở rể, xin công tử tha cho" Công tử nói:"Thôi! Cứ về suy nghĩ kỹ rồi hãy trả lời ta!" Nói xong, công tử sai gia nhân gói hết áo quần giày dép ướt của Cừu Lộc, đặt lên lưng ngựa, tiễ*n Cừu Lộc về.

Vào nhà, Cừu Lộc thưa chuyện với mẹ. Thiệu thị nửa mừng nửa lo, chỉ nói: "Thực ra thì vì Ngụy Biền nham hiểm, muốn làm hại gia đình ta, nên mới xảy ra chuyện này. Chuyện dữ mà lại hóa lành, ta cũng chẳng nên oán Ngụy Biền nữa. Tuy nhiên, ta nên tuyệt giao với y" Cừu Lộc chỉ biết vâng dạ.

Ba hôm sau, công tử nhờ bà mai họ Hoàng tới hỏi ý kiến Thiệu thị về việc cho Cừu Lộc tới nhà công tử ở rể. Thiệu thị phân vân, chẳng biết nên quyết định ra sao. Thấy thế, Đại Nương góp ý:"Chăm sóc mẹ già và người bệnh thì con gái giỏi hơn con trai. Bây giờ đã có con ở đây chăm sóc mẹ thì mẹ nên để cho cậu Lộc đi ở rể" Nghe Đại Nương nói, Thiệu thị bèn trả lời cho Hoàng bà biết.

Hôm sau, Đại Nương nhờ hai bà mai là Hồng bà và Hoàng bà đem sính lễ* tới nhà Phạm công tử, xin công tử gả Huệ Nương cho Cừu Lộc. Công tử ưng thuận. Tháng sau, công tử làm l*ễ vu quy cho con gái, rồi bảo Cừu Lộc dọn tới biệt thự của mình mà cư ngụ.

Năm sau. Cừu Lộc được nhận vào học ở trường huyện, nổi tiếng tài danh. Thấy Cừu Lộc tới ở rể tại biệt thự của cha mình, con trai út của công tử là Phạm Độ, tỏ ý khinh bỉ. Bị chạm tứ ái, Cừu Lộc bèn xin phép nhạc phụ, đưa vợ về nhà. Công tử chấp thuận, rồi cho nhiều nô tì đi theo Huệ Nương tới ở hẳn tại nhà Cừu Trọng. Đại Nương bèn thuê thợ tới sửa chữa ngôi nhà của Cừu Trọng cho khang trang. Nay lại có thêm đám nô tì theo vợ chồng Cừu Lộc về cư ngụ nên phong cách gia đình Cừu Trọng chẳng khác chi phong cách đại gia.

Vì vui vẻ nên bệnh bại xuội của Thiệu thị cũng đỡ dần, rồi Thiệu thị có thể chống gậy đi lại một mình ở trong nhà. Vì lúc đó Thiệu thị đã già nên được dân làng gọi là Thiệu bà. Thấy Cừu Lộc đã có vợ, Đại Nương bèn xin Thiệu bà chia gia tài cho Cừu Phúc và Cừu Lộc. Thiệu bà ưng thuận rồi bảo Đại Nương đứng tên nhận lãnh phần chia cho Cừu Phúc. Thấy Cừu Lộc đã không bị Phạm công tử trừng phạt về tội xâm nhập hoa viên, mà còn được công tử gả con gái cho, Ngụy Biền vừa ngạc nhiên vừa tức tối, nên lại cố tìm cách khác để hãm hại nhà họ Cừu.

Nhân có một tên cướp họ Viên vượt ngục, trốn tới làng Ninh Trực cư ngụ, bị dân làng phát giác, lại phải trốn đi, Ngụy Biền bèn lên huyện đường Tấn Dương vu cáo Cừu Lộc là trùm một đảng cướp, chứa chấp tên cướp họ Viên ở trong nhà. Vốn tính hồ đồ, quan tể tin ngay lời Ngụy Biền, hạ lệnh tịch thu hết tài sản của vợ chồng Cừu Lộc, bắt hai vợ chồng phải dọn nhà ra ngoài Vạn Lý Trường Thành mà ở. May nhờ việc Đại Nương đã đứng tên nhận lãnh phần gia tài mà Thiệu bà chia cho Cừu Phúc nên Thiệu bà và Đại Nương mới được yên thân. Phạm công tử vội bỏ tiền ra chạy chọt để minh oan cho con gái và con rể, nhưng chỉ có Huệ Nương được mi*ễn tội, còn Cừu Lộc thì vẫn bị phát vãng lên quan ngoại. Cừu Lộc bèn viết giấy ly hôn với vợ, trao cho nhạc phụ, rồi một mình lên đường, đem theo lộ phí.

Cầm giấy ly hôn của con rể trong tay, Phạm công tử tìm cách gả chồng khác cho con gái. Biết chuyện, Huệ Nương không chịu, khóc lóc thảm thiết, đòi tự tử, khiến công tử phải bỏ ý định ấy.

Tuần sau, Cừu Lộc tới Bắc Đô. Đến một quán ăn, bỗng thấy một người ăn mày ngồi khất thức ở ngoài cửa, trông giống anh mình, Cừu Lộc chạy tới hỏi thăm, rồi hai anh em nhận ra nhau. Cừu Lộc bèn thuật mọi chuyện ở nhà cho anh nghe, rồi hai anh em cứ ôm nhau mà khóc. Lát sau, Cừu Lộc đi mua áo quần, giày dép mới cho anh, chia cho anh một ít tiền làm lộ phí, bảo anh trở về nhà ngay. Cừu Phúc khóc lóc, nhận tiền của em mà lên đường. Tới nhà, Cừu Phúc biết tội, chẳng dám vào, chỉ đứng ở ngoài cổng mà nói vọng vào, trình với mẹ và chị rằng mình đã về.Thiệu bà bảo Đại Nương cầm roi lên ngồi trên chiếc sập ở phòng khách, sai gia nhân ra gọi Cừu Phúc. Cừu Phúc kinh hãi, tự ý quỳ gối, chống tay xuống đất, bò từ cổng vào nhà. Đại Nương hỏi:"Mi biết tội chưa?" Cừu Phúc đáp: "Thưa chị, em biết tội rồi!" Đại Nương nói:"Bây giờ điền sản của mi đã hết, nhà này chẳng còn là nơi mà mi được quyền vào cư ngụ, mi có biết không?" Cừu Phúc đáp:"Thưa chị, em biết!" Đại Nương nói:"Bây giờ, nếu mi muốn xin vào nhà này cư ngụ thì mi phải chịu 100 roi đòn. Nếu chẳng chịu thì cút đi!" Cừu Phúc vội nằm phục xuống đất, mếu máo xin chịu đòn. Đại Nương bèn quẳng roi đi, nói:"Kẻ có tội bán vợ đâu có thể xin chịu 100 roi đòn để rửa tội? Vậy ta đánh mi làm chi? Tuy nhiên, nếu mi tái phạm thì ta sẽ lên xin quan tể xử cho!" Rồi Đại Nương sai gia nhân lấy áo quần giày dép mới cho Cừu Phúc đi tắm rửa. Sau đó, Đại Nương sai gia nhân tới nhà Khương tú tài báo tin cho Khương thị biết là Cừu Phúc đã về. Khương thị mắng: "Ta đã tuyệt liên hệ với nhà họ Cừu từ lâu rồi. Nay tới đây báo tin cho ta biết để làm chi?" Gia nhân về thuật lại. Nghe thấy thế, Đại Nương lại mắng Cừu Phúc thậm tệ. Hổ thẹn quá, Cừu Phúc chỉ cúi gầm mặt xuống, chẳng dám nói năng chi. Từ đó, Cừu Phúc bị mẹ và chị bắt phải làm việc như nô bộc. Cừu Phúc vui vẻ cam chịu, chẳng dám oán than, biết quý đồng tiền, rất mức tằn tiện, chẳng dám chi tiêu phung phí nữa.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/thy%20h%201.jpg
Cừu Phúc khóc lóc, nhận tiền của em mà lên đường về nhà.

Nửa năm sau. Thấy Cừu Phúc đã sửa tính, Đại Nương xin Thiệu bà cho mình tới nhà họ Khương mời Khương thị về.Thiệu bà nói:"Làm sao mà mời được? Chắc chắn là thị chẳng chịu về đây nữa!" Đại Nương hỏi:"Sao mẹ biết?" Thiệu bà đáp:"Vì thằng Phúc đã làm mất nhân phẩm của thị thì thị sẽ chẳng bao giờ tha tội cho y!" Đại Nương nói:"Chưa chắc đã là như thế!" Thiệu bà hỏi:"Tại sao?" Đại Nương đáp:"Vì nếu thị không tha tội cho Phúc thì thị đã cải giá từ lâu rồi!"

Hôm sau, Đại Nương dẫn Cừu Phúc tới nhà ông bà Khương, bắt phải quỳ xuống sàn lạy ông bà mà xin tạ tội. Ông bà quở trách Cừu Phúc hồi lâu. Cừu Phúc cứ cúi gầm mặt xuống mà xin nhận tội. Sau đó, Đại Nương nhờ gia nhân nhà họ Khương vào mời Khương thị ra phòng khách. Khương thị không chịu ra. Đại Nương lại nhờ thêm ba người nữa vào mời. Khương thị vẫn chẳng chịu ra. Thấy thế, Đại Nương bèn đích thân vào nắm tay Khương thị mà kéo ra. Vì nể Đại Nương, Khương thị mới chịu ra. Tới phòng khách, Khương thị chỉ mặt Cừu Phúc mà trách mắng hồi lâu. Cừu Phúc thẹn quá, mồ hôi vã ra, miệng lưỡi cứng lại, chẳng dám cãi một lời.

Thấy Cừu Phúc đã biết tội, cứ chịu quỳ mãi dưới sàn, chẳng dám đứng dậy, Khương thị cũng cảm thấy thương hại, bèn tới cầm tay kéo dậy. Đại Nương hỏi Khương thị: Bao giờ em về?" Khương thị đáp:"Vì em đã chịu ơn chị nhiều, nên nay chị bảo em về, em không dám cãi. Thế nhưng, em xin chị chấp thuận cho em một điều!" Đại Nương hỏi:"Em muốn điều chi?" Khương thị đáp:"Vì ơn nghĩa vợ chồng đã tuyệt, em chẳng còn mặt mũi nào về chung sống với anh Phúc được nữa! Có gì bảo đảm là con người ấy chẳng bán vợ lần thứ hai? Em chỉ về để phụng dượng mẹ già cho phải đạo làm dâu mà thôi! Vậy xin chị cho em được ở một phòng riêng!" Đại Nương nói đỡ cho Cừu Phúc::"Trong nửa năm qua, chị thấy Phúc đã biết hối hận rồi. Vậy xin em tha tội cho y!" Khương thị lặng im. Thấy thế, Đại Nương nói tiếp:"Vậy thì sáng mai chị sẽ xin tới đây đón em về!" Rồi Đại Nương xin cáo biệt gia đình họ Khương mà dẫn Cừu Phúc ra về.

Còn nữa...

thieugia
26-10-2013, 10:30 PM
Cừu Đại Nương

Tiếp theo và hết

Sáng sau, Đại Nương sai gia nhân giong xe ngựa cho Thiệu bà với mình và Cừu Phúc tới nhà họ Khương.Tới nơi, Thiệu bà chỉ đứng ở ngoài cổng, không chịu vào nhà. Lát sau, khi thấy Khương thị theo Đại Nương và Cừu Phúc ra xe, Thiệu bà bèn quỳ xuống đất mà vái Khương thị. Kinh hãi quá, Khương thị vội nằm mọp xuống đất mà lạy Thiệu bà, rồi mếu máo:"Mẹ vái con như thế, khiến con bị tội bất hiếu rồi!" Đại Nương bèn tới nâng cả hai người dậy, dìu lên xe, rồi hết lời giảng giải cho Khương thị nghe tại sao Thiệu bà lại vái con dâu. Về nhà, Đại Nương sai gia nhân mở tiệc ăn mừng. Trong tiệc, Đại Nương nâng chén, nói:"Chị đấu tranh vất vả, đòi lại được gia tài của cha là để cho các em chứ chẳng phải là để cho chị. Nay Phúc đã hối lỗi, em Khương đã trở về thì chị xin giao lại tất cả các văn tự nhà đất, sổ sách chi thu cho em Khương. Lúc tới, xchị tới với hai bàn tay trắng thì lúc đi, chị cũng muốn đi với hai bàn tay trắng!" Nghe thấy thế, Cừu Phúc và Khương thị cùng quỳ mọp xuống đất mà lạy Đại Nương, van Đại Nương đừng đi. Vì cảm động, Đại Nương ở lại.

Nay nói về Cừu Lộc. Khi lên đến quan ngoại (ra ngoài cửa ải Vạn Lý Trường Thành) Cừu Lộc tới trình diện Đỗ tướng quân, vị quan trị nhậm địa phương. Thấy Cừu Lộc là nho sinh yếu đuối, Đỗ tướng quân cho Cừu Lộc trông coi sổ sách doanh trại, cùng ăn ở với đám nô bộc thủ túc của mình. Thấy một thanh niên trong quan nội mới bị đày lên đây làm việc dưới trướng của tướng quân, đám nô bộc bèn xúm lại hỏi thăm tên họ, tuổi tác, quê quán và nguyên do khiến bị đi đày. Cừu Lộc cứ tình thực mà trả lời. Bỗng có một lão bộc hốt hoảng kêu lên:"Con tôi đây mà!" rồi ôm đầu khóc. Cừu Lộc hỏi thăm đám nô bộc thì được biết lão bộc ấy họ Cừu, tên Trọng, trước kia là một nhà giàu ở làng Ninh Trực tỉnh Sơn Tây.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Thanh_Ngu/trang_den/dsc02622.jpg

Nhận ra cha, Cừu Lộc bèn hỏi nguyên do khiến cha ở đây thì Cừu Trọng kể cho mọi người nghe rằng sau khi bị giặc bắt ở Sơn Tây, Cừu Trọng bị chúng đưa lên đây, giao cho việc chăn ngựa. Năm ngoái, khi đám giặc bị Đỗ tướng quân đánh dẹp, chúng bỏ chạy tán loạn. Cừu Trọng bèn xin được yết kiến tướng quân để trình bày tình cảnh. Tướng quân liền nhận Cừu Trọng làm lão bộc thủ túc của mình.

Cả đám nô bộc đều chua xót cho Cừu Trọng. Lát sau, khi đám nô bộc đã giải tán, Cừu Lộc hỏi riêng cha xem từ hồi bị giặc bắt, cha có thêm vợ con nữa hay không thì được biết Cừu Trọng có thêm hai đời vợ, nhưng nay lại ở một mình. Tháng sau, khi Đỗ tướng quân đem binh dẹp cướp thì bắt được ba chục tên, trong đó có tên cướp họ Viên mà trước kia Ngụy Biền đã vu cáo cho Cừu Lộc chứa chấp ở trong nhà. Cha con Cừu Trọng bèn xin gặp Đỗ tướng quân để trình bày nỗi oan khuất của Cừu Lộc. Đỗ tướng quân liền trình lên quan trên. Sau khi cứu xét, quan trên ra lệnh cho quan tể huyện Tấn Dương phải hoàn trả nhà họ Cừu tất cả tài sản đã tịch thu của vợ chồng Cừu Lộc. Được tin, cha con Cừu Trọng rất đỗi vui mừng. Cừu Lộc bèn xin nghỉ việc để vềquê. Đỗ tướng quân chấp thuận.

Một hôm, ở làng Ninh Trực, Đại Nương được quan tể Tấn Dương gọi lên huyện đường nhận lại tài sản cho Cừu Lộc. Cả nhà họ Cừu đều mừng, nhưng Ngụy Biền thì sợ vì chẳng hiểu tại sao quan tể lại làm như thế?

Ngụy Biền vẫn chưa chịu bỏ ý định hãm hại nhà họ Cừu. Hàng xóm phía tây nhà họ Cừu là nhà họ Ứng. Một hôm, nghe tin nhà họ Ứng bị cháy, Ngụy Biền chạy tới nơi, giả làm kẻ chữa cháy. Rình khi thấy chẳng ai để ý đến mình, Ngụy Biền bèn lấy một bùi nhùi cỏ khô đang âm ỉ, ném sang nhà họ Cừu. Lửa bốc cháy, thiêu rụi gần hết dinh cơ, chỉ còn lại có ba gian nhà cỏ của Cừu Phúc. Cả nhà họ Cừu đành phải tạm sống trong ba gian nhà ấy. Tuần sau, Cừu Lộc về tới nhà. Cả nhà cùng tay bắt mặt mừng. Nghe nói Huệ Nương chưa cải giá, Cừu Lộc mừng lắm, vội chạy tới chào nhạc gia. Biết nhà Cừu Lộc bị hỏa hoạn, Phạm công Tử bảo Cừu Lộc tới biệt thự mình tạm trú, nhưng Cừu Lộc từ chối, xin cáo biệt mà về. Thấy ngôi nhà cũ của Cừu Lộc đã bị cháy rụi, Đại Nương bèn bỏ tiền ra xây cất cho Cừu Lộc một ngôi nhà mới, trong khuôn viên cũ. Cừu Phúc cũng sang giúp em cuốc đất đắp tường bao quanh nhà. Trong khi cuốc đất, Cừu Phúc bắt gặp một chum vàng chôn ở trong vườn. Vừa mừng, vừa sợ, Cừu Phúc lẳng lặng lấp kín hố đất. Tối ấy, Cừu Phúc gọi riêng Cừu Lộc ra một nơi, kể cho nghe chuyện mình bắt gặp chum vàng chôn trong khuôn viên dinh cơ. Rồi Cừu Phúc rủ em đến nửa đêm cùng mình ra vườn mà đào vàng. Đêm ấy, hai anh em đào được đến 36 chum vàng chôn trong một hố đá, chia đôi mỗi người một nửa, nên hai anh em trở thành cự phú ở trong làng. Hai anh em bèn thuê thợ xây cất hai ngôi nhà lầu tráng lệ trong khuôn viên dinh cơ, trông tựa dinh cơ của các thế gia.

Cừu Lộc rủ anh lên quan ngoại, đem theo 1000 lạng vàng biếu Đỗ tướng quân và xin cho cha về. Cừu Phúc ưng thuận, nhưng bảo Cừu Lộc ở nhà rước vợ, để mình dẫn nô bộc lên quan ngoại đón cha về. Hôm ấy, Cừu Lộc tới nhạc gia, xin đón vợ về. Phạm công Tử chấp thuận.

Lên đến quan ngoại, Cừu Phúc đem vàng ra tạ ơn Đỗ tướng quân, xin đón cha về. Tướng quân chấp thuận. Tháng sau, Cừu Phúc cùng đám nô bộc đưa Cừu Trọng về tới nhà. Một nhà đoàn tụ vui vẻ.

Về phần Đại Nương thì từ ngày về ở nhà cha trông nom gia vụ cho mẹ kế và hai em, Đại Nương cứ lo người ngoài dị nghị rằng mình về nhà cha lấy tài sản chuyển cho con. Nay thấy cả nhà được đoàn tụ, Đại Nương bèn xin cáo biệt để về quê chồng ở Sơn Tây. Cừu Trọng bèn bảo hai con trai gom hết số vàng còn lại để mình chia làm ba, cho mỗi con một phần. Đại Nương từ chối, nhưng Cừu Phúc và Cừu Lộc cùng khóc, nói:"Nếu không có Chị về trông coi gia vụ cho chúng em thì làm sao mà chúng em có được ngày hôm nay!" Đại Nương đành nhận phần chia. Sau đó, Đại Nương sai gia nhân sang Sơn Tây bảo hai con trai di cư sang Sơn Đông, cư ngụ ở làng Ninh Trực cùng với gia đình họ Cừu. Có kẻ hỏi Đại Nương: "Chị em khác mẹ, việc chi phải quan thiết đến thế?" Đại Nương đáp:"Chỉ có loài thú mới cần mẹ mà không cần cha. Chẳng lẽ loài người cũng bắt chước loài thú hay sao?" Nghe chuyện, Cừu Phúc, Cừu Lộc cùng cảm động, bèn chung nhau xây cất cho chị một biệt thự giống như biệt thự của mình.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0063.jpg

Về phần Ngụy Biền thì thấy trong hơn 10 năm trời, mình đã mưu mô gieo rắc tai họa cho nhà họ Cừu mà chẳng có kết quả chi, mà chỉ làm tăng phước lộc cho họ, nên cảm thấy thẹn thùng, hối hận. Nay thấy cha con, chị em nhà họ Cừu đã được đoàn tụ, giàu có, Ngụy Biền lại muốn thân thiện với họ.

Thấy Cừu Trọng trở về, Ngụy Biền mượn cớ để thân thiện, đi mua một bầu rượu và một con gà đem tới mừng Cừu Trọng. Cừu Phúc rỉ tai cha, khuyên nên từ chối, nhưng Cừu Trọng chẳng nỡ, cứ nhận quà mừng. Thế nhưng, vì người bán gà buộc chân gà bằng dây vải, rồi khi gà sổ lồng, chạy vào bếp, lửa bắt lên dây. Bị nóng chân, gà nhảy lên đống củi, gây hỏa hoạn. Cả nhà kinh hãi, xúm nhau lại dập lửa, nhưng căn bếp đã bị cháy tiêu. Anh em Cừu Phúc cùng than:"Quà biếu của Ngụy Biền quả là vật bất tường!"

Cuối năm ấy, nhà họ Cừu làm lễ mừng thọ cho Cừu Trọng. Nhân dịp này, Ngụy Biền lại đi mua một con dê đem tới mừng. Cả nhà từ chối, nhưng Ngụy Biền năn nỉ nên Cừu Trọng đành phải nhận, sai gia nhân buộc dê vào gốc cây ở trước sân. Đêm ấy, một tiểu đồng nhà họ Cừu bị một gia nhân đánh đập, nên uất ức, chạy ra sân, cởi dây buộc dê, treo cổ lên cành cây, tự tử chết. Anh em Cừu Phúc lại than: "Cái lộc mà Ngụy Biền biếu nhà mình chẳng bằng cái họa mà y gieo rắc cho nhà mình!"

Từ đó, tuy nhà họ Cừu vẫn ân cần với Ngụy Biền, nhưng khi Ngụy Biền đem biếu vật gì thì nhà họ Cừu không nhận.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/anh_bai_dang/n%20my%20xa%205.jpg

Tuy từ chối tặng vật, nhưng bao giờ nhà họ Cừu cũng mua một vật khác, đem biếu lại Ngụy Biền. Cuối cuộc đời, vì nghèo quá, Ngụy Biền phải đi khất thực. Thấy thế, tuần nào nhà họ Cừu cũng đem thực phẩm tới tận nhà Ngụy Biền mà bố thí cho.

Thieugia - Theo Liêu Trai Chí Dị, bản dịch của GS Đàm Quang Hưng

nhan_voky
29-10-2013, 01:10 PM
Đóc "Cận" !

Thieugia xin thông báo: Bài viết này đã được chuyển tới mục Võ thuật & Văn chương tào lao tán dzóc truyện

minh_anh
08-11-2013, 11:20 AM
VÕ HIẾU LIÊM

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Dong_chu/vi%20tiu%20bo.jpg

Tái tạo thâm ân nhất đán vương
Phù nhân vị miễn thái vô lương
Nhược luân bần bệnh đương niên sự
Bạc hạnh du ư Lý thập lang

Huyện Bình Diêu tỉnh Sơn Tây, có võ cử nhân Thạch Toàn, 33 tuổi, góa vợ, chưa con. Năm ấy, hết tang vợ, Thạch Toàn thu xếp tiền bạc, dắt tên đày tớ ra bến sông, theo thuyền khách lên kinh đô để chạy một chức võ quan. Tối rằm tháng tám, khi thuyền tới địa phận huyện Đức Châu tỉnh Sơn Đông, chủ ghé thuyền vào bến để khách lên bờ nghỉ đêm cho dãn gân cốt. Tối ấy, Thạch Toàn bỗng bị bạo bệnh, ho ra máu, phải nằm liệt giường. Thừa cơ, tên đày tớ liền lấy cắp bọc tiền của Thạch Toàn, lẻn lên bờ, trốn mất. Khi biết mình bị mất cắp, Thạch Toàn buồn bực, bệnh càng thêm nặng.

Thấy Thạch Toàn chẳng còn đồng nào để trả tiền thuyền mà lại bị bệnh nặng, sợ sẽ chết ở trên thuyền, chủ bèn nói với hai chân sào:“Sáng mai, các ngươi cứ khiêng ông Thạch Toàn quẳng lên bờ cho ta!” Chuyện đồn ra quanh bến. Trong huyện, có người đàn bà họ Hồ, tên Thanh Yến, cũng có một chiếc thuyền đậu ở bến Đức Châu. Tối ấy, Thanh Yến tới bến quét dọn thuyền, rồi ở lại trên thuyền thưởng trăng, uống trà, ăn bánh. Nghe nói chủ thuyền Bình Diêu định quẳng Thạch Toàn lên bờ, Thanh Yến bèn sang gặp chủ thuyền mà nói:“Tôi cũng sắp lái thuyền lên kinh đô. Nghe nói ông định quẳng một ông khách lên bờ, vậy để tôi chở cho!” Chủ thuyền nói:“Ông ấy hết tiền rồi, chẳng còn đồng nào cả, lấy chi mà trả tiền thuyền cho bà?” Thanh Yến nói:“Tôi không lấy tiền!” Chủ thuyền nói: “Thế thì được!” rồi sai hai chân sào khiêng Thạch Toàn sang thuyền Thanh Yến.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Lu_du/du%20thuyn%205.jpg

Sang thuyền mới, Thạch Toàn thấy Thanh Yến tuổi trạc tứ tuần, thần thái đẹp đẽ, phục sức sang trọng, điểm trang lịch sự, nhưng có một điều khiến Thạch Toàn ngạc nhiên là trên thuyền chỉ có một người là Thanh Yến. Thanh Yến hỏi:“Quan nhân có thể cho thiếp biết quý danh chăng?” Thạch Toàn đáp:“Tôi là Thạch Toàn” Hỏi:“Quan nhân bao nhiêu tuổi?” Đáp:“Tôi 33” Hỏi:“Quý quán ở đâu?” Đáp:“Tôi ở huyện Bình Diêu tỉnh Sơn Tây” Hỏi:“Quan nhân lên kinh đô có việc gì?” Đáp:“Tôi lên để chạy một chức võ quan!” Hỏi:“Tại sao quan nhân lại nghĩ là mình có thể chạy được một chức như thế?” Đáp:“Vì tôi đậu cử nhân võ!” Hỏi:“Quan nhân đi một mình hay đi với ai?” Đáp:“Tôi đi với tên đày tớ nhưng nó vừa lấy cắp bọc tiền của tôi rồi trốn mất. Tôi sắp bị chủ thuyền quẳng lên bờ thì may được nương tử rủ lòng thương, cho theo thuyền này lên kinh đô miễ*n phí. Vậy tôi xin đa tạ nương tử và đội ơn nương tử suốt đời!” Rồi Thạch Toàn hỏi:“Nương tử có thể cho tôi biết quý danh chăng?” Đáp:“Thiếp là Hồ Thanh Yến!”

Thanh Yến bèn lấy cháo cho Thạch Toàn ăn, lấy nước cho uống, dọn giường trong khoang lớn cho nằm rồi nói:“Quan nhân cứ nằm đây tĩnh dưỡng. Lát nữa thiếp sẽ vào bắt mạch, chẩn bệnh cho!” Thạch Toàn càng kinh ngạc vì chẳng ngờ Thanh Yến lại biết cả y thuật.

Lát sau, quả nhiên Thạch Toàn thấy Thanh Yến tới giường bắt mạch cho mình, rồi nói: “Quan nhân bị mắc bệnh lao nặng! Bây giờ thì kể như hồn vía quan nhân đã ra tới nghĩa địa rồi!” Nghe thấy thế, Thạch Toàn kinh hãi quá, òa lên khóc. Thanh Yến nói:”Thiếp có một hoàn thuốc quý, có thể chữa được bệnh cho quan nhân! Tuy nhiên, vì thấy quan nhân có tướng bạc tình nên thiếp sợ uổng hoàn thuốc!” Thạch Toàn liền mếu máo, lớn tiếng thề:“Nếu nương tử chữa cho tôi được khỏi bệnh thì tôi sẽ xin làm đày tớ cho nương tử suốt đời! Nếu tôi ở chẳng như lời thì xin Trời chu Đất diệt!” Thanh Yến mỉm cười rồi vào khoang lấy ra một hoàn thuốc cho uống.

Hôm sau, Thạch Toàn thấy bệnh trạng của mình đã đỡ. Thanh Yến nhổ neo, tự tay lái thuyền lên kinh đô. Ngày nào, Thanh Yến cũng lo cơm nước, thuốc men cho Thạch Toàn, chăm sóc rất chu đáo, chẳng khác chi vợ chăm sóc chồng. Nửa tháng sau, Thạch Toàn khỏi bệnh. Cảm ơn cứu tử của Thanh Yến, Thạch Toàn kính trọng Thanh Yến như mẹ mình.

Lại nửa tháng sau, thuyền tới kinh đô vào lúc trời nhá nhem tối. Thạch Toàn định sáng sau sẽ cám ơn Thanh Yến rồi xin cáo biệt để vào kinh đô tìm bà con bạn bè, xin nương náu tạm. Đêm ấy, đột nhiên Thanh Yến tới ngồi ỏ thành giường Thạch Toàn, mỉm cười mà nói: “Thiếp sống trơ trọi một mình, không chồng, không con. Nay vì duyên số mà gặp quan nhân ở đây. Nếu quan nhân không ghét bỏ thiếp vì nhan sắc tàn phai thì thiếp xin được làm người nâng khăn sửa túi hầu quan nhân! Quan nhân nghĩ thế nào?” Vừa khỏi bệnh, lại góa vợ, hết tiền, được Thanh Yến đề nghị như thế, Thạch Toàn mừng quá, vượt sức mơ ước, nên vội đáp:“Nếu được sánh duyên cùng nương tử thì tôi chẳng còn mơ ước điều chi hơn!” Thanh Yến mỉm cười mà hỏi: “Có thực thế chăng?” Thạch Toàn chỉ gật đầu rồi bế xốc Thanh Yến lên giường mà ân ái.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/yn%20thanh.jpg

Sáng sau, Thanh Yến lấy ở khoang ra 300 lạng vàng, đưa cho Thạch Toàn mà nói: “Chàng đem vàng này vào kinh đô mà chạy chức võ quan. Thiếp neo thuyền ở đây chờ chàng. Được việc rồi thì chàng trở lại đây để thiếp lái thuyền đưa tới nơi phó nhậm!” Thạch Toàn đáp: “Bây giờ đã được nàng rồi thì có chạy được chức võ quan hay không cũng chẳng còn quan trọng nữa. Thế nào mà tôi chẳng phải trở lại đây!”

Thạch Toàn lên bờ, vào kinh đô, thuê phòng ở quán trọ. Sáng sau, Thạch Toàn được chủ quán giới thiệu với một người thân tín của quan binh bộ thượng thư. Người này đòi 100 lạng vàng để chạy cho Thạch Toàn một chức võ quan. Thạch Toàn ưng thuận ngay.

Tuần sau, Thạch Toàn được quan thượng thư bổ nhiệm vào chực ti khổn tỉnh Sơn Tây. Thấy còn dư 200 lạng vàng, Thạch Toàn bèn ra chợ mua mũ áo võ quan, một con ngựa đầy đủ yên cương, rồi mặc áo, đội mũ, cượi ngựa về quán trọ, lượn qua lượn lại, trông rất oai vệ.

Toan thanh toán tiền phòng trọ để ra bến theo thuyền Thanh Yến về Sơn Tây thì Thạch Toàn chợt nghĩ:“Thanh Yến nhiều tuổi hơn mình, đâu có thể làm vợ mình lâu dài được? Mình đang có sẵn vàng ở trong tay, dại chi chẳng đi nhờ bà mối kiếm cho một cô vợ trẻ ở kinh đô?” Rồi Thạch Toàn đổi ý, quyết định ở lại phòng trọ. Ngay hôm ấy, Thạch Toàn đi kiếm bà mối, nói rõ ý định của mình.

Còn nữa...

minh_anh
08-11-2013, 02:45 PM
VÕ HIẾU LIÊM
http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/liu%20trai%205.jpg

Sáng sau, bà mối tới phòng trọ của Thạch Toàn mà nói:“Tôi đã tìm được cho quan nhân một thiếu nữ ở kinh đô, đang kén chồng!” Thạch Toàn hỏi:“Ai thế?” Đáp:“Con gái một thương gia!” Hỏi:“Họ tên chi?” Đáp:“Vương Oanh Oanh!” Hỏi:“Bao nhiêu tuổi?” Đáp:“Mới 16!” Thạch Toàn bèn nhờ bà mối dắt mình đi coi mắt. Tới nơi, hai bên cùng ưng thuận. Thạch Toàn xin cưới ngay. Thương gia họ Vương đòi nạp 100 lạng vàng làm sính l*ễ. Thạch Toàn liền nạp đủ.

Tối ấy, Thạch Toàn rước Oanh Oanh về phòng trọ. Đêm ấy, Thạch Toàn động phòng hoa chúc với Oanh Oanh cực kỳ hoan lạc. Sáng sau, vì e đi đường thủy sẽ chạm trán Thanh Yến, Thạch Toàn bèn trả phòng trọ rồi thuê xe ngựa chở Oanh Oanh theo đường bộ về Sơn Tây, dắt theo cả con ngựa mới mua. Tới nơi, Thạch Toàn vào bái yết tuần vũ Sơn Tây. Tuần vũ cho lính dẫn Thạch Toàn và Oanh Oanh ra cư ngụ ở dinh ti khổn. Từ đó Thạch Toàn trở thành một viên chức oai vệ ở trong tỉnh. Sau hai tuần neo thuyền ở bến, không thấy Thạch Toàn trở lại, Thanh Yến bèn lên bờ, vào kinh đô hỏi thăm tin tức về Thạch Toàn, nhưng chẳng ai biết Thạch Toàn là ai! Thanh Yến đành lái thuyền trở về Đức Châu. Ở Đức Châu, Thạch Toàn có người em, con bà cô , là Thôi Xứng, cũng quê ở Sơn Tây, di cư sang đó làm ăn. Tình cờ, Thôi Xứng thuê đúng ngôi nhà sát hàng rào nhà Thanh Yến. Vì là hàng xóm quen thuộc, Thanh Yến với Thôi Xứng coi nhau như hai chị em.

Nửa năm sau. Một hôm, nghe đồn Thôi Xứng là em họ quan ti khổn tỉnh Sơn Tây tên là Thạch Toàn, Thanh Yến bèn sang gõ cổng nhà Thôi Xứng để vào hỏi xem có đúng như thế hay không? Thôi Xứng mời Thanh Yến vào nhà mà hỏi:“Chắc Chị muốn hỏi điều gì phải không?” Thanh Yến gật đầu mà đáp:“Đúng thế! Ở huyện Bình Diêu tỉnh Sơn Tây có ông Thạch Toàn, đậu cử nhân võ, được làm ti khổn tỉnh Sơn Tây. Có phải Cậu là em họ ông Thạch Toàn không?” Thôi Xứng đáp:“Thưa Chị, phải!” Hỏi:“Ông Thạch Toàn đã có gia vợ chưa?” Đáp:“Ông anh của em có vợ đã từ lâu nhưng chị ấy mất rồi. Năm ngoái anh ấy vào kinh đô chạy được chức ti khổn, rồi cưới được chị vợ kế ở kinh đô, tên là Vương Oanh Oanh, đem về dinh ở Sơn Tây!” Nghe thấy thế, Thanh Yến uất ức lắm, thuật cho Thôi Xứng nghe đầu đuôi câu chuyện mình giúp Thạch Toàn, vừa thuật vừa lớn tiếng mắng chửi. Nghe chuyện, Thôi Xứng cũng thấy bất bình, bèn an ủi Thanh Yến mà nói:“Có thể vì anh ấy bận công việc nên chưa có thì giờ sang đây rước Chị được! Bây giờ Chị hãy viết cho anh ấy một lá thư, em sẽ xin chuyển tới tận tay anh ấy!” Thanh Yến nghe lời, bèn viết cho Thạch Toàn một lá thư, trao cho Thôi Xứng. Thôi Xứng liền nhờ một người thân tín đem thư sang Sơn Tây, trao tận tay Thạch Toàn. Mở thư ra coi, Thạch Toàn buồn lắm, nhưng cứ làm ngơ, coi như chẳng nhận được thư.

Năm sau. Chờ mãi chẳng thấy Thạch Toàn phúc thư, một hôm, Thanh Yến quyết tâm sang Sơn Tây gặp mặt Thạch Toàn. Tới nơi, Thanh Yến thuê phòng ở trọ. Sáng sau, Thanh Yến tìm tới dinh ti khổn, nói với lính canh:”Nhờ chú vào trình với quan ti khổn rằng có người đàn bà họ Hồ, tên Thanh Yến, ở huyện Đức Châu bên Sơn Đông, có việc quan trọng, muốn xin vào gặp quan ngay!” Lính vào trình lại. Thạch Toàn xanh mặt, nói:“Mi hãy ra nói rằng quan ti khổn chẳng quen biết với người nào có tên như thế, rồi đuổi người ấy đi!” Lính ra nói lại, rồi đuổi Thanh Yến đi. Thanh Yến đành lủi thủi trở về phòng trọ. Thạch Toàn bèn ra khóa cổng dinh rồi tự tay niêm phong khóa, cấm lính canh không được cho ai vào dinh nếu không có lệnh của mình.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/ha%2025.gif

Tối sau, trong khi Thạch Toàn đang ngồi yến ẩm một mình ở phòng khách thì chợt nghe có tiếng đàn bà gọi:“Thạch lang!” Lấy làm lạ, Thạch Toàn vội buông bát đũa để nghe cho kỹ thì chợt thấy rèm cửa lay động rồi có một người đàn bà vén rèm, bước vào phòng. Nhận ra là Thanh Yến, Thạch Toàn kinh hãi, mặt xám như tro, người run lập cập. Thanh Yến chỉ mặt Thạch Toàn, hỏi mát liền một hơi:“Bạc tình lang đó hả? Chàng có được khỏe không? Chàng giàu sang quá nhỉ? Ai làm cho chàng giàu sang thế này?” Thạch Toàn kinh hãi, chân tay luýnh quýnh, hơi thở hổn hển, thốt chẳng nên lời. Thấy thế, Thanh Yến cũng thương hại, nói:”Tình cảm của thiếp đối với chàng chẳng phải là mỏng? Nếu chàng muốn có vợ lẽ thì cứ nói thẳng với thiếp là sẽ có ngay, việc chi phải bạc tình như thế?” Thạch Toàn vội quỳ xuống đất, lạy Thanh Yến lia lịa, bịa hết chuyện này tới chuyện khác để gợ tội, những mong Thanh Yến tin chuyện bịa của mình mà tha thứ cho. Thấy Thạch Toàn sợ mình quá, Thanh Yến cũng chẳng nợ mắng chửi thêm.

Thấy Thanh Yến đã nguôi giận, Thạch Toàn bèn lẻn vào phòng trong, bảo Oanh Oanh: “Ta đã có vợ kế trước nàng, họ Hồ, tên Thanh Yến! Chị ấy đang ở ngoài phòng khách! Nàng hãy ra phòng khách, lấy lễ* vợ lẽ mà ra mắt chị ấy!” Vừa bực tực, vừa kinh hãi, Oanh Oanh không chịu ra. Thạch Toàn năn nỉ. Cuối cùng, vì nể chồng, Oanh Oanh đành mặc quần áo chỉnh tề rồi ra phòng khách, quỳ xuống đất, chắp tay lạy Thanh Yến. Thanh Yến đáp lễ, rồi tới nâng Oanh Oanh dậy, nói: “Em đừng sợ! Hãy ngồi xuống đây mà nghe chị nói! Chẳng phải là chị tới đây để đánh ghen đâu! Chị tới đây chỉ cốt để nói cho em biết rằng Thạch lang là một kẻ bạc tình!” Sau khi thuật lại cho Oanh Oanh nghe đầu đuôi câu chuyện giữa mình với Thạch Toàn, Thanh Yến kết luận:“Chị nghĩ chắc em cũng chẳng muốn có một người chồng bạc tình như thế!” Nghe xong, Oanh Oanh cũng tỏ vẻ bất bình, quay ra mắng chửi Thạch Toàn. Thạch Toàn xấu hổ, chỉ còn biết xin lỗi hai người đàn bà rối rít, hứa sẽ thay tâm đổi tính, chẳng còn dám ăn ở bạc tình như thế nữa! Oanh Oanh nhỏ nhẹ thưa:“Bây giờ Chị đã tới đây thì xin Chị vào ở chung phòng với Thạch lang, cho em được dọn xuống ở nhà ngang!” Thanh Yến gạt đi, nói:“Không phải là chị tới đây để làm xáo trộn nếp sống của em đâu! Chị tới đây chỉ cốt để cho thiên hạ khỏi trách Thạch lang là người chồng bạc tình đó thôi! Bây giờ em hãy dọn cho chị một phòng riêng vì chị đã quen ở một mình rồi!” Bất đắc dĩ Oanh Oanh phải tuân lời Thanh Yến nhưng trong lòng vẫn còn nơm nớp sợ.

Thạch Toàn tực giận tên lính canh đã mở cổng dinh cho Thanh Yến vào nên ra công đường, gọi tên lính lên mắng chửi. Tên lính nói:“Tiểu tốt bị đại quan mắng chửi oan! Tiểu tốt có mở cổng dinh cho ai vào bao giờ đâu? Giờ này khóa cổng vẫn còn nguyên dấu niêm của đại quan!” Thạch Toàn không tin, ra cổng coi thì quả thấy dấu niêm vẫn còn nguyên. Thạch Toàn ngạc nhiên, nhưng cũng không dám hỏi Thanh Yến xem nàng đã lọt vào dinh bằng cách nào?
Thanh Yến ở lại dinh ti khổn. Mọi chuyện êm dần. Tuy ban ngày Thanh Yến vẫn nói chuyện với Thạch Toàn nhưng ban đêm, Thanh Yến lại vào ngủ ở phòng riêng, để cho Oanh Oanh vào ngủ chung với Thạch Toàn.

Thanh Yến rất hòa nhã với Oanh Oanh, chẳng bao giờ tỏ ý ghen tuông. Ban đầu, Oanh Oanh còn nơm nớp lo sợ nhưng sau thấy Thanh Yến hiền hậu, chẳng ghen tuông thì lại hết lo sợ mà đâm ra kính trọng Thanh Yến, coi Thanh Yến như mẹ chồng mì nh vậy.

Ở trong dinh, Thanh Yến đối xử khoan hòa lễ độ với mọi người nên được mọi người kính mến. Thanh Yến lại có biệt tài nhìn sự việc rất sáng suốt, tựa hồ như có thần nhãn, nên được mọi người kính phục.

Còn nữa...

minh_anh
08-11-2013, 02:57 PM
VÕ HIẾU LIÊM
Tiếp theo...

Một hôm, Thạch Toàn mất cái dây thao buộc ấn. Cả dinh xôn xao đi tìm nhưng chẳng ai tìm thấy. Thạch Toàn lo lắm. Thanh Yến cười, nói:”Đừng có lo. Tát cạn giếng thì sẽ thấy!” Thạch Toàn bèn sai lính tát giếng. Quả nhiên khi giếng cạn, lính tìm thấy chiếc dây thao ở đáy giếng. Thạch Toàn hỏi:“Sao nàng lại biết là dây thao ở dưới giếng?” Thanh Yến chỉ cười, chẳng đáp. Thạch Toàn nghi rằng Thanh Yến biết rõ ai là thủ phạm nên gặng hỏi:“Ai đã ném dây thao của tôi xuống giếng?” Thanh Yến chỉ cười, chẳng đáp.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/du%20thuyn%202.jpg

Thanh Yến tiếp tục ở trong dinh. Thấy Thanh Yến càng ngày càng có những hành động kỳ lạ, Thạch Toàn ngờ Thanh Yến chẳng phải là người. Vì thế, tối nào Thạch Toàn cũng sai gia nhân tới nấp ở ngoài phòng ngủ của Thanh Yến để nghe ngóng. Sáng ra, gia nhân báo cáo rằng chỉ nghe thấy tiếng rũ quần áo chứ không biết là Thanh Yến làm gì ở trong phòng.

Càng ngày Thanh Yến càng thân với Oanh Oanh. Một tối, Thạch Toàn có việc phải tới ty quan giám ngục, tới khuya chưa về. Ở nhà, Thanh Yến rủ Oanh Oanh:“Em hãy đem rượu vào phòng chị để chị em mình đối ẩm!” Oanh Oanh nghe lời. Thấy tửu lượng của Thanh Yến quá cao, Oanh Oanh không dám uống theo. Vì quá chén, Thanh Yến bị say mèm, phải lên giường nằm.

Lát sau, Thanh Yến hóa chồn. Oanh Oanh kinh hãi quá nhưng vì yêu thương Yến Thanh nên Oanh Oanh lấy chăn đắp cho chồn, rồi trở về phòng, nằm chờ chồng.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/h%20ly%20tinh.jpg

Quá nửa đêm, Thạch Toàn về. Oanh Oanh bèn thuật cho chồng nghe chuyện Thanh Yến hóa chồn. Nghe xong, Thạch Toàn nảy ý giết chồn. Kinh hãi quá, Oanh Oanh can:“Chồn này chỉ làm lợi cho chàng thôi chứ có làm hại gì chàng đâu mà chàng toan giết?”. Thạch Toàn không nghe, cứ đi kiếm bội đao, chạy thẳng xuống nhà ngang, tới phòng Thanh Yến, mở cửa bước vào, xông tới giường. Đột nhiên chồn tỉnh rượu, hóa thành Thanh Yến!


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/ma%2012.jpg
Chồn tỉnh rượu, hóa thành Thanh Yến!

Thấy Thạch Toàn cầm đao xông tới, Thanh Yến vội ngồi nhỏm dậy, lớn tiếng quát:“Nhà ngươi có tâm địa như sài lang, hành động như rắn rết, ta chẳng thể nào sống chung với nhà ngươi nữa! Trước kia, khi cho nhà ngươi nuốt hoàn thuốc quý để chữa bệnh thì nhà ngươi thề với ta là sẽ làm đày tớ cho ta suốt đời! Thế mà bây giờ nhà ngươi lại thay lòng đổi dạ, toan sát hại ta! Vậy thì tình nghĩa tới đây đã hết, nhà ngươi phải trả lại hoàn thuốc cho ta!” Nói xong, Thanh Yến nhổ nước bọt vào mặt Thạch Toàn.

Bị trúng nước bọt, Thạch Toàn bỗng cảm thấy toàn thân lạnh cóng, tay chân tê dại, bội đao rơi xuống đất. Thạch Toàn lại thấy cổ họng mình bị ngứa ngáy, buồn nôn, rồi oẹ ra một hoàn thuốc giống hệt hoàn thuốc trước kia Thanh Yến đã cho mình.

Thanh Yến cúi xuống nhặt hoàn thuốc, bỏ vào túi rồi bước ra khỏi phòng.

Kinh hãi quá, Thạch Toàn vội chạy theo để giữ lại, nhưng chẳng thấy Thanh Yến đâu. Thạch Toàn đành trở về phòng ngủ.

Đêm ấy, bệnh cũ tái phát, Thạch Toàn ho ra một đống máu tươi.

Nửa năm sau, Thạch Toàn chết.

bach_djen
06-12-2013, 11:32 AM
TỬU CUỒNG

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Vo_lam/Vo_say/ty%20quyn%205.jpg

Cố thái do tồn tiếu tửu đồ
Chuyển nghi thúy mộng thuyết mơ hồ
Tòng lai mạ toạ thần nhân nộ
Minh phạt hà tu vấn hữu vô

Triều Thanh, tỉnh Giang Tây, có nho sinh Cù Vĩnh Định, 27 tuổi, góa vợ, có một trai tên Vĩnh Tuyên. Gia tư khá giả nhờ ở tài sản của cha mẹ để lại, nhưng tính rất keo kiệt.

Vĩnh Định học giỏi, được quan học sứ tuyển làm cống sinh để tiến kinh. Vĩnh Định kể chuyện rất có duyên, chọc cười thiên hạ rất khéo, nhất là sau khi đã ngà ngà say. Vì thế, bạn bè đều thích nghe Vĩnh Định kể chuyện. Tuy nhiên, mỗi lần có dịp dự tiệc là Vĩnh Định lại uống tới say mèm rồi gây sự với người trong tiệc, chửi bới người ta, khiến bạn bè càng ngày càng oán ghét mà xa lánh.

Một hôm, Vĩnh Định được ông chú ở gần nhà mời sang dự tiệc. Vì bạn bè thích nghe Vĩnh Định kể chuyện nên họ chuốc cho một chút rượu. Được thể, Vĩnh Định cứ tự rót thêm mà uống, hết chén này tới chén khác. Khi quá say, Vĩnh Định gây sự với một thực khách là Đặng ông, rồi chửi bới Đặng ông. Giận quá, Đặng ông xô ghế đứng dậy, toan đánh. Cả tiệc huyên náo. Ông chú kinh hãi, vội xen vào can. Vĩnh Định nói:“Chú là người trong họ, phải bênh cháu mới được!” Đặng ông nói:“Phải thì mới bênh, chứ trái thì bênh thế nào được?” Ông chú bối rối, không biết nói sao, chỉ kêu gia nhân chạy sang nhà Vĩnh Định báo cho người nhà biết. Đặng ông giận Vĩnh Định lắm, giận lây cả ông chú.

Người nhà chạy sang dìu Vĩnh Định về, đưa vào phòng nằm. Chợt thấy tay chân Vĩnh Định lạnh ngắt, họ vội đi lấy dầu xoa, nhưng chỉ ít phút sau thì Vĩnh Định tắt thở. Họ bèn đi mua quan tài về khâm liệm, quàn linh cữu ở trong nhà, định 4 ngày sau sẽ đem mai táng.

Trong khi ấy, Vĩnh Định thấy mình đang nằm ngủ thì bị một người đội mũ đen tới giường lay dậy, bắt phải đi theo. Lát sau, tới một cung điện quay mặt về hướng nam, có mái lợp ngọc biếc cực kỳ tráng lệ, người mũ đen đưa Vĩnh Định vào phòng xử án. Đảo mắt nhìn quanh, Vĩnh Định thấy dọc theo hai bức tường đông tây có kê hai dãy ghế dài, trên có nhiều lính lệ đang ngồi giữ phạm nhân, còn dọc theo bức tường bắc, trên bục cao, có chiếc ngai bỏ trống.

Thầm nghĩ mình bị bắt tới đây chắc là vì bị Đặng ông đi kiện về vụ cãi nhau với ổng trong tiệc, Vĩnh Định toan lên tiếng hỏi người mũ đen xem có phải thế không thì chợt thấy người ấy trừng mắt nhìn mình. Kinh hãi quá, Vĩnh Định không dám hỏi nữa. Tuy nhiên, Vĩnh Định cũng không sợ quan án lắm vì nghĩ mình chỉ có tội nhẹ là tội cãi nhau với thực khách trong tiệc thôi, mà mình lại là cống sinh thì chắc là quan án cũng không nỡ xử phạt.

Bỗng có người mở cửa nách sảnh đường, bước vào mà nói:“Trời đã tối mà đại vương chưa về! Vậy bây giờ các lệ binh hãy dẫn phạm nhân trở về ngục rồi sáng mai dẫn chúng trở lại đây để đại vương xét xử!” Thế là mọi người nhốn nháo như ngựa lồng trâu chạy, lính lệ tranh nhau dẫn phạm nhân ra khỏi sảnh đường. Người mũ đen cũng dẫn Vĩnh Định đi.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Vo_lam/Vo_say/ty%20%20quyn%203.jpg

Dọc đường, qua một quán rượu, Vĩnh Định chợt thấy mình thèm rượu vô tả nên bất giác chạy vào đứng dưới mái hiên. Người mũ đen nổi giận quát:“Cái thằng giặc bét rượu này! Trời tối rồi, ai cũng đi tìm chỗ ăn chỗ ngủ mà mi lại chui vào đó đứng làm chi?” Vĩnh Định kinh hãi, run bần bật mà nói:“Tiểu sinh chưa biết là mình bị bắt về tội gì. Vả lại lúc bị bắt, tiểu sinh chưa báo cho người nhà biết mà cũng không đem theo tiền tiêu vặt. Bây giờ tiểu sinh muốn xin về qua nhà một lát!” Người mũ đen quát:“Mi muốn xin về nhà để lấy tiền mua rượu chứ gì? Cho mi mua rượu uống say mèm để mi lại cứng đầu cứng cổ với ta ấy à? Ta thì đấm cho vỡ sọ mi ra chứ cho mi về thế nào được?” Vĩnh Định kinh hãi quá, nín bặt, chẳng dám xin xỏ chi nữa.

Vừa lúc ấy, bỗng có người từ trong quán bước ra. Nhìn thấy Vĩnh Định, người ấy kinh ngạc, hỏi:“Sao mi lại phải xuống đây?” Vĩnh Định quay nhìn thì thấy là cậu ruột mình, tức Giả ông, chết đã 3 năm. Lúc đó, Vĩnh Định mới hiểu rằng mình cũng đã chết. Vừa buồn vừa sợ, nước mắt chảy ròng ròng, Vĩnh Định nói:“Cậu cứu cháu với!” Giả ông không đáp, chỉ quay nhìn người mũ đen rồi bỗng kêu lên:“Ủa! Ngỡ là ai, hóa ra là Đông Linh Sứ Giả! Xin mời Sứ giả hãy vào tệ quán ngồi chơi một lát!” Sứ giả gật đầu rồi đưa tay vẫy Vĩnh Định theo vào.

Giả ông kéo ghế mời Sứ giả ngồi. Sứ giả chỉ chiếc ghế bên cạnh, bảo Vĩnh Định ngồi. Giả ông vội xuống bếp lấy rượu và đồ nhắm đem lên, rồi xin phép Sứ giả cho Vĩnh Định được cùng ngồi yến ẩm. Sứ giả gật đầu ưng thuận.

Trong tiệc, Giả ông hỏi Sứ giả:“Cháu tôi phạm tội chi mà phiền Sứ giả phải đi bắt?” Sứ giả đáp:“Tôi cũng không biết! Tôi đang theo hầu Diêm Vương lên núi La Phù phó hội với Thái Thượng Lão Quân thì bỗng được đại vương phái đi bắt y về đây!” Hỏi:“Thế Sứ giả đã dẫn y vào trình đại vương chưa?” Đáp:“Chưa! Đại vương đi phó hội chưa về!” Hỏi:“Sứ giả có đoán ra là y phạm tội chi không?” Đáp:“Không! Tôi chỉ thấy đại vương có vẻ giận y lắm!” Nghe thấy hai người nói chuyện, Vĩnh Định kinh hãi quá, tóc gáy dựng ngược, mồ hôi ướt đầm, tay run bần bật, không nhấc nổi đũa.

Tiệc tan, Giả ông đứng dậy, vào nhà trong lấy ra một gói tiền, đưa cho Sứ giả mà nói: “Tôi có chút quà mọn, xin kính biếu Sứ giả. Nay cháu tôi đã thuộc quyền cai quản của Sứ giả thì xin Sứ giả nương tay cho y một chút!” Sứ giả gật đầu, nhận gói tiền, cất vào túi, rồi nói:“Cám ơn tiên sinh đã cho tôi ăn uống no say. Tiên sinh đã phó thác y cho tôi thì để sớm mai, khi đại vương về, tôi sẽ liệu chiều mà xin cho y được trở về dương thế. Tối nay, tôi để y ở lại đây ngủ với tiên sinh!” Nói xong, Sứ giả cáo biệt. Giả ông vội đứng dậy mà ti*ễn Sứ giả. Ra tới hiên, hai người đứng lại thầm thì với nhau hồi lâu rồi Sứ giả lên đường.

Sứ giả đi rồi, Giả ông vào quán, nói với Vĩnh Định:“Ta thấy mi phải xuống đây thì ta chắc là mi lại phạm phải cái tội say sưa rồi chửi bới thiên hạ đó thôi! Bố mẹ mi chỉ có một mình mi nên nuông chiều mi quá, nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, chẳng bao giờ mắng mi lấy một lời, khiến mi hư hỏng! Năm mi 16 tuổi, hễ bị ai làm mích lòng một chút là mi lại bới lông tìm vết, chửi bới người ta, rồi khi có dịp được uống rượu với người ta thì lại chửi bới. Lúc đó, nghĩ mi còn trẻ, chưa biết phải trái là gì, nên ta làm ngơ. Chẳng ngờ sau 10 năm, mi vẫn chứng nào tật nấy! Nếu quả thực Diêm Vương phái Đông Linh Sứ giả đi bắt mi về tội uống rượu say rồi chửi bới thiên hạ thì ta cũng chịu, chẳng thể nào cứu nổi!” Vĩnh Định lăn lộn dưới đất, gào khóc hồi lâu, rồi mếu máo nói:“Cháu biết tội đã nhiều! Nay có hối cũng chẳng kịp!” Nghe nói, Giả ông cũng thấy thương tình, bèn bước tới nắm cổ tay Vĩnh Định, kéo dậy mà nói:“Đừng mếu máo nữa! Để ta cố giúp xem sao! Từ hồi ta chết xuống đây, mở quán rượu này, cũng được nhiều người biết tiếng. Người mũ đen đi bắt mi chính là Đông Linh Sứ Giả, hầu cận Diêm Vương! Ta thường mời ổng tới đây uống rượu nên ổng cũng thân với ta và đối xử với ta tử tế lắm. Ta nghĩ Diêm Vương bận rộn cả ngàn vạn chuyện, chưa chắc đã có thì giờ để ý tới chuyện của mi nên vừa rồi ta có năn nỉ ổng cố tìm cách xin cho mi được trở về dương thế. Chưa biết kết quả ra sao nhưng ta nghĩ chắc là được!” Im lặng hồi lâu, Giả ông lại nói:“Tuy nhiên, việc này cũng còn gay go lắm!” Vĩnh Định hỏi:“Thưa cậu, gay go vì nỗi gì?” Giả ông đáp:“Vì phải có 10 vạn đồng để hối lộ cho ổng thì việc mới xuôi!” Vĩnh Định nói:“Cám ơn Cậu đã nói với ổng giúp cháu! Còn khoản tiền hối lộ thì xin Cậu để cháu lo!” Giả ông nói:“Nếu mi lo được thì đỡ cho ta lắm!” Đêm ấy, Vĩnh Định ngủ lại với Giả ông.

Sáng sau, Sứ giả tới mời Giả ông theo mình ra chỗ vắng, thầm thì hồi lâu, rồi cáo biệt.

Sứ giả đi rồi, Giả ông vào quán nói với Vĩnh Định:“Đông Linh Sứ giả vừa tới! Ổng nói đã xin được với Diêm Vương cho mi trở về dương thế rồi! Ổng bắt ta phải bảo lãnh cho mi và ứng trước cho mi 1 vạn đồng để đặt cọc! Vậy khi về dương thế, mi phải lo thanh toán ngay khoản tiền mi còn nợ ổng! Ổng đi rồi, nhưng ổng hẹn lát nữa sẽ trở lại, đem giao kèo cho mi ký và lấy tiền cọc!” Vĩnh Định mừng lắm, hỏi:“Như vậy là cháu nợ ổng bao nhiêu tất cả?” Giả ông đáp:“Ta đã nói rồi. Tất cả là 10 vạn đồng. Ta ứng cho mi 1 vạn, mi còn nợ ổng 9 vạn nữa!” Vĩnh Định nói:“Khoản tiền này lớn quá, cháu biết lấy đâu ra?” Giả ông nói:“Tiền âm phủ chứ có phải là tiền dương thế đâu mà mi kêu lớn quá? 10 vạn đồng âm phủ chỉ bằng 100 đồng tiền giấy ở dương thế thôi!” Mừng quá, Vĩnh Định nói:“Cháu ngỡ phải mất nhiều chứ nếu chỉ mất có bấy nhiêu thôi thì d*ễ quá!”

Gần trưa, không thấy Sứ giả tới, Vĩnh Định nói:“Mãi chẳng thấy Đông Linh Sứ Giả tới, vậy xin Cậu cho cháu ra phố chơi, xem phố xá âm phủ một lần cho biết!” Giả ông nói:“Muốn đi thì đi nhưng đừng có đi xa, phòng khi ta cần tìm về có việc!” Vĩnh Định đáp:“Cháu xin tuân lời!”
...
Còn nữa...

Bach_djen theo bản dịch của GS Toán Đàm Quang Hưng - Trường Đại Học Cộng Đồng Houston, Texas

bach_djen
06-12-2013, 11:37 AM
TỬU CUỒNG

Tiếp theo...


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Vo_lam/Vo_say/ty%20%20quyn%209%20.jpg

Vĩnh Định ra phố chơi thì thấy dưới âm phủ, phố xá cũng chẳng khác chi trên dương thế. Đi được một lát, Vĩnh Định rẽ vào con đường rộng, bên phải có tòa nhà kín mít với hàng rào cao ngất, trông tựa nhà tù, bên trái có quán rượu lớn, thực khách ra vào tấp nập. Cạnh quán, có con lạch chứa đủ mọi đồ ô uế, nước lạch đen ngòm, chẳng biết nông sâu ra sao. Vĩnh Định bèn dừng chân bên quán, đứng coi dòng nước chảy.

Bỗng có tiếng người từ trong quán hỏi vọng ra:“Cống sinh Vĩnh Định đó phải không? Sao lại phải xuống đây?” Vĩnh Định quay nhìn thì nhận ra người ấy là Quách ông, hàng xóm phía đông nhà mình 10 năm về trước, chết đã 6 năm. Vĩnh Định chợt nhớ lại năm mình 17, thường sang nhà ổng nghe ổng bàn luận văn chương.

Quách ông chạy ra nắm cổ tay Vĩnh Định, kéo vào quán, gọi rượu mời uống, hàn huyên đủ chuyện. Thấy Quách ông vẫn vui vẻ như lúc sinh thời, Vĩnh Định thích lắm, nghĩ hôm nay mình gặp hên, đã được Cậu giúp đỡ, lại được Quách ông mời uống rượu. Vì thế, Vĩnh Định cứ phóng tâm mà uống. Khi quá say, Vĩnh Định quên hẳn chuyện mình đã chết, lại lè nhè bới móc những chuyện cũ của Quách ông ra mà chê trách. Quách ông nói:“Mười năm chẳng gặp, những tưởng cống sinh đã thay tâm đổi tính, nào ngờ vẫn chứng nào tật nấy!” Vốn oán ghét những người động tới tật bét rượu của mình nên khi nghe Quách ông nói thế, Vĩnh Định bỗng nổi nóng, đập bàn mắng chửi ầm ĩ. Quách ông liền đứng dậy, phất tay áo bỏ đi, bước dọc theo bờ lạch. Vĩnh Định cũng đứng dậy, đuổi theo rồi bắt kịp, chồm lên lột mũ Quách ông. Giận quá, Quách ông thúc khuỷu tay vào bụng Vĩnh Định khiến Vĩnh Định rơi tõm xuống lạch nước đen ngòm.

Lóp ngóp bơi trong lạch nước nhơ, bị nước tràn đầy họng, hôi nồng nặc, Vĩnh Định cảm thấy dường như có ngàn vạn mũi kim đâm vào da thịt, đau thấu xương tủy. Thực khách trong quán ùa ra coi, nhưng họ chỉ đứng cười, chứ chẳng ai chịu kéo Vĩnh Định lên.

Ở nhà, chờ mãi không thấy Vĩnh Định về, Giả ông đi tìm. Qua quán rượu, thấy Vĩnh Định đang lóp ngóp bơi trong lạch nước nhơ, Giả ông vội giơ tay ra cho Vĩnh Định bám, rồi kéo lên bờ, dẫn về nhà, bắt đi tắm gội, lấy quần áo mới cho thay. Khi Vĩnh Định đã sạch sẽ, tươm tất, Giả ông mới gọi lên mà mắng:“Ta ngỡ mi xin đi xem phố xá âm phủ một lần cho biết, nào ngờ mi lại la cà vào quán rượu, uống cho say rồi gây sự với Quách ông! Mi quá quắt lắm, chết rồi mà vẫn chưa tỉnh ngộ! Ta nghĩ mi thực chẳng đáng sống lại chút nào. Thôi để ta nói với Đông Linh Sứ Giả cứ đưa mi vào trình Diêm Vương để Diêm Vương định tội!” Kinh hãi quá, Vĩnh Định sụp xuống đất khóc lóc, van lạy:“Cháu biết tội đã nhiều, xin Cậu tha cho!” Giả ông nén giận mà nói: “Mi vừa ra khỏi nhà thì Đông Linh Sứ Giả tới, đem giao kèo cho mi ký. Nghĩ mi cũng sắp về, ta mời ổng ngồi chơi một lát nhưng ổng không chịu, nói là có việc bận, cần phải đi ngay. Vì thế, ta xin ổng cho ta ký thay mi. Ổng ưng thuận. Trong giao kèo, ta thấy có ghi khoản nói mi hứa sẽ trả hết nợ cho ổng trong vòng 10 ngày, nếu chẳng giữ lời thì sẽ lại bị bắt xuống âm phủ! Ký xong, ta phải lấy ra 1 vạn đồng, ứng trước cho mi mà đặt cọc cho ổng. Ổng bắt ta phải ghi rõ vào giao kèo là mi còn nợ ổng 9 vạn đồng. Vậy khi về dương thế, mi phải đốt ngay 100 đồng tiền giấy xuống đây để ta thanh toán món nợ ấy cho mi!” Vĩnh Định hỏi:“Cháu phải đốt tiền giấy như thế nào để Cậu nhận được?” Giả ông đáp:“Mi chỉ cần ra chợ mua 100 đồng tiền giấy, rồi ban đêm đem ra ruộng cỏ ở ngoài thôn, khấn tên ta mà đốt thì ta sẽ nhận được!” Vĩnh Định nói:“Cháu sẽ xin làm theo lời Cậu!” Giả ông giục:“Thôi! Mi hãy vào phòng sửa soạn hành trang, rồi ra đây ta chỉ đường cho mà về!” Vĩnh Định tuân lời, vào phòng sửa soạn hành trang rồi ra xin cáo biệt.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Vo_lam/Vo_say/cung%20tu.jpg

Giả ông dẫn Vĩnh Định ra khỏi cổng thành, rồi đứng lại mà dặn:“Mi phải nhớ giữ lời với Đông Linh Sứ Giả! Chớ có bội ước để cho ta bị liên luỵ!” Vĩnh Định đáp:“Xin Cậu an tâm! Cháu xin giữ lời!” Giả ông bèn chỉ đường cho Vĩnh Định về dương thế, rồi nói:“Thôi, Về đi!” Vĩnh Định vội chào Giả ông mà lên đường.

Ở dương thế, Vĩnh Định chết đã 3 ngày. Tối ấy, bỗng người nhà nghe thấy trong linh cữu có tiếng động, vội chạy tới mở nắp ra coi thì thấy xác Vĩnh Định đã ấm lại, ở mũi có hơi thở nhè nhẹ. Họ bèn khiêng Vĩnh Định ra khỏi linh cữu, đặt lên giường.

Nửa đêm, đột nhiên Vĩnh Định sống lại, nôn mửa ra mấy đấu nước đen ngòm, hôi nồng nặc, mồ hôi vã ra như tắm, ướt đẫm cả chăn đệm. Sau đó, Vĩnh Định nằm ngủ thiếp đi cho tới sáng. Hôm sau, người nhà thay phiên nhau vào chăm sóc cho Vĩnh Định.

Tối ấy, khi nhớ lại chuyện mình bị Quách ông đẩy xuống lạch nước nhơ, tự nhiên Vĩnh Định cảm thấy dường như có ngàn vạn mũi kim đâm vào da thịt, đau thấu xương tủy. Rồi trong khoảnh khắc, mụn nhọt mọc đầy người, khiến Vĩnh Định vô cùng kinh hãi. May sao, sáng ra, đột nhiên các mụn nhọt cùng vỡ mủ, đóng vẩy, rồi thành sẹo. Nhờ được người nhà tận tình chăm sóc, thuốc thang, nên sau 10 ngày, Vĩnh Định đã có thể chống gậy đi lại được.

Một hôm, Vĩnh Định thấy trong người đã khỏe, bèn đem những chuyện mà mình thấy dưới âm phủ ra thuật lại cho người nhà nghe.

Nghe xong, mọi người đều khuyên:“Chủ nhân nên mua 100 đồng tiền giấy, đốt xuống âm phủ mà nhờ Giả ông trả nợ giùm!” Vĩnh Định nhẩm tính nếu đốt như thế thì cũng tốn mất chút ít tiền bạc, nên tiếc của mà nói:“Chắc là vì ta uống rượu say rồi nằm chiêm bao nên mới thấy ảo cảnh hão huyền như thế chứ làm gì có Đông Linh Sứ Giả nào? Mà dù có thì Sứ giả ấy đã lấy tiền cọc hối lộ của cậu ta rồi, đâu còn dám tâu gì với Diêm Vương nữa?” Mọi người cùng nói:“Nếu không có Đông Linh Sứ Giả mà chủ nhân cứ đốt thì cũng chẳng tốn kém là bao, còn nếu có Đông Linh Sứ Giả mà chủ nhân không đốt thì nguy hiểm lắm!” Vĩnh Định hỏi:“Sao lại nguy hiểm?” Mọi người cùng đáp:“Vì nếu chủ nhân không đốt thì có nghĩa là chủ nhân đã vỗ nợ Sứ giả âm phủ!” Vốn tính keo kiệt, Vĩnh Định quyết chẳng chịu nghe lời mọi người.

Tuy nhiên, vì vẫn còn nơm nớp lo sợ về việc Diêm Vương sẽ lại phái Sứ giả lên dương thế bắt mình xuống âm phủ về tội say sưa rồi chửi bới thiên hạ nên Vĩnh Định quyết tâm chừa rượu, không dám uống nữa. Thấy thế, bè bạn lại giao du với Vĩnh Định. Thỉnh thoảng, vào các dịp giỗ, Tết, cũng có kẻ mời Vĩnh Định tới nhà dự tiệc rồi chuốc cho một chút rượu.

Năm sau.

Thấy mình không chịu đốt tiền để nhờ Giả ông trả nợ giùm mà cũng chẳng thấy ai lên dương thế bắt mình xuống âm phủ, Vĩnh Định bắt đầu hết lo. Thế rồi Vĩnh Định lại ra chợ uống rượu say sưa, chửi bới thiên hạ như cũ. Bè bạn lại xa lánh.

Một hôm, Vĩnh Định được một người bạn ở xa là Tử Xa Hồng, gửi thư mời tới nhà dự tiệc. Vĩnh Định liền lên đường đi dự.

Trong tiệc, Vĩnh Định lại uống thực say rồi gây sự, chửi bới một thực khách giữa nhà Xa Hồng. Xa Hồng giận quá, sai gia nhân khiêng Vĩnh Định quẳng ra đường, khóa cổng lại, không cho vào nhà. Vĩnh Định đành lóp ngóp bò dậy, lần đường về nhà mình.

Tới nhà, Vĩnh Định không gọi cổng mà lại trèo tường vào sân, rồi cứ đứng ở giữa sân mà la hét ầm ĩ.

Nghe thấy tiếng cha hét, con trai Vĩnh Định là Vĩnh Tuyên, vội chạy ra coi. Thấy cha đứng ở giữa sân, Vĩnh Tuyên vội dìu cha vào phòng khách. Vừa vào tới phòng, đột nhiên Vĩnh Định chạy tới chân tường, quỳ gối xuống đất, quay mặt vào tường, rồi cứ đập đầu vào tường mà nói:“Mi trả nợ ta đi! Mi trả nợ ta đi!”

Lát sau, Vĩnh Định kiệt sức, ngã lăn xuống đất. Vĩnh Tuyên vội chạy tới đỡ cha dậy thì thấy cha đã tắt thở.

Bach_djen

minhnhat
07-12-2013, 12:04 AM
Truyện Đạo Sĩ Núi Lao Sơn


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Su_sai/o%20gio%206.jpg

Trong huyện có chàng họ Vương, vào hàng thứ bảy, là con nhà cố gia, tuổi trẻ mộ đạo. Nghe nói núi Lao Sơn có nhiều tiên ở, liền quẩy tráp đi thăm. Trèo lên một ngọn núi thấy có đạo quán thật u nhã. Một vị đạo sĩ ngồi trên tấm bồ đoàn (chiếc chiếu đan bằng cỏ bồ, hình tròn, để người đi tu hành quỳ hoặc ngồi cho êm, mỗi khi hành lễ) tóc trắng rủ xuống tận cổ, nhưng dáng vẻ thư thái, tinh thần trông thật sắc sảo. Vương liền khấu đầu, bắt chuyện, thấy đạo lý rất huyền diệu, bèn xin thờ làm thấy.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Su_sai/o%2015.jpg

Ðạo Sĩ nói:
- Chỉ sợ quen nhàn rỗi, không chịu nổi khó nhọc thôi.
Vương hứa là: "Ðược".

Học trò Ðạo Sĩ đông lắm, gần tối mới kéo hết về. Vương cùng họ cúi đầu làm lễ, rồi lưu lại trong quán. Sáng tinh sương, Ðạo Sĩ gọi Vương, đưa cho cái búa, bảo theo đám học trò đi hái củi. Vương kính cẩn vâng lời. Ðược hơn một tháng, tay chân phồng rộp thành chai, cực khổ không chịu nổi, Vương đã ngầm có bụng muốn về.

Một buổi chiều, trở về, thấy hai người khách đang cùng thầy uống rượu.Trời đã tối mà chưa thấy đèn lửa gì cả. Thầy bèn cắt một miếng giấy như hình cái gương, dán lên vách. Phút chốc, ánh trăng vằng vặc soi sáng khắp nhà, trông rõ từng sợi tơ, cái tóc.
Ðám học trò chạy quanh hầu hạ.
Một người khách nói:
- Ðêm này đẹp trời có thể vui chơi, nên cho ai nấy cùng vui.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Su_sai/o%2018.jpg

Bèn lấy hồ rượu lên bàn, chia cho các học trò, lại dặn nên uống thật say. Vương nghĩ bụng: Bảy tám người một hồ rượu, làm sao cho đủ khắp được? Mỗi người đều đi tìm chén, bát, tranh nhau rồi uống trước, chỉ sợ rượu trong hồ hết mất. Thế mà rót hết lần này lượt khác, vẫn chẳng vơi đi chút nào. Bụng thầm lấy làm lạ. Giây lát, một vị khách nói:
- Ðã làm ơn ban cho ánh sáng trăng, mà lại chỉ tịch mịch uống suông. Sao không gọi Hằng Nga xuống chơi?
Ðạo sĩ bèn lấy một chiếc đũa, vứt vào trong trăng. Bỗng thấy một người đẹp từ trong vùng ánh sáng bước ra: mới đầu chưa đầy một thước, xuống đến đất thì cao lớn như người thường, lưng thon nhỏ, cổ trắng muốt, phấp phới múa khúc Nghê thường. Rồi ca rằng:

Tiên tiên nào!
Về đây nao!
Giữ ta mãi chốn Quảng Hàn sao!
...

Âm thanh trong trẻo, cao vút, nghe hay như tiếng tiêu, tiếng sáo. Ca xong, uốn lượn mà đứng lên, rồi nhảy lên mặt bàn, ngoảnh đi ngoảnh lại, đã biến trở lại thành chiếc đũa. Ba người cùng cười lớn. Lại một vị khách nói:
- Ðêm nay vui quá, nhưng uống vẫn chưa đã. Có thể đãi rượu tiếp chúng tôi trên cung nguyệt được chăng?
Ba người bàn rời chiếu tiệc bước vào dần trong trăng. Mọi người nhìn thấy rõ cả ba đang ngồi trong trăng uống rượu: râu, lông mày, đều trông thấy hết, như bóng hiện trong gương. Một chốc, ánh trăng mờ dần; đám học trò châm đèn mang đến thì một mình Ðạo Sĩ còn ngồi đấy mà khách đã biến đâu mất. Trên bàn thức nhắm hãy còn. Mà mặt trăng trên vách chỉ còn là miếng giấy tròn như tấm gương mà thôi. Ðạo Sĩ hỏi:
- Mọi người đã uống đủ cả chưa?
Các học trò cùng thưa:
- Ðủ cả.
- Ðủ rồi thì nên đi ngủ sớm, đừng làm lỡ việc kiếm củi ngày mai.
Chúng học trò đều "vâng" mà lui ra.

Vương lòng thầm thích thú, hâm mộ, bụng muốn về lại tiêu tan. Lại một tháng nữa, khổ không thể nào kham nổi, mà Ðạo Sĩ tuyệt không truyền dạy cho một phép nào. Sốt ruột không chờ được nữa, Vương bèn lên cáo từ rằng:
- Ðệ tử này vượt mấy trăm dặm đường đến đây thụ nghiệp với thầy; dẫu chẳng học được cái thuật trường sinh bất tử, thì cũng mong thầy cho chút gì gọi là tấm lòng cầu học. Thế mà qua hai ba tháng, chỉ những sáng đi kiếm củi, tối lại trở về. Hồi còn ở nhà, đệ tử chưa bao giờ phi chịu khổ như thế.
Ðạo Sĩ cười bảo:
- Ta vẫn nói là anh không kham nổi khó nhọc, nay đã quả nhiên. Sáng mai, sẽ cho anh về:
Vương nói:
- Ðệ tử làm lụng đã bao ngày, xin thầy dạy qua cho một thuật mọn, khỏi phụ công lao đệ tử lặn tới tới đây.
Ðạo Sĩ hỏi:
- Muốn học thuật gì?
Vương đáp:
- Thường thấy thầy đi đâu, tường vách không ngăn được. Chỉ xin một phép cũng đủ.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Su_sai/o%2014.jpg

Ðạo Sĩ cười nhận lời. Bèn đem một bí quyết truyền cho, bảo miệng đọc mấy câu thần chú xong rồi hô: "Vào đi!" Vương đối diện với một bức tường mà không dám vào. Ðạo sĩ lại nói:
- Cứ vào thử đi!
Vương theo lời, thong thả tiến lại, đến tường thì bị vấp. Ðạo Sĩ bảo:
- Cúi đầu, vào cho nhanh, đừng lần chần!
Vương quả quyết, đứng cách tường mấy bước, lao nhanh tới. Gặp tường, cảm thấy trống không có vật gì cả. Quay lại thì đã thấy mình ở bên kia tường rồi. Vương mừng quá, vào lạy tạ. Ðạo Sĩ bảo:
- Về nhà nên giữ mình đứng đắn, không thế thì phép không nghiệm nữa đâu.
Nói rồi cấp lộ phí cho mà về.

Ðến nhà, chàng khoe đã gặp tiên, tường vách dày đắn đâu cũng không ngăn được mình. Vợ không tin. Vương làm đúng như lời đạo sĩ đã dạy, đứng cách tường mấy bước, chạy ù vào. Ðầu đụng phải tường cứng, bỗng ngã lăn đùng. Vợ Vương đỡ dậy, nhìn xem, thấy trán đã sưng lên như một quả trứng lớn. Vợ Vương đưa ngón tay lêu lêu, diễu cho.

Vương vừa thẹn vừa ức, chỉ biết chửi lão Ðạo Sĩ bất lương mà thôi.
--------------------------------
Minh_nhat sưu tầm

thanh_long
09-12-2013, 10:26 AM
Truyện Vương Thành

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/liu%20trai%20ch%20d%203.jpg

Vương Thành, con nhà thế tộc lâu đời ở Bình Nguyên, tính lười biếng, sinh nhai ngày càng sa sút, chỉ còn mấy gian nhà nát, vợ chồng đêm nằm đắp mảnh vải bố, nhiếc móc nhau đũ điều. Bấy giờ là tiết đại thử, khí trời nung nấu. Trong làng có cái vườn cũ của họ Chu, tường vách đã đổ nát, chỉ còn một cái đình, người làng vẫn đến đấy ngủ nhờ, Vương cũng thế. Một hôm trời sáng , mọi người đi cả rồi, mặt trời đã lên cao ba con sào, Vương mới dậy, quanh quẩn muốn về, chợt thấy trong đám cỏ có chiếc thoa vàng, nhặt lên xem thấy có khắc mấy chữ nhỏ 'Phủ Nghi Tân chế tạo'. Ông nội của Vương là Nghi Tân trong phủ Hành. Những vật cũ trong nhà phần nhiều đều có dấu hiệu ấy, nên chàng nhân cầm chiếc thoa có dáng chần chừ. Bỗng có một bà cụ đến tìm thoa. Vương tuy nghèo nhưng tính vốn liêm khiết, liền đưa trả lại. Bà cụ mừng lắm, hết sức khen ngợi tấm lòng cao thượng, bà nói rằng:
- Chiếc thoa có đáng giá trị là bao, nhưng là chút kỷ vật của ông nhà tôi ngày xưa để lại.
Vương hỏi:
- Cụ nhà xưa là ai?
Ðáp rằng:
- Ðó là quan Nghi Tân, họ Vương tên Giản Chi đã quá cố.
Vương kinh ngạc, nói rằng:
- Ông nội tôi đấy! Sao mà gặp nhau với bà được?
Bà cụ cũng kinh ngạc nói:
- Anh là cháu cụ Vương Giản Chi đó sao? Ta là hồ tiên một trăm năm trước đây có trao duyên gắn bó với cụ cố nhà anh. Cụ cố mất đi, già này tu ẩn, đi qua đây đánh rơi chiếc thoa lại vào tay anh, đó chẳng phải là số trời hay sao? Vương cũng đã nghe nói ông nội mình có vợ hồ, cho nên tin lời bà cụ, bèn mời bà hạ cố đến nhà. Bà cụ theo về, Vương gọi vợ ra chào; áo rách bù đầu, sắc mặt đói ăn tối sầm.
Bà cụ than rằng:
- Ôi! Con cháu Vương Giản Chi mà nghèo khổ đến thế này sao?
Lại nhìn về phía cái bếp lạnh tanh không có khói lửa mà nói:
- Gia thế như thế này thì lấy gì mà sống?


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Co_su/5.jpg

Người vợ bèn kể hết nỗi khổ, nghẹn ngào sướt mượt. Bà cụ đưa chiếc thoa cho chị vợ, bảo hãy cầm cho người ta lấy tiền để đong gạo, rồi ba ngày nữa bà sẽ đến thăm. Vương cố giữ lại, bà nói:
- Anh có một vợ mà nuôi không nổi; ta ở lại đây thì chỉ ngồi mà ngắm xà nhà chứ có ích gì?
Nói xong đi liền. Vương kể lại đầu đuôi, người vợ sợ quá. Vương ngợi khen tấm lòng ân nghĩa của cụ và bảo vợ phải thờ bà như mẹ. Người vợ xin vâng. Qua ba ngày, quả nhiên bà già lại đến, đưa ra mấy đồng vàng để đong lúa và mạch, mỗi thứ một thạch. Tối đến, bà cụ và người vợ nằm chung một cái giường bé. Chị vợ lúc đầu còn sợ, nhưng xét thấy tình rất mực ân cần, nên cũng không ngờ nữa. Ngày hôm sau, bà cụ bảo Vương rằng:
- Cháu đừng lười, nên tìm một nghề mọn mà làm, chứ ngồi không mà ăn thì lâu thế nào được?
Vương nói mình không có vốn liếng gì cả. Bà đáp:
- Khi ông nội nhà anh đang còn, thì vàng lụa tha hồ mà lấy, vì ta không phải là người trần, không dùng đến những thứ ấy, nên cũng không lấy nhiều, chỉ dành giữ món tiền phấn sáp được bốn mươi lạng vàng, đến nay vẫn còn, tàng trữ cũng chẳng làm gì. Anh hãy đem đi mà mua vải cát cho hết, rồi mang gấp vào kinh thành, có thể có chút lãi. Vương theo lời, đi mua hơn năm mươi tấm mang về. Bà cụ giục thu xếp hành trang, tính rằng sáu, bảy ngày có thể đến Yên Kinh. Dặn rằng:
- Chớ lười, nên siêng! Chớ hoãn nên kíp! Chậm trễ một ngày ăn năn chẳng kịp.
Vương xin kính vâng, xắp hàng vào bao tải rồi lên đường. Giữa đường đi gặp mưa, áo giày ướt sũng. Suốt đời Vương chưa từng dầu dãi gió dầm sương. Vì vậy mệt rũ, chịu không thấu bèn vào nhà trọ tạm nghỉ. Ngờ đâu mưa cứ tầm tã mãi đến chiều hôm, nước trên rèm chảy xuống như thừng. Qua một đêm, đường càng lầy lội, người đi ngập đến cổ chân. Vương trong lòng nản lắm. Chờ mãi đến giờ ngọ, đường mới hơi khô, nhưng mây đen lại kéo lên, rồi trời lại mưa to. Phải ngủ đến hai đêm ở nhà trọ mới đi được. Gần đến kinh, nghe đồn giá vải lên cao vọt, trong lòng mừng thầm. Vào kinh nghỉ ở quán trọ. Chủ quán lấy làm tiếc là Vương đến chậm. Trước đó đường giao thông với phía Nam vừa mới được mở, vải cất đến rất ít, các nhà buôn lớn ở kinh đô mua khá nhiều, giá cao gấp ba so với thường ngày, nhưng một ngày trước thì hàng vải ùn đến giá bỗng xuống rất thấp, những người đến sau thất vọng. Chủ quán nói rõ đầu đuôi cho Vương biết, Vương ưu uất không vui. Qua một ngày qua, vải cát đến càng nhiều, giá càng xuống. Vương cho là không có lãi, không chịu bán. Nấn ná đến hơn mười ngày, tiền cơm chưa tính ra đã tốn nhiều, nghĩ càng thêm lo buồn. Chủ quán khuyên Vương nên bán rẻ đi, để xoay cách khác. Vương nghe theo bán tháo hết, lỗ vốn mười lượng. Sáng dậy, soạn sửa ra về, mở đẫy ra xem thì bạc đã mất rồi. Hoảng loạn lên báo với chủ quán. Chủ quán không biết làm thế nào. Có kẻ bảo Vương lên kêu quan, bắt chủ quán bồi thường, Vương than rằng:
- Ấy là cái số của ta, chứ chủ quán có lỗi gì?
Chủ quán nghe vậy, rất mến tấm lòng trung hậu của Vương, tặng năm lạng vàng, kiếm lời an ủi, khuyên về. Vương nghĩ bụng, không còn mặt mũi nào gặp lại bà tổ mẫu, loanh quanh hết ra lại vào, tiến thoái đều khó. Chợt thấy có người chọi chim Thuần, mỗi lần chọi đặt cuộc đến mấy ngàn, mua mỗi con chim Thuần nhiều khi hơn một trăm đồng tiền. Chàng bỗng nảy ra một , tính nhẩm tiền còn trong đáy, may ra chỉ đủ buôn chim Thuần, bèn đem cái này bàn với chủ quán. Chủ quán khuyến khích tận tình, lại hứa cho ở nhờ nhà trọ, ăn uống không phải trả tiền, Vương mừng lắm, bèn ra đi, mua đầy một gánh chim Thuần đem về trong thành. Chủ quán cũng mừng, chúc cho bán được nhanh. Ðến đêm, mưa to mãi đến mờ sáng. Khi trời đã sáng hẳn, nước trên đường cái như sông, mà trời vẫn rả rích mưa. Ngồi chờ tạnh liên miên mấy ngày, mưa không ngớt hột. Dậy nhìn chim Thuần trong lồng thì đã chết mất nhiều. Vương sợ lắm, không biết làm thế nào. Sang ngày sau, chết càng nhiều, chỉ còn được mấy con, đem bỏ chung vào một lồng để nuôi. Qua đêm, lại ra thăm thì vẻn vẹn còn được một con, bèn chạy vào nói với chủ quán, bất giác ứa nước mắt, chủ quán cũng thương cảm. Vương tự liệu, tiền hết không về được, chỉ muốn tìm đường chết. Chủ quán khuyên giải an ủi, rồi cùng nhau ra xem con chim còn lại, ngắm nghía rất kỹ, nói rằng:
- Ðây hình như là một con chim quí ! Những con kia mà chết biết đâu không phải là bị con này chọi chết? Anh bây giờ cũng rỗi không có việc gì, hãy chăm chút tập tành cho nó. Nếu quả là con chim hay, thì mang nó đi đánh cũng mưu sinh được. Vương nghe theo. Khi con chim đã thuần thục, chủ quán bảo đem ra đường phố, đánh cuộc lấy rượu thịt. Chim khoẻ lắm, luôn luôn thắng. Chủ quán mừng, đưa tiền cho Vương, bảo đem ra quyết ăn thua với đám con em trong làng chơi chim Thuần ở kẻ chợ. Ba lần chọi ba lần đều thắng. Chừng nửa năm, góp nhóp được hai mươi lạng vàng, trong lòng cũng được an ủi, xem con chim như tính mệnh của mình.

Còn nữa...

thanh_long
09-12-2013, 10:30 AM
Truyện Vương Thành

Tiếp theo...


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Co_su/ha%205.jpg

Thuở đó có một vị Thân Vương rất thích chim Thuần; mỗi năm gặp tiết thượng nguyên, thách dân gian ai có nuôi chim Thuần thì đem đến phủ đệ để chọi. Chủ quán bảo Vương rằng:
- Giờ đây, cái cơ đại phú đã có thể đến ngay rồi đấy. Chỉ có điều không biết vận may của anh như thế nào thôi!
Bèn nói rõ sự tình và đem Vương cùng đi, dặn rằng:
- - Ví thử có thua thì nín hơi mà đi ra thôi! Còn như vạn nhất con Thuần mình đấu thắng thì Thân Vương thế nào cũng hỏi mua, anh đừng nhận bán; nếu gạn hỏi thì cứ nhìn vào cái đầu của tôi, chờ khi nào đầu tôi gật thì hẵng ngả giá!
Vương nói:
- Ðược!
Vào đến phủ thì thấy những người chọi chim sát vai nhau đứng cả ở dưới thềm. Chốc lát Thân Vương ngự ra trên điện, tả hữu truyền rằng có ai muốn chọi thì cho lên. Liền có một người xách lồng bước bậc mà lên trên điện. Thân Vương sai thả chim Thuần ra. Khách cũng thả. Mới nhảy đá qua loa, con chim của khách đã thua chạy. Thân Vương cả cười. Chỉ một lúc, người đến chọi mà thua đã có đến mấy vị. Chủ quán nói:
- Ðến lúc rồi!
Bèn cùng nhau bước tới bậc mà lên. Thân Vương xem tướng con chim của Vương mà nói:
- Tròng mắt có vằn máu giận dữ, cũng là một cánh hùng kiện đây! không nên khinh địch.
Bèn truyền lệnh cho đem con Mỏ Sắt ra nghênh chiến. Mới nhảy vọt đấu đá vài lần mà con chim của Thân Vương đã sả cánh. Lại chọn một con chim giỏi hơn đem ra, hai lần đổi, hai lần thua. Thân Vương cấp tốc truyền lệnh vào lấy con Ngọc Thuần của nội cung. Một lát mới thấy đem ra, lông trắng như cò, thần khí hùng dũng khác thường. Vương Thành thấy thế, trong lòng nao núng, bèn quỳ xuống xin thôi, nói rằng:
- Con chim của Ðiện Hạ là chim thần, sợ đánh giết mất chim tôi thì tôi sạt nghiệp mất!
Thân Vương cười rằng:
- Cứ thả ra cho nó chọi, chẳng may nó chết thì ta sẽ đền bù cho thật hậu.
Thành bèn thả chim mình ra. Con Ngọc Thuần xông thẳng đến. Nhưng khi Ngọc Thuần đang chạy tới thì con Thuần của Vương nằm phục xuống như con gà dữ để đợi. Con Ngọc Thuần mổ vào nó thật mạnh, nó liền nhảy phắt lên như con hạc bay liệng để đánh lại. Khi tiến, khi lui, khi trên, khi dưới, cầm cự với nhau áng chừng một khắc, thì con Ngọc Thuần lơi dần, mà con Thuần của chàng giận càng sôi, đánh đá càng gấp. Chẳng mấy chốc bộ lông tuyết của Ngọc Thuần rụng xơ ra, rồi sã hai cánh chạy trốn. Cả ngàn người đứng xem, không ai là không tấm tắc khen ngợi. Vị Thân Vương bèn bảo bắt nó lên, thân hành cầm lấy xem xét một lượt từ đầu mỏ đến móng chân, rồi hỏi Thành rằng:
- Con chim này anh có bán không?
Thành đáp:
- Tiện nhân nghèo khó, phải nương nhờ vào nó mà sống, không dám bán.
Thân Vương nói:
- Ta trả giá cao, anh sẽ có một gia tư bậc trung, có bằng lòng không?
Thành cúi đầu suy nghĩ giây lâu mới nói:
- Thật quả không muốn để lại, nhưng nay Ðiện Hạ đã yêu thích nó; nếu khiến cho tiện dân được có ăn mặc, thì còn đòi gì hơn.
Thân Vương hỏi giá, Thành xin ngàn lạng vàng. Thân Vương cười rằng:
- Cái anh ngốc này, nào có phải châu ngọc gì mà giá ngàn vàng?
Vương nói:
- Ðiện hạ không cho nó làm báu, nhưng với hạ thần thì ngọc bích liên thành cũng chẳng bằng!
Thân Vương hỏi:
- Thế nào?
Thành đáp:
- Tiện dân đem nó ra chợ, mỗi ngày được vài đồng, đổi thưng đấu gạo, một nhà mười miệng ăn, nhờ đó mà không đến nỗi đói rét, còn của báu nào bằng?
Thân Vương nói:
- Tôi không để anh thiệt đâu, thôi trả anh hai trăm đồng.
Thành lắc đầu; lại trả thêm một trăm. Thành đưa mắt nhìn chủ quán. Chủ quán không động đậy. Thành bèn nói:
- Thưa mệnh Ðiện Hạ, xin bớt một trăm.
Thân Vương nói:
- Thế thì thôi vậy, ai đời lại đem chín trăm lạng đổi lấy một con chim Thuần bao giờ?
Thành xách lồng chim lên định đi thì Thân Vương gọi:
- Này anh chọi chim, lại đây! Lại đây! Tôi dứt khoát trả anh sáu trăm đồng. Bằng lòng thì để, không bằng lòng thì thôi vậy!
Thành lại đưa mắt về phía chủ quán. Chủ quán vẫn điềm nhiên. Ý nguyện của Thành đã hoàn toàn thoả mãn, chỉ sợ nhỡ mất thời cơ, bèn nói:
- Với cái giá của Ðiện Hạ, thật không hài lòng, nhưng đã y ước với nhau mà lại không xong, sợ mắc lỗi thất kính càng lớn cực chẳng đã, xin y theo mệnh lệnh của Ðiện Hạ.
Thân Vương mừng rỡ, cho người cân vàng đưa ngay, Thành nhận vàng, lạy tạ mà đi ra. Chủ quán giận, trách rằng:
- Tôi bảo anh thế nào mà đã vội vã bán đi như thế ? Nếu kéo thêm một chút nữa thì đã có tám trăm cầm tay rồi!
Thành về nhà trọ, đặt vàng lên án mời chủ quán tự lấy. Chủ quán không chịu, Thành ép mãi mới đem bàn tính ra, tính toán đủ tiền phí tổn ăn uống mà nhận.
Thành xắp đặt hành lý ra về. Ðến nhà, thuật lại những việc đã làm, bỏ vàng ra cùng mừng với nhau. Bà cụ bảo tậu ba trăm mẫu ruộng tốt, dựng nhà cửa, sắm đồ đạc, nghiễm nhiên là một thế gia. Bà cụ dậy sớm, đôn đốc cho Thành trông nom việc cày bừa, vợ trông nom việc canh cửi, hơi lơ là thì quát tháo, mà vợ chồng vẫn không hề oán thán. Qua ba năm, nhà càng giàu, bà cụ ngỏ ý muốn đi, vợ chồng cố giữ lại, đến chảy nước mắt. Bà bèn ở lại nhưng sáng hôm sau vào hầu, thì đã mất hút.
---------------------------------------------

bach_ho
09-12-2013, 11:59 PM
Hồng Ngọc


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/giao_hop_tu_the/sex%204.jpg

Ông cụ họ Phùng người Quảng Bình có một con trai tên chữ là Tương Như. Hai bố con cùng là Chư sinh. Ông Phùng tuổi gần sáu mươi, tính ương ngạnh mà nhà vẫn thiếu thốn. Trong khoảng vài năm, vợ và con dâu lại cùng mất cả, việc cơm nước đều phải tự làm lấy.
Một đêm, Tương Như ngồi dưới bóng trăng, chợt thấy người con gái láng giềng từ bên kia tường nhòm sang. Chàng nhìn thấy đẹp, đến gần thấy hé cười, lấy tay vẫy, không đến, cũng không di, cố nài mãi mới trèo thang sang. Liền ăn nằm với nhau. Hỏi họ tên, cô gái nói:
- Thiếp là con gái nhà láng giềng, tên là Hồng Ngọc.
Chàng rất yêu, xin cùng nàng tính chuyện lâu dài. Cô gái nhận lời. Từ đấy, đêm đêm thường đi lại, được độ nửa năm. Một đêm, ông Phùng thức dậy, nghe có tiếng con gái cười nói, nhòm vào gian nhà của con thì nhìn thấy cô gái. Giận lắm, gọi chàng ra mắng:
- Ðồ súc sinh, làm cái trò gì thế? Cửa nhà sa sút như thế, còn không biết chịu khó gìn giữ, lại còn học thói đàng điếm ư? Người ta biết ra thì phẩm hạnh của mày còn ra gì nữa! Dẫu người ta không biết thì tuổi thọ của mày cũng giảm.
Chàng quỳ xuống nhận lỗi, khóc xin hối cải. Ông cụ mắng cô gái:
- Con gái không biết giữ phép buồng khuê, đã nhuốc mình lại làm nhuốc cả người. Nếu việc vỡ lở ra, hẳn không chỉ một mình nhà này xấu hổ.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/giao_hop_tu_the/t%20th%205.jpg
Con gái không biết giữ phép buồng khuê, đã nhuốc mình lại làm nhuốc cả người.

Mắng xong, bực tức trở về nhà ngủ. Cô gái chảy nước mắt nói:
- Lời bố quở trách thật là thẹn nhục! Duyên phận hai ta thôi thế là hết.
Chàng nói:
- Còn cha, con không được tự quyết định. Nếu nàng còn có tình, thời nên cố gắng ngậm tủi làm lành.
Cô gái muốn quyết tuyệt. Chàng nghe, sa nước mắt. Cô gái lại khuyên giải, nói:
- Thiếp với chàng không có lời của mối lái, không có lệnh của cha mẹ, chỉ là trèo tường chui gạch mà theo nhau, thì sao có thể cùng nhau đầu bạc được? Vùng này có một người tốt đôi với chàng, có thể hỏi làm vợ.
Chàng phàn nàn nhà nghèo, cô gái nói:
- Tối mai xin đợi, tôi sẽ mưu tính cho.
Ðêm hôm sau, cô gái quả nhiên đến, bỏ bốn mươi lạng bạc ra tặng chàng, nói rằng:
- Cách đây sáu mươi dặm, ở thôn Ngô có người con gái họ Vệ, tuổi đã mười tám, còn cao giá nên chưa ai lấy; chàng đưa nhiều tiền thì ắt phải xong việc.
Nói xong, từ biệt mà đi. Chàng tựa lúc thuận tiện, thưa với bố, muốn xin đi xem mặt, nhưng câu chuyện số tiền thì giấu đi, không dám nói cho bố biết. Ông Phùng tự lượng nhà nghèo, lấy cớ đó gạt đi. Chàng lại tìm lời ôn tồn nói với bố cứ thử đến xem cho biết thôi. Ông cụ gật đầu.
Chàng bàn thuê đầy tớ và người ngựa đi đến nhà họ Vệ. Vệ vốn là người làm ruộng. Chàng gọi ra ngoài nói chuyện riêng. Vệ biết chàng là con nhà dòng, lại thấy dáng vẻ đàng hoàng, trong bụng đã bằng lòng, nhưng còn ngại chàng kỳ kèo tiền nong chăng. Chàng nghe ông cụ nói ngập ngừng, đã biết, bèn dốc tiền trong túi ra, bày trên bàn. Vệ mừng, nhờ người học trò bên láng giềng đứng giữa, viết tờ giấy đỏ mà giao ước với nhau. Chàng vào nhà chào lạy cụ, thấy nhà cũng chật hẹp, cô gái đứng nấp sau mẹ. Chàng đưa mắt nhìn, tuy ăn mặc xuềnh xoàng mà thần sắc tinh anh rực rỡ, bụng mừng thầm. Vệ mượn tạm nhà bên để tiếp đãi chàng rể và nói:
- Công tử không cần đón dâu, đợi may được ít quần áo sẽ đưa đến tận nơi
Chàng liền hẹn ngày rồi về, nói dối với bố rằng:
- Họ Vệ mến nhà ta dòng dõi thanh bạch nên không đòi tiền.
Ông cụ cũng mừng. Ðến ngày hẹn, Vệ quả đưa cô gái đến. Cô gái siêng năng dè sẻn, lại thuần tục nết na, tình nghĩa vợ chồng thật là thắm thiết. Hơn hai năm sau, sinh được một con trai, đặt tên là Phúc Nhi.
Nhân ngày tết Thanh Minh, bố con đi thăm mộ, gặp kẻ thân hào trong huyện họ Tống. Tống nguyên làm quan Ngự Sử trong triều, phạm tội tham tang, phải cách chức về làng, những vẫn giương oai hà hiếp người. Hôm đó cũng đi thăm mộ về, thấy cô gái cho là đẹp, hỏi người trong thôn biết là vợ chàng. Nghĩ Phùng là học trò nghèo, đem nhiều của ra dụ dỗ, có thể làm cho đổi lòng. Liền sai người bắn tin cho chàng. Chàng nghe thấy, giận hiện ra mặt, rồi lại nghĩ thế không địch nổi với Tống, bàn nén giận làm vẻ tươi cười, về nói với bố. Ông Phùng giận lắm, chạy ra trước mặt người nhà họ Tống, trỏ trời vạch đất mắng nhiếc tàn tệ. Tên người nhà ôm đầu lủi đi mất. Họ Tống cũng tức giận, sai mấy đứa xông vào nhà chàng, đánh cả bố lẫn con, làm sôi sùng sục. Cô gái nghe thấy, bỏ con xuống giường, xoã tóc chạy ra kêu cứu. Chúng bèn cướp lấy, khiêng lên rồi ầm ầm kéo đi. Hai bố con bị đánh sụm, rên rĩ trên đất; đứa bé khóc oe oe trong nhà. Hàng xóm láng giềng cùng thương hại, xóc đỡ đặt lên giường. Qua ngày sau, chàng chống gậy mới đứng lên được, còn ông cụ thì tức giận không ăn rồi thổ huyết mà chết.
Chàng lăn khóc, ẵm con đi kiện Ðốc Phủ. Kiện hầu khắp mọi nơi, rút cục vẫn không thắng, sau lại nghe nói vợ không chịu khuất phục mà chết, lại càng đau xót. Khí oan đầy bụng, không lối nào giãi bày được. Thường nghĩ muốn đón đường đâm Tống chết, nhưng lo đầy tớ nó đông, con nhỏ, lại không gửi được. Ngày đêm buồn bã nghĩ ngợi, hai mắt không chớp nổi.
Chợt có một người đàn ông đến viếng nhà, râu quăn, hàm bạnh, xưa nay chưa từng quen. Chàng mời ngồi, toan hỏi họ tên quê quán, khách đã vội nói trước:
- Ông có cái thù người ta giết mất bố, cướp mất vợ mà không báo ư?
Chàng ngỡ là người của Tống sai đến dò hỏi, nên chỉ trả lời ậm ừ cho xong. Khách giận, mắt trợn tròn muốn rách khóe, liền bước ra nói:
- Tôi tưởng anh là người, nay mới biết anh là thằng hèn không đáng đếm xỉa.
Chàng xét thấy có cái gì là lạ, liền quỳ xuống, kéo áo khóc nói rằng:
- Thực ra vì sợ là người nhà họ Tống đến dò la, nay xin giãi bày hết tâm can. Cái điều nằm gai nắm mật của tôi, kể đã nhiều ngày rồi vậy; chỉ thương hòn máu trong bọc này, sợ rồi tuyệt tự mất. Ngài là bậc nghĩa sĩ, liệu có thể vì tôi mà bảo toàn hòn máu này được chăng?


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Vo_lam/Trung_quoc/qui%20nhn%20.jpg

Khách nói:
- Ðó là việc của đàn bà con gái, tôi không làm được. Cái việc ông muốn nhờ người, xin hãy tự làm lấy, còn cái việc ông muốn tự làm thì tôi xin làm thay cho.
Chàng nghe nói, đập đầu xuống đất. Khách chẳng thèm ngoái lại, bỏ đi ra. Chàng chạy theo hỏi họ tên, đáp rằng:
- Việc không xong, không oán; việc xong không nhận ơn.
Rồi đi liền.
Chàng sợ vạ đến mình, ẵm con đi trốn. Ðến đêm, cả nhà họ Tống đang ngủ, có người vượt qua mấy lần tường, giết ba cha con nhà Ngự Sử với một thị tì, một con dâu. Nhà họ Tống làm tờ trạng cáo quan, quan rất kinh hãi. Tống cố vu cho Tương Như. Vì thế quan cho lính đi bắt chàng. Chàng trốn không ai biết là đi đâu, vì thế càng cho là thật. Ðầy tớ nhà họ Tống cùng với nhà quan đi lùng khắp nơi, đêm đến núi Nam Sơn, nghe có tiếng trẻ khóc, lần tìm ra được, liền trói mang về. Ðứa bé càng khóc dữ, chúng liền giật lấy vứt đi. Chàng oan ức muốn chết. Khi gặp quan lệnh ở huyện, quan hỏi tại sao giết người? Chàng thưa:
- Thực là oan! Nhà họ Tống chết về đêm, tôi ra đi từ ban ngày; vả lại ẵm đứa nhỏ khóc oe oe như vậy thì leo tường giết người sao được?
Quan lệnh nói:
- Không giết người sao lại đào tẩu?
- Chàng đuối lý, không biện bạch được nữa. Liền giam vào ngục. Chàng khóc nói rằng:

- Tôi chết cũng không tiếc nhưng đứa bé mồ côi kia có tội tình gì?
Quan lệnh nói:
- Mày giết con người ta đã nhiều, thì giết con mày còn oán gì nữa?
Chàng bị lốt áo mũ nho sinh lại bị cùm kẹp, đánh đập khổ sở nhưng cũng không xưng nhận điều gì. Quan lệnh đêm hôm ấy nằm ngủ bỗng nghe có vật gì cắm phập vào giường, kêu bần bật thành tiếng, sợ quá kêu lên. Cả nhà giật mình thức dậy, xúm lại đốt đuốc soi, thấy một con dao ngắn lưỡi sắc nhọn sáng loáng, găm vào giường, sâu xuống gỗ đến hơn một tấc, chặt cứng không thể rút ra được. Quan lệnh trông thấy, sợ hết hồn vía, cho người cầm giáo đi lùng khắp nơi cũng không thấy tung tích gì cả. Bụng cũng nản, lại nghĩ: người nhà họ Tống đã chết rồi, không có gì phải kiềng họ nữa, bàn trình bẩm lên quan trên để giải oan cho chàng rồi tha về.
Chàng về đến nhà, trong hũ không còn một đấu gạo, một mình một bóng ngồi trông bốn bức tường mà thôi. May được nhà hàng xóm thương xót cho ăn uống, tạm bợ sống qua ngày. Nghĩ đến cái thù lớn đã trả được thì mừng đến tươi tỉnh lại; nhưng nghĩ đến cái hoạ thảm khốc, suýt nữa chết cả một nhà thì nước mắt lại đầm đìa sa xuống; lại nghĩ nửa đời nghèo xác dòng dõi không ai nối, thì ở nơi vắng người bỗng khóc rống lên, khản cả tiếng không tự nén giữ được.

Còn nữa...

bach_ho
10-12-2013, 12:07 AM
Hồng Ngọc
Tiếp theo...


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/chn%20tuyt%20.jpg
Hồ ly...

Như thế chừng nửa năm, việc bắt bớ cũng nhạt dần, bàn kêu xin với quan huyện được mang hài cốt họ Vệ về. Chôn cất xong, đau xót muốn chết. Một mình trằn trọc trên giường, nghĩ không còn cách gì để sống. Bỗng có người gõ cửa, chàng chú lắng nghe, thấy ngoài cửa có tiếng một người đang nói chuyện với trẻ con. Chàng vội dậy, dòm xem thì hình như một người con gái. Cánh cửa vừa mở, liền hỏi:
- Cái oan lớn đã được rửa, may không việc gì chứ?
Tiếng nói nghe quen lắm,mà trong lúc thảng thốt không thể nhớ được. Ðánh lửa soi thì ra Hồng Ngọc, dắt một đứa nhỏ cười đùa ở dưới đầu gối. Chàng chẳng kịp hỏi, ôm lấy cô gái mà khóc oà. Cô gái cũng thảm đạm lắm. Rồi đẩy đứa bé mà nói:
- Mày quên bố mày rồi ư?
Ðứa bé nắm lấy áo cô gái, mắt chòng chọc nhìn chàng. Chàng nhìn kỹ thì ra Phúc Nhi. Giật mình kinh hãi, khóc mà nói rằng:
- Sao con lại về đây được?
Cô gái nói:
- Nói thực với chàng, trước kia thiếp nói là con gái bên láng giềng là nói dối đấy, thiếp thực là hồ. Nhân đi đêm thấy tiếng trẻ khóc trong hang, liền bế về nuôi ở Tần. Nghe nạn lớn đã yên nên đem con về cùng chàng đoàn tụ.
Chàng gạt nước mắt lạy tạ. Ðứa bé ngồi trong lòng cô gái y như nương tựa vào mẹ đẻ, thật không nhận ra bố nữa. Trời chưa sáng, cô gái đã trở dậy. Hỏi thì đáp:
- Kẻ hèn mọn này muốn đi đây.
Chàng chưa mặc áo, quỳ ở đầu giường, khóc không ngẩng mặt lên được nữa. Cô gái cười nói rằng:
- Thiếp nói dối chàng đấy. Nay nhà đương gây dựng lại, không thức khuya dậy sớm sao được?
Rồi phát cỏ, quét dọn, làm như đàn ông vậy. Chàng lo nhà nghèo túng, không thể đủ ăn. Cô gái nói:
- Chỉ xin chàng cứ việc buông màn đọc sách không phải hỏi đến thiếu đủ, may không đến nỗi chết đói nào.
Rồi bỏ tiền sắm khung cửi dệt vải, lại thuê vài mươi mẫu ruộng, mướn người cày cấy, vác phạng đi phát tranh, kéo lá lợp nhà, hàng ngày như thế, coi là việc thường. Làng xóm nghe nói có vợ hiền càng vui lòng giúp đỡ. Chừng nửa năm sau, cảnh nhà thịnh vượng, như thể một nhà giàu lớn.
Một hôm chàng nói:
- Sau lúc tro tàn, nhờ mình tay trắng gây dựng lại, nhưng còn một việc chưa được thoả mãn, biết làm thế nào?
Hỏi là việc gì, chàng đáp:
- Kỳ thi sắp đến, mà khăn áo chưa lấy lại được?
Cô gái cười nói:
- Trước đây thiếp đã lấy bốn lạng vàng gửi lên quan quảng văn đã lấy lại được tên vào sổ. Ðợi chàng nhắc thì đã lỡ lâu rồi còn gì?


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/cng%20sinh%202.jpg

Chàng càng cho là thần. Khoa ấy, chàng đỗ thi Hương. Bấy giờ tuổi vừa ba mươi sáu, ruộng tốt liền bờ, nhà cửa cao rộng. Cô gái người vẫn mảnh dẻ tưởng như gió thổi là bay, mà làm lụng quá con nhà nông. Tuy mùa đông rét buốt vẫn chịu khó làm, mà bàn tay vẫn mềm mại như mỡ đông. Tự nói là ba mươi tám tuổi, người ta trông chỉ chừng đôi mươi.

Bach_ho sưu tầm và giới thiệu

thanh_long
03-01-2014, 10:36 AM
ĐẠI LỰC TƯỚNG QUÂN
*
* *
Suy tiêu khất thực thán duyên môn
Mạt lộ anh hùng dục đoạn hồn
Phú quý túng nhiên ngô tự hữu
Cảm vong đương nhật giải thôi ân.

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Co_su/v%20quan%20.jpg

Huyện Hải Ninh, tỉnh Triết Giang có cử nhân Tra Y Hoàng, làm nghề dạy học. Trong huyện có ngôi chùa Trường Minh. Ở cổng chùa, có một cỗ chuông cổ, gồm hai nửa thượng hạ, trông tựa hai cối đá úp chồng lên nhau.

Tiết Thanh Minh năm ấy, trên đường đi tảo mộ về, tiên sinh dẫn đám gia nhân ghé thăm chùa. Thấy trên cỗ chuông ở cổng chùa có nhiều dấu tay lấm bùn, tiên sinh nghi là có người cất giấu vật gì ở bên trong. Cúi nhìn qua kẽ hở giữa hai nửa chuông, thấy ở bên trong có một cái sọt, không biết chứa vật chi, tiên sinh liền sai đám gia nhân xúm lại nhấc nửa chuông lên coi. Vì nặng quá, chúng nhấc không nổi, tiên sinh bèn bảo chúng dừng tay, rồi dẫn chúng vào chùa ngồi uống trà.

Lát sau, có một gã hành khất đem cơm tới cổng chùa, để ở chân chuông, tay phải nhấc bổng nửa chuông, nhẹ như nhấc chiếc lồng bàn, tay trái nhặt cơm bỏ vào sọt, rồi đậy chuông lại, bỏ đi. Thấy gã hành khất có đại lực phi thường, mọi người trong chùa đều hết sức kinh ngạc. Lát sau, gã trở lại, nhấc nửa chuông lên, lấy cơm ra ăn, rồi đậy chuông lại như cũ.

Tiên sinh bèn gọi gã lại gần mà hỏi:"Là nam tử khoẻ mạnh, sao không chịu đi làm, mà lại đi hành khất?" Gã đáp:"Thưa tiên sinh, trước kia tiểu nhân vẫn đi làm, được người ta cho ăn và trả lương, nhưng vì tiểu nhân ăn khỏe quá nên người ta cho nghỉ việc!" Thấy gã l¬ễ độ, tiên sinh khuyên:"Có đại lực phi thường như thế thì nên xin gia nhập binh đội triều đình, có thể hy vọng mai sau sẽ làm lớn!" Gã buồn rầu đáp:"Thưa tiên sinh, tiểu nhân còn ít tuổi, có quen biết ai đâu mà nhờ tiến dẫn?" Tiên sinh nói:"Muốn có người tiến dẫn thì theo ta về nhà, ta sẽ thu xếp cho!" Gã mừng lắm, bèn theo tiên sinh về nhà.
Tới nhà, tiên sinh bảo gã đi tắm rửa, rồi sai gia nhân lấy quần áo mới cho gã mặc, lấy cơm thịt cho gã ăn. Lát sau, gia nhân lên trình với tiên sinh rằng gã ăn khỏe lắm, gấp 5 người bình thường.

Hôm sau, tiên sinh viết thư cho một bạn đồng nghiệp ở kinh đô là tiên sinh họ Hạ, nhờ Hạ tiên sinh tiến dẫn gã với tướng quân họ Trịnh, xin cho gã được gia nhập binh đội triều đình. Viết xong, tiên sinh trao bức thư cho gã, dặn gã đem lên kinh đô trao cho Hạ tiên sinh, rồi cho gã lộ phí ăn tiêu ở dọc đường. Gã nhận tiền và thư rồi sụp xuống lạy tạ tiên sinh mà lên đường. Sau khi gã đi rồi, tiên sinh không để ý chi tới tin tức về gã nữa.

Mười hai năm sau.

Triều đình bổ nhậm một vị tiến sĩ, họ Tra, đi nhậm chức quan tể huyện Tấn Giang, tỉnh Phúc Kiến. Tới nơi, Tra công thấy có một tướng quân họ Ngô, tên Lục Kỳ đến chào mình. Trong khi đàm đạo, tướng quân hỏi Tra công:"Được biết đại quan quán tại huyện Hải Ninh, tỉnh Triết Giang, tiểu chức dám hỏi đại quan có liên hệ chi với tiên sinh Tra Y Hoàng ở đó chăng?" Ngạc nhiên, Tra công đáp:"Tiên sinh là bào đệ của gia phụ. Nhưng sao tướng quân lại biết tiên sinh?" Lục Kỳ đáp: "Vì tiểu chức là học trò cũ của tiên sinh! Tuy đã xa cách tiên sinh 12 năm nay nhưng lúc nào tiểu chức cũng nhớ tới tiên sinh! Tiểu chức xin phiền đại quan cho tiểu chức gửi lời kính thăm tiên sinh!" Thầm nghĩ học trò của thúc phụ mình chỉ làm quan văn chứ đâu có ai làm quan võ, Tra công cho là tướng quân này vọng ngôn nên chỉ ậm ừ cho qua.

Ít lâu sau, tiên sinh tới Phúc Kiến thăm cháu. Một hôm, nhân lúc trà dư tửu hậu, chợt nhớ tới chuyện tướng quân Ngô Lục Kỳ gửi lời hỏi thăm chú, Tra công bèn thuật lại với tiên sinh. Nghe xong, tiên sinh cố nhớ xem mình có người học trò cũ nào họ Ngô, tên Lục Kỳ hay không thì không nhớ ra người nào có tính danh như thế.

Nghe tin tiên sinh tới Phúc Kiến, tướng quân mừng lắm, vội viết ngay một lá thư, sai gia nhân đánh xe ngựa đưa tới nhà Tra công, xin Tra công cho phép mình được mời tiên sinh tới nhà mình ở chơi một tuần. Vì muốn biết tướng quân là ai, tiên sinh nhận lời, rồi sắm sửa hành trang, lên xe tới nhà tướng quân. Tới nơi, thấy tướng quân đứng chờ ở ngoài cổng, tiên sinh chú mục nhìn. Không thể nhớ ra tướng quân là ai, tiên sinh thầm nghĩ chắc tướng quân lầm mình với một vị giáo thụ khác! Trái lại, khi nhìn thấy tiên sinh, tướng quân tỏ ra rất quen thuộc, khom lưng cúi chào, cung kính mời vào nhà. Tiên sinh đáp lễ¬ rồi theo vào.
Qua bốn lần cổng, tới một sân rộng, thấy có đàn bà con gái, tiên sinh đứng khựng lại. Tướng quân vội giơ tay ra hiệu, mời tiên sinh cứ bước lên sảnh đường.
Vào sảnh đường, tướng quân sai một toán tì nữ cuốn rèm kê ghế, rồi đưa tay ra hiệu, mời tiên sinh lên ngồi trên chiếc ghế cao. Tiên sinh toan hỏi xem tướng quân có lầm mình với vị giáo thụ nào khác hay không thì chợt thấy tướng quân truyền lệnh cho tì nữ đem triều phục ra sảnh đường. Thấy lạ, muốn chờ xem tướng quân làm gì, tiên sinh thôi không hỏi nữa.

Lát sau, khi tì nữ đem triều phục ra sảnh đường, tướng quân bèn tới đỡ lấy, mặc vào người. Toán tì nữ vội xúm quanh tướng quân mà chỉnh lại mũ áo. Đột nhiên, tướng quân sai gia nhân trải chiếu trước ghế tiên sinh ngồi cho mình sụp lạy. Kinh hãi quá, tiên sinh vội đứng dậy né tránh. Tướng quân bèn sai gia nhân giữ chặt lấy tiên sinh để cho mình sụp lạy. Lạy xong, tướng quân cởi triều phục, trao cho tì nữ cất đi, rồi tới cạnh tiên sinh, ngồi nói chuyện. Thấy tướng quân cứ nhất quyết đòi lạy mình, tiên sinh lấy làm lạ, bèn hỏi:"Sao tướng quân lại làm như vậy?" Tướng quân cười, hỏi:"Thế tiên sinh vẫn chưa nhớ ra kẻ hèn này là ai hay sao?" Tiên sinh đáp:"Thú thực với tướng quân, bản nhân không thể nhớ ra tướng quân là vị nào!" Tướng quân cười, nói:"Kẻ hèn này chính là kẻ đã nhấc nửa cỗ chuông ở cổng chùa Trường Minh 12 năm về trước!" Lúc đó tiên sinh mới vỡ lẽ. Tướng quân bèn sai gia nhân bày tiệc, bồi tiếp tiên sinh rất cung kính, sai tì nữ rót rượu, sai ca nữ gảy đàn. Yến ẩm tới khuya, tiệc rượu mới tan.

Tướng quân bèn trông nom cho gia nhân sửa soạn một phòng riêng, đầy đủ giường đệm, gối chăn, mời tiên sinh vào phòng đi nghỉ, rồi mới về phòng riêng.
Vì quá say, tiên sinh ngủ vùi, sáng sau dậy trễ¬. Sau khi tắm rửa, tiên sinh hỏi thăm gia nhân xem tướng quân ở đâu thì được biết từ sáng tới giờ tướng quân đã đến phòng mình ba lần để vấn an, nhưng mình còn ngủ. Tiên sinh áy náy lắm, bèn tìm gặp tướng quân mà nói:"Tướng quân đối xử với bản nhân nồng hậu quá khiến bản nhân không được an tâm! Nay xin tướng quân cho phép bản nhân được cáo biệt!" Tướng quân năn nỉ:"Tiên sinh mới tới ở chơi được có một ngày mà đã đòi về thì quả thức là kẻ hèn này không được an tâm! Xin tiên sinh hãy cho kẻ hèn này được bồi tiếp thêm sáu ngày nữa!" Thấy tướng quân chí tình, tiên sinh đành nhận lời. Trong thời gian ở lại, tiên sinh thấy tướng quân không vào doanh trại làm việc mà chỉ ở nhà bồi tiếp mình. Tướng quân sai gia nhân đào hết mấy vạn đồng vàng chôn giấu ở ngoài vườn, đốc thúc chúng lập sổ ghi chép hết mọi vật sở hữu ở trong nhà, từ con hầu đày tớ, tân thư cổ họa, ngựa xe áo quần, tủ giường bàn ghế, tới bát đĩa nồi niêu. Rồi tướng quân sai chia làm hai phần, ghi rạ mỗi phần vào một cuốn sổ. Nghĩ rằng đó là phương sách t«ề gia riêng của tướng quân, tiên sinh cũng không lưu tâm.

Tới ngày tiên sinh từ biệt, đột nhiên tướng quân dâng một cuốn sổ mà nói: "Kẻ hèn này có được ngày hôm nay là do ơn cao dày của tiên sinh ban cho ngày trước. Nay bất cứ một người một vật nào ở trong nhà, kẻ hèn này cũng không dám cho là của riêng, xin được phép kính dâng tiên sinh một nửa!" Tiên sinh kinh ngạc mà nói: "Đa tạ tướng quân, nhưng bản nhân cũng xin phép được từ chối!" Tướng quân cương quyết nài ép cho tới khi tiên sinh chịu nhận mới thôi. Tướng quân bèn đích thân đứng ra coi sóc việc kiểm điểm phân nửa dành cho tiên sinh, sai gia nhân đem con hầu đày tớ, đồ đạc hành lý chất đủ lên xe, kiểm soát lại kỹ lượng rồi mới cho đoàn xe khởi hành. Tướng quân lên ngựa ti¬¬ễn chân tiên sinh quá một dặm đường rồi mới quay trở lại.

Về tới nhà Tra công, tiên sinh ở chơi thêm ít ngày rồi cáo biệt. Tra công bèn sai gia nhân hộ tống tiên sinh cùng tất cả mọi tặng vật của tướng quân về Hải Ninh. Vì thế, từ đó gia đình tiên sinh trở nên giàu có.

Ít lâu sau, tiên sinh bị vu cáo trong một vụ án nên bị bắt bỏ ngục. Đột nhiên, một hôm tiên sinh được quan án gọi lên báo cho biết là tiên sinh đã được tha bổng. Thấy lạ, tiên sinh bèn đi hỏi thăm xem người nào đã can thiệp cho mình thì được biết người ấy chính là tướng quân Ngô Lục Kỳ.

Thanh_long sưu tầm

backieuphong
28-01-2014, 09:33 AM
NGÂM THƠ NÊN VỢ THÀNH CHỒNG
BẠCH THU LUYỆN
*
* *
Tiêm ảnh đồng đồng hạm ngoại qua
Mỹ nhân tiềm khởi thính ngâm nga
Sở Vương giang thủy kham vi mệnh
Vương kiến la y bất cập tha

http://thaicucthieugia.com/images/stories/phong_canh/thuyn%205.jpg

Thành Trực Lệ, tỉnh Hồ Bắc, có nhà buôn họ Mộ, tên Tiểu Hoàn, có vợ, và một trai, tên Thiềm Cung. Khi Thiềm Cung lên 6, Mộ ông thấy con thông minh, ham học thì mừng lắm. Tuy nhiên, thấy con chỉ ưa đọc sách, thích viết văn, chẳng giúp mình được điều chi trong công việc buôn bán, Mộ ông lại nghĩ con chỉ làm những chuyện viển vông. Vì thế, năm Thiềm Cung 16, Mộ ông bắt phải nghỉ học, đi theo mình để học nghề buôn. Thế nhưng, khi phải đi theo cha, Thiềm Cung vẫn đem theo nhiều sách, để khi rảnh rỗi thì lấy ra đọc.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/cng%20sinh%20vit.jpg
Thiềm Cung vẫn đem theo nhiều sách, để khi rảnh rỗi thì lấy ra đọc.

Năm sau, một hôm đầu tháng giêng, Mộ ông bắt Thiềm Cung theo mình xuống miền nam buôn hàng. Mộ ông tự lái thuyền trên hồ Động Đình, từ Trực Lệ xuống thủ phủ Vũ Xương. Tới nơi, Mộ ông đậu thuyền ở bến, lên lữ quán thuê phòng, rồi dắt con đi buôn hàng về, cất trong phòng. Sau đó, Mộ ông ở lại Vũ Xương mười ngày để đi thăm bạn bè. Một tối, thấy cha đi vắng, Thiềm Cung lấy sách thơ ra ngâm, âm thanh sang sảng. Bỗng thấy ở ngoài cửa sổ có bóng người, Thiềm Cung đoán là một kẻ ưa thích thi ca đang rình nghe lén. Cho là chuyện thường tình, Thiềm Cung chẳng lưu tâm, rồi quên đi. Tối hôm rằm tháng giêng, nghe cha nói sẽ đi dự dạ tiệc, đến khuya mới về, Thiềm Cung lại lấy sách thơ ra ngâm. Bỗng thấy ở ngoài cửa sổ, dưới ánh trăng, có bóng người, Thiềm Cung vội chạy ra coi thì thấy đó là một nữ lang trẻ đẹp, tuổi chừng 15, 16, nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành. Nhìn thấy Thiềm Cung, nữ lang bỏ chạy. Sau mười ngày, Mộ ông bảo Thiềm Cung phụ mình chuyển hàng xuống thuyền để hôm sau về Trực Lệ. Tối ấy, khi Mộ ông lên bờ đi dạo thì có một bà lão xuống thuyền, vào khoang nói với Thiềm Cung:"Tú tài giết chết con gái lão thân rồi!" Kinh ngạc quá, Thiềm Cung hỏi:"Lão bà họ chi?" Bà lão đáp:"Họ Bạch!" Hỏi:"Lệnh ái tên chi?" Đáp:"Tên Thu Luyện!" Hỏi:"Tiểu sinh giết chết lệnh ái hồi nào?" Đáp:"Thị chưa chết nhưng bị thương nặng ! Được lão thân cho đi học, thị cûng biết chút chữ nghĩa. Mấy hôm nay, thấy thị bị bệnh nặng, lão thân gặng hỏi thì thị đáp là vì tương tư tú tài mà thành bệnh!" Thiềm Cung cãi: "Lệnh ái đã gặp tiểu sinh bao giờ đâu mà nói chuyện tương tư?" Bạch bà đáp:"Tuy chưa gặp mặt nhưng thị đã nghe thấy tiếng ngâm thơ của tú tài nên thị đã bỏ ăn bỏ ngủ!" Nghe Bạch bà đáp, Thiềm Cung mới biết Thu Luyện, con gái Bạch bà, chính là nữ lang đã lén nghe mình ngâm thơ tối hôm rằm tháng giêng.

Thiềm Cung nói:"Chuyện này đâu phải lỗi tại tiểu sinh! Bây giờ lão bà muốn tiểu sinh phải làm gì?" Bạch bà đáp:"Bây giờ tú tài phải cưới thị làm vợ!" Thiềm Cung nói:"Được lão bà gả lệnh ái cho, tiểu sinh hân hạnh lắm, nhưng chẳng dám tự quyết vì gia phụ nghiêm khắc lắm!" Bạch bà nói:"Không được! Phải thề với lão thân là sẽ cưới thị rồi trình với lệnh nghiêm sau!" Thiềm Cung đáp:"Tiểu sinh chẳng dám tự chuyên mà thề như thế!" Bạch bà bèn dọa:"Biết bao kẻ đã yêu thương thị, nhờ người tới nhà lão thân xin cưới mà đều bị từ chối! Nay tú tài được chính lão thân tìm tới gả khp6ng con gái cho mà còn ngập ngừng, khiến lão thân cảm thấy bị nhục! Đã thế, lão thân sẽ làm cho cha con tú tài chẳng chở hàng về Trực Lệ được!" Nói xong, Bạch bà bỏ đi.

Lát sau, khi thấy cha đi dạo về, Thiềm Cung bèn thuật lại chuyện Bạch bà xuống thuyền bắt mình phải cưới con gái bà làm vợ, rồi xin cha cho phép mình lấy Thu Luyện. Nghe xong, Mộ ông gạt đi, nói:"Một làVũ Xương ở xa quê mình! Hai là con gái mới 15, 16 mà đã nôn nóng đòi lấy chồng thì chẳng phải là con nhà gia giáo!" Nói xong, Mộ ông phá ra cười. Đêm ấy, ở chỗ Mộ ông đậu thuyền, nước sâu ngập mái chèo, bỗng nhiên có cát ùn ùn đẩy thuyền lên cao, khiến thuyền bị mắc cạn. Thông thường, ởVũ Xương có nhiều nhà buôn tích trữ hàng trên thuyền cả năm. Năm sau, khi hàng ở các nơi chưa kịp chở tới, họ đem hàng tích trữ ra bán với giá cao, kiếm được rất nhiều lời. Vì thế, sáng ra, khi thấy thuyền mình bị mắc cạn, Mộ ông cûng chẳng lo, chỉ bảo Thiềm Cung ở lại coi thuyền, để mình về Trực Lệ. Được ở lại Vũ Xương có một mình, Thiềm Cung mừng lắm, nhưng cứ ấm ức về việc quên không hỏi nơi cư ngụ của Bạch bà.

Sẩm tối hôm ấy, bỗng Thiềm Cung thấy Bạch bà cùng một tì nữ dìu một nữ lang xuống thuyền mình. Thấy nữ lang là Thu Luyện, Thiềm Cung mừng lắm. Bạch bà dìu Thu Luyện vào khoang, đặt lên giường cởi áo cho con rồi nói với Thiềm Cung;"Con gái lão thân bị bệnh nặng! Tú tài liệu mà săn sóc thị, chớ có lơ là như người dưng nước lã!" Rồi Bạch bà dẫn tì nữ lên bờ mà đi.

Vừa mừng vừa sợ, Thiềm Cung vội đi thắp đèn, đem lại giường coi. Thấy Thu Luyện nằm thiêm thiếp trên giường, Thiềm Cung hỏi:"Sao nàng bị bệnh nặng thế này?" Thu Luyện chỉ nhếch mép mỉm cười. Thấy Thiềm Cung cứ gặng hỏi mãi Thu Luyện mới cố gắng thều thào mà đáp:"Thiếp có thể mượn một câu thơ cổ để trả lời chàng!» Hỏi:"Câu nào?" Đáp:"Câu: Tiều tuỵ vì ai, thẹn với ai (Vị lang tiều tuỵ, khước tu lang)! Bây giò, xin chàng ngâm cho thiếp nghe bài thơ La Y Diệp Diệp của Vương Kiến ba lần thì tự nhiên là thiếp sẽ khỏi!" Nghe Thu Luyện yêu cầu như thế, Thiềm Cung bèn cất giọng ngâm bài La Y Diệp Diệp. Mới nghe xong hai lần, Thu Luyện đã ngồi nhỏm dậy, mặc áo mà nói:"Thiếp khỏi rồi!" Thiềm Cung tiếp tục ngâm lần thứ ba. Nghe xong, Thu Luyện nói:"Thiếp thấy cơ thể cũng như tinh thần thiếp đã hoàn toàn bình phục!" Mừng quá, Thiềm Cung bèn tắt đèn, lên giường nằm với Thu Luyện.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/yn%20thanh.jpg

Sớm hôm sau, Thu Luyện trang điểm, rồi nói với Thiềm Cung:"Mẹ thiếp sắp tới!" Lát sau, quả nhiên Bạch bà tới. Thấy con gái đã bình phục, đang ngồi trang điểm, Bạch bà nói:"Bây giờ đã khỏi bệnh rồi thì về với mẹ!" Thu Luyện cúi đầu chẳng đáp. Thấy thế, Bạch bà nói:"Thích ở lại với chồng thì cứ ở lại, nhưng phải lo lấy thân chứ mẹ chẳng lo cho được nữa đâu!" Rồi Bạch bà ra về. Chợt nhớ ra điều mình cần biết, ThiềmCung hỏi:"Nhà nàng ở đâu?" Thu Luyện đáp:"Chàng với thiếp chẳng qua chỉ là bạn bèo nước gặp nhau, chắc gì đã lấy được nhau mà cần phải hỏi nhà cửa?" Nghe thấy thế, Thiềm Cung chẳng hỏi chi thêm. Tuy nhiên, vì hai người đã yêu nhau thắm thiết, nên Thu Luyện ở hẳn lại vói ThiềmCung.

Năm sau, một đêm cuối tháng gêng, hai người đang ngủ, bỗng Thu Luyện vùng dậy thắp đèn, đến giá sách của Thiềm Cung, lấy ra một cuốn thơ, đem ra bàn ngồi bói. Bói được bài Giang Nam Khúc của Lý Ích:


Giá đắc Cù Đường cổ
Triêu triêu ngộ thiểm kỉ
Tảo tri trào hữu tín
Giá dữ lộng trào nhi!
(Lấy được nhà buôn giàu
Nhưng lỗi ước như Cuội
Biết thuyền chài giữ lời
Thà lấy quách thuyền chài!)

Thu Luyện ngồi khóc rấm rứt. Thấy lạ, Thiềm Cung nhỏm dậy, hỏi:"Sao nàng khóc?" Thu Luyện đáp:"Vì thiếp vừa bói một quẻ xem hôn sự của chúng mình ra sao thì trúng ngay bài Giang Nam Khúc của Lý Ích, xem ra là điềm chẳng lành !" Thiềm Cung an ủi:"Câu đầu là Giá đắc Cù Đường cổ (Lấy được nhà buôn giàu) là điềm lành chứ sao nàng lại nói là "chẳng lành ?" Nghe thấy thế, Thu Luyện mới hơi vui lên được một chút.

Lát sau, Thu Luyện đứng dậy, nói:"Ngày mai cha chàng sẽ tới đây!" Thiềm Cung hỏi:"Sao nàng biết?" Đáp:"Vì thiếp vừa gieo quẻ! Vậy hôm nay thiếp xin tạm biệt!" Rưng rưng nước mắt, Thiềm Cung cầm tay Thu Luyện, hỏi:"Nếu cha ta bằng lòng cho chúng mình kết hôn thì ta phải làm thế nào để báo tin cho nàng biết?" Thu Luyện đáp:"Thiếp có tai mắt thường xuyên ở quanh đây! Cha chàng có bằng lòng hay không thì thiếp cũng sẽ biết ngay, khỏi phiền chàng phải báo tin!" Thiềm Cung nói:"Để ta tiễn nàng lên bờ!" Thu Luyện gạt đi, nói:" Đừng! Càng quyến luyến thì càng khổ!" rồi bước lên bờ mà đi.

Hôm sau, quả nhiên Mộ ông tới Vũ Xương. Nghe con thuật chuyện Thu Luyện, Mộ ông mắng chửi thậm tệ:"Thị chỉ là một kỹ nữ chuyên dụ khách mà thôi! Mi cho thị xuống thuyền thì chắc là thị đã lấy cắp mất nhiều món hàng của ta rồi!" Thế nhưng, sau khi đi kiểm soát lại, thấy hàng vẫn còn nguyên, Mộ ông mới ngưng mắng chửi con.

Một tối, khi Mộ ông đi vắng, Thu Luyện lại xuống thuyền gặp Thiềm Cung. Hai người chỉ nhìn nhau buồn bã. Chợt Thu Luyện nói:"Ở đời, chuyện gì cûng có số mệnh! Bây giờ chúng mình chưa tính được chuyện xa thì hãy tính chuyện gần! Vì cha chàng phải đem hàng tích trữ đi bán trong hai tháng mới hết, nên ít nhất chúng mình còn được gặp nhau hai tháng nữa! Còn sau đó ra sao thì chịu, chẳng sao đoán được!" Rồi cùng nói chuyện nhớ thương. Trước khi từ biệt, Thu Luyện nói:"Khi nào chàng muốn gặp thiếp thì chàng chỉ cần cất tiếng ngâm thơ là thiếp sẽ tới!" Từ đó, mỗi khi thấy cha đi vắng, Thiềm Cung lại cất tiếng ngâm thơ. Quả nhiên, Thu Luyện lại tới. Đúng như lời Thu Luyện nói, Mộ ông phải bán hàng tích trữ từ đầu tháng ba đến cuối tháng tư mới hết.

Còn Nữa...

backieuphong
28-01-2014, 09:51 AM
NGÂM THƠ NÊN VỢ THÀNH CHỒNG
BẠCH THU LUYỆN

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Co_su/yu%20n.jpg

Sau tiết Đoan Dương (mồng 5 tháng 5 âm lịch), trời đổ mưa liên miên, nước dâng cao, thuyền bè di chuyển dễ dàng, Mộ ông bèn dẫn con đi buôn hàng, chất xuống thuyền, lái về Trực lệ. Về nhà, Thiềm Cung tương tư Thu Luyện mà thành bệnh. Mộ ông lo lắm, hết mời thầy thuốc tới coi mạch bốc thuốc, lại mời đồng cốt tới lập đàn cầu đảo, nhưng bệnh tình của Thiềm Cung chẳng thuyên giảm. Thiềm Cung bèn thổ lộ tâm sự với mẹ, rồi nói:"Chẳng có thuốc nào chữa được bệnh của con đâu! Chỉ có cách cho con được gặp Thu Luyện mà thôi!" Nghe vợ thuật lại, Mộ ông nổi giận, mắng chửi con om sòm. Thế nhưng, tuần sau, thấy bệnh của con càng ngày càng nặng, Mộ ông mới sợ, đành đem con xuống thuyền, đặt nằm trong khoang, chở xuốngVũ Xương. Tới nơi, Mộ ông đậu thuyền ở bến cû, lên bờ hỏi thăm cư dân xem nhà Bạch bà ở đâu, nhưng chẳng ai biết Bạch bà là ai. Mộ ông đành trở về thuyền. Vừa về tới bến, bỗng thấy một bà lão vái chào mình, Mộ ông chắp tay đáp lễ *. Bà lão nói:"Lão thân họ Bạch, làm ngh« lái thuyền, có đứa con gái tên Thu Luyện, đã cùng lệnh lang quyến luyến trong suốt năm qua! Nay xin mời quan nhân xuống thuyền lão thân nói chuyện!" Mộ ông theo Bạch bà xuống thuyền thì mới biết thuyền Bạch bà là chiếc thuyền đậu sát thuyền mình. Bạch bà lên tiếng gọi con ra chào khách. Ra chào Mộ ông xong, Thu Luyện khoanh tay, cúi đầu, đựng ở góc khoang. Thấy Thu Luyện vừa đẹp vừa hiền, Mộ ông cũng mừng thầm, nhưng khi nghĩ đến gia thế, thấy Thu Luyện là con bà lái thuyền thì Mộ ông lại chẳng ưa, nên nói:"Con tôi bị bệnh tương tư lệnh ái! Tôi đã mời thầy thuốc tới coi mạch bốc thuốc, lại mời đồng cốt tới lập đàn cầu đảo, nhưng bệnh tình của y chẳng thuyên giảm. Nay xin lão bà cho lệnh ái sang thuyền tôi gặp y để coi xem bệnh tình của y có giảm được hay không?" Bạch bà đáp:"Nếu quan nhân chưa thuận cho lệnh lang kết hôn với con gái lão thân thì lão thân chưa dám cho con gái sang thuyền quan nhân!"


http://thaicucthieugia.com/images/stories/phong_canh/thuyn%206.jpg

Nghe thấy mẹ từ chối lời thỉnh cầu của Mộ ông, Thu Luyện buồn lắm. Mộ ông lại năn nỉ Bạch bà cho Thu Luyện sang thuyền mình. Thấy con mình buồn rầu mà lại thấy Mộ ông năn nỉ, Bạch bà mới nói với Mộ ông:"Thôi được! Để tối nay, lão thân sẽ cho con gái sang thăm lệnh lang!" Mừng quá, Mộ ông bèn xin cáo biệt.

Tối ấy, Mộ ông lên bờ đi dạo để Thu Luyện được sang thuyền mình, tự do trò chuyện với Thiềm Cung. Lát sau, Thu Luyện sang thuyền gặp Thiềm Cung. Thấy Thiềm Cung nằm thiêm thiếp trong khoang, mắt lờ đờ nhìn mình, Thu Luyện bật khóc, rồi mếu máo nói:"Năm ngoái, thiếp tương tư chàng mà thành bệnh, rồi được chàng ngâm thơ cho nghe mà khỏi! Năm nay, đến lượt chàng tương tư thiếp mà thành bệnh! Vậy để thiếp ngâm thơ chữa bệnh cho chàng! Thực ra, thiếp có nhiều chuyện muốn nói, nhưng vì chàng đang bị bệnh, nên phải chữa bệnh cho chàng trước đã, rồi mới nói chuyện sau!" Nghe Thu Luyện nói, Thiềm Cung mừng lắm, song vì đang yếu nên chỉ khẽ gật đầu. Thu Luyện bèn ngâm bài thơ La Y Diệp Diệp của Vương Kiến ba lần. Nghe xong, Thiềm Cung th«u thào nói:"Bài thơ này chỉ chữa được tâm bệnh của con gái chứ đâu có chữa được tâm bệnh của con trai? Tuy nhiên, chỉ cần nghe thấy giọng ngâm của nàng là ta đã thấy sảng khoái rồi! Bây giờ xin nàng ngâm cho nghe bài Dương Li*ễu Thiên Điều Tận Hướng Tây!" Thu Luyện bèn lấy giọng mà ngâm. Nghe xong, Thiềm Cung vui quá, cứ ca tụng mãi về giọng ngâm, rồi nhờ Thu Luyện ngâm cho nghe một bài khác. Nghe Thu Luyện ngâm xong, Thiềm Cung vụt ngồi nhỏm dậy, nói:"Ta khỏi bệnh rồi! Nàng nói nàng có nhiều chuyện muốn nói với ta sau khi ta khỏi bệnh! Vậy bây giờ nàng nói đi!" Thu Luyện gật đầu, rồi hỏi:"Chàng có biết cha chàng với mẹ thiếp đã nói với nhau những gì không?" Thiềm Cung lắc đầu, đáp:"Làm sao mà ta biết được? Thế nhưng, hôn sự của chúng mình có thành hay không?" Thu Luyện lắc đầu đáp: "Không thành!" Thiềm Cung hỏi: "Sao nàng biết?" Thu Luyện đáp:"Vì tuy cha chàng chẳng nói ra, nhưng thiếp nghĩ cha chàng chẳng ưa gia thế nhà thiếp, khi biết thiếp là con gái một bà lão lái thuyền!" Thấy Thiềm Cung im lặng, Thu Luyện bèn cáo biệt. Đi dạo về,vào khoang thăm con, thấy con đã ngồi dậy được, Mộ ông mừng lắm, bèn ngồi hỏi chuyện Thu Luyện sang thăm. Thiềm Cung thuật lại mọi chuyện cho cha nghe, rồi xin cha chấp thuận cho mình được cưới Thu Luyện. Nghe xong, Mộ ông khuyên:"Thu Luyện cûng đẹp đấy! Thế nhưng, vì là con gái một bà lão lái thuyền mà lại giỏi nghề ngâm thơ, nên ta nghĩ nếu Thu Luyện chưa bị tàn tạ thì cûng chẳng còn trinh tiết!" Rồi chẳng chờ cho con nói, Mộ ông đứng dậy mà ra khỏi khoang.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/liu%20trai%20%20ch%20d%202.jpg

Hôm sau, khi thấy Mộ ông lên bờ đi dạo, Thu Luyện lại sang thuyền thăm Thiềm Cung. Thiềm Cung bèn thuật lại những lời của cha cho Thu Luyện nghe. Thu Luyện nói:"Ở đời, chuyện gì mình càng cầu mong thì càng bị cản trở, mình càng cần gấp thì càng bị diên trì. Nếu chàng chẳng cầu mong được cưới thiếp ngay, thì cha chàng còn có cái gì để mà cản trở với diên trì? Vì thiếp đã trộm xét được ý cha chàng nên thiếp có cách khiến cha chàng sẽ chấp thuận hôn sự của chúng mình. Lúc đó, nếu chàng cầu xin thì chắc là sẽ được toại nguyện!" Thiềm Cung hỏi:"Nàng có cách gì có thể khiến được cha ta chấp thuận?" Thu Luyện đáp:"Phàm là nhà buôn, ai cûng thích buôn những mặt hàng sinh lời. Cha chàng là nhà buôn nên cûng thích như thế! Thiếp có thuật biết trước vật giá! Vừa rồi, thiếp coi các mặt hàng mà cha chàng buôn thì thấy chẳng có mặt hàng nào sinh lời cả. Nay thiếp sẽ đưa cho chàng một danh sách đầy đủ những mặt hàng ít vốn nhiều lời, từ những mặt hàng một vốn hai lời đến những mặt hàng một vốn chín lời để chàng trình với cha. Khi cha chàng chở hàng lên Trực Lệ bán mà thấy tiền lời đúng như thế thì sẽ chấp thuận cho thiếp được làm vợ chàng!" Thiềm Cung hỏi:"Nhưng biết đến bao giờ cha ta mới chấp thuận?" Thu Luyện cười, đáp:"Chàng đừng nôn nóng! Sang năm, khi chàng trở xuống thành Vũ Xương này thì chàng mới có 18! Lúc đó, thiếp mới có 17! Chúng mình còn trẻ chán, còn sống hạnh phúc bên nhau dài dài!" Nói xong, Thu Luyện xin cáo biệt. Lát sau, khi thấy cha trở về thuyền,Thiềm Cung bèn thưa với cha rằng Thu Luyện có thuật biết trước vật giá rồi đưa trình cha danh sách những mặt hàng vốn ít, lời nhiều. Đọc danh sách, tuy chẳng tin lắm, nhưng Mộ ông vẫn lấy nửa số vốn còn lại trong túi, đem đi buôn những mặt hàng ghi trong danh sách. Khi chở hàng lên Trực Lệ bán, những mặt hàng mà Mộ ông tự ý buôn đều bị lỗ vốn. Trái lại, những mặt hàng mà Mộ ông buôn theo danh sách của Thu Luyện đều được lời nhiều. Vì thế, bù qua sớt lại, Mỗ ông huề vốn. Lúc đó, Mộ ông mới phục tài Thu Luyện. Thấy thế, Thiềm Cung nói với cha:"Nếu cha chấp thuận cho con cưới Thu Luyện thì Thu Luyện có thể làm giàu cho cả gia đình ta!" Mộ ông chỉ im lặng.

Năm sau, Mộ ông đem hết vốn liếng xuốngVũ Xương buôn hàng, bảo Thiềm Cung đi theo. Tới nơi, Mộ ông neo thuyền· bến cû, rồi lên bờ, vào chợ mua sính l*ễ để hỏi vợ cho con. Thiềm Cung chỉ mong được gặp Bạch bà và Thu Luyện. Trong chín ngày đầu, chẳng thấy thuyền Bạch bà đâu, Thiềm Cung buồn lắm. Sáng ngày thự mười, khi ngủ dậy, chợt thấy thuyền Bạch bà neo dưới gốc cây liễu, sát cạnh thuyền cha, Thiềm Cung mừng lắm, vội trình cha. Mộ ông bèn bảo con tắm gội, ăn mặc sạch sẽ, để đi hỏi vợ. Mừng quá, Thiềm Cung vội tuân lời cha. Lát sau, Mộ ông bảo con đem sính l*ễ theo mình sang thuyền Bạch bà. Mộ ông nói chuyện với Bạch bà, xin được cưới Thu Luyện cho Thiềm Cung. Bạch bà nhận lời cầu hôn, nhưng khi Mộ ông xin nạp sính lễ thì Bạch bà chẳng chịu nhận, chỉ lấy lịch ra coi ngày tốt để định ngày làm lễ vu quy cho con.

Vào ngày vu quy, Mộ ông thuê thuyền khác để ngủ một đêm, nhường thuyền của mình cho con làm lễ hợp cẩn với Thu Luyện.

Sáng sau, Bạch bà sang bảo Thu Luyện dẫn chồng về thuyền mình ở, trả thuyền cho Mộ ông. Thu Luyện bèn lập một danh sách các mặt hàng vốn ít, lời nhiều, rồi xin Mộ ông xuống Hồ Nam buôn hàng theo danh sách ấy. Nghe lời con dâu, Mộ ông lái thuyền xuống Hồ Nam một mình để buôn hàng.

Khi Mộ ông chở hàng lên tới Vũ Xương thì giá hàng tăng vọt, một vốn bốn lời. Mộ ông bèn bảo con trai và con dâu sang thuyền mình để cùng về Trực Lệ.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Thanh_Ngu/hi_su/gi%20bo%20ngc%203.jpg

Thu Luyện nói với chồng:"Lên Trực Lệ cư ngụ thì cũng được, duy có điều là nếu thiếp không có nước hồ ở Vũ Xương mà rưới vào thực phẩm thì thiếp sẽ bị hen suy*ễn, chẳng sao sống được. Vậy chàng hãy lấy cho thiếp một bình nước hồ để đem về Trực Lệ!" Thiềm Cung vội làm theo lời vợ.

Còn nữa...

backieuphong
28-01-2014, 10:00 AM
NGÂM THƠ NÊN VỢ THÀNH CHỒNG
BẠCH THU LUYỆN

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Vo_lam/m%20nam.jpg

Về nhà, cự đến bữa ăn là Thu Luyện lại lấy bình nước hồ rưới mấy giọt vào cơm, tựa như người ta rưới nước tương vậy. Mộ ông bán hết hàng, lời rất nhiều, trở thành cự phú. Từ đó, mỗi chuyến xuống miền nam buôn hàng, bao giờ Mộ ông cũng bảo con dâu chỉ cho mình biết những nơi buôn hàng cùng những mặt hàng nên buôn và khi trở về Trực Lệ, bao giờ Mộ ông cûng đem theo một bình nước hồ Vũ Xương cho con dâu. Tuy nhiên, vì nước hồ trữ lâu quá hai tháng sẽ hết hiệu nghiệm, nên tháng nào Mộ ông cũng xuống miền nam buôn hàng để lấy về cho con dâu một bình nước hồ mới.

Bốn năm sau, Thu Luyện sanh được một trai.

Một hôm, nhớ mẹ, Thu Luyện khóc lóc, đòi chồng cho mình bế con về Vû Xương thăm mẹ. Thiềm Cung nói lại với cha. Chiều con, Mộ ông bèn lái thuyền chở cả gia đình con xuống Vũ Xương. Tới bến Vũ Xương, Thu Luyện chẳng thấy thuyền mẹ thì kinh hãi, hớt hơ hớt hải kéo tay chồng chạy lên bờ, bảo chồng đi về hướng đông, còn mình thì đi về hướng tây hỏi thăm tin tức Bạch bà. Thu Luyện đi hỏi thăm khắp nơi nhưng chẳng thu lượm được tin tức chi cả, đành trở về thuyền. Thiềm Cung cũng không thu lượm được tin tức gì, nhưng có gặp một ngư phủ câu được một con cá lớn, bằng đứa trẻ lên mười. Đến gần hỏi thăm, Thiềm Cung được biết con cá ấy có tên là cá ký, trông rất giống người, có đủ cơ phận như người vậy.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/thch%20tiu%20long.jpg
Đứa con trai của vợ chồng Thu Luyện

Về thuyền,Thiềm Cung thuật chuyện cho vợ nghe. Đột nhiên Thu Luyện kinh hãi, nói với chồng:"Trước kia, thiếp có lời thề là nếu biết ai bắt dược cá ký thì thiếp sẽ mua lại cho bằng được để phóng sinh. Nay chàng phải đi mua ngay con cá ấy đem về thả xuống hồ cho thiếp!" Thiềm Cung vội đi tìm ngư phủ.

Gặp được ngư phủ, Thiềm Cung hỏi giá bán con cá ký. Ngư phủ nói giá 10 đồng vàng. Thấy con cá đắt nhất cûng chỉ đáng giá 3 đồng là cùng, Thiềm Cung mà cả, trả 5 đồng. Ngư phủ không chịu. Thiềm Cung không mua, về nói với vợ. Thu Luyện tái mặt, thở hổn hển, nói:"Thiếp về nhà chàng, mưu toan buôn bán cho gia đình, tiền lời thâu vào chẳng dưới một vạn lạng vàng. Nay con cá ấy chỉ hơi đắt một chút mà chàng còn cò kè bớt một thêm hai, chẳng chịu mua cho thiếp! Nếu chàng chẳng nghe lời thiếp thì thiếp sẽ đâm đầu xuống hồ này mà chết!" Kinh hãi quá, Thiềm Cung vội vào khoang, lấy cắp 10 đồng vàng của cha, đem đi mua con cá ký, rồi đem thả xuống hồ. Về thuyền, chẳng thấy vợ đâu, Thiềm Cung kinh hãi, vội chạy đi tìm, nhưng không tìm thấy. Suốt đêm hôm ấy, Thiềm Cung lo lắng, chẳng sao ngủ được.

Gần sáng, trong lúc đang lo âu, chợt thấy vợ về thuyền, Thiềm Cung mừng quá, vội hỏi:"Nàng đi đâu về thế?" Thu Luyện đáp:"Thiếp vừa đi gặp mẹ!" Hỏi: "Nàng gặp mẹ ở đâu?" Đáp:"Ở dưới hồ Động Đình! Bây giờ thì thiếp phải thú thực với chàng rằng mẹ thiếp chính là con cá ký mà chàng vừa thả xuống hồ! Mẹ thiếp được Long quân cho giữ chức hành lữ ti, trông coi việc thuyền bè đi lại trên mặt hồ!" Hỏi:"Đã là hành lữ ti, sao mẹ còn để cho ngư phủ bắt?" Thu Luyện đáp:"Vì gần đây, Long quân muốn tuyển phi tần. Có kẻ xấu miệng tâu với Long quân rằng thiếp đẹp lắm. Long quân bèn cho đòi mẹ thiếp xuống long cung, truyền cho mẹ thiếp phải đưa thiếp xuống long cung làm phi tần. Mẹ thiếp tâu rằng thiếp đã có chồng. Long quân truyền cho m ẹ thiếp phải bảo thiếp bỏ chồng. M ẹ thiếp nói với thiếp, nhưng thiếp không nghe. Vì thế, Long quân mới đày mẹ thiếp xuống bãi hồ Vũ Xương, ngưng cung cấp thực phẩm, khiến mẹ thiếp phải tự đi tìm miếng ăn, rồi mắc phải mồi câu!" Thiềm Cung hỏi:"Nay mẹ đã thoát nạn thì có được Long quân tái cung cấp thực phẩm không?" Thu Luyện buồn rầu, lắc đầu mà đáp:"Chẳng những không được mà còn sợ bị Long quân buộc tội thêm!" Hỏi:"Có cách chi khiến mẹ được mi*ễn tội không?" Đáp:"Có!" Hỏi:"Cách chi?" Đáp:"Thiếp có giữ của mẹ thiếp một vuông lụa đặc biệt. Nếu bây giờ được Chân quân viết cho một chữ MIN trên vuông lụa ấy thì tự nhiên mẹ thiếp được miễn mọi tội dưới long cung!" Hỏi:"Chân quân là ai mà lại có uy quyền đối với Long quân như thế?" Đáp:"Là một tiên ông, thường xuống trần gian, biến thành một đạo sĩ thọt chân chống gậy, có thể đi lại trên mặt hồ y như đi lại trên mặt đất!" Hỏi:"Sao nàng không xin Chân quân viết cho?" Đáp:"Một là vì Chân quân chẳng tiếp đàn bà, hai là vì Chân quân rất hâm mộ văn sĩ!" Hỏi:"Làm thế nào để gặp được Chân quân?" Đáp:"Ngày mai, trong khoảng giờ mùi (từ 1:00 giờ đến 3:00 chiều), Chân Quân sẽ đi qua bến hồ này!" Thấy chồng e ngại, Thu Luyện bèn nói:"Nếu chàng thực lòng yêu thiếp thì hãy xin Chân quân viết lên vuông lụa của m ẹ thiếp một chữ MIN! Còn nếu chàng nghĩ mẹ thiếp là cá, rồi coi thường, chẳng giúp, thì thiếp xin trả lại đứa con này cho chàng, rồi xuống long cung làm phi tần, cho mẹ thiếp được miễn tội! Ở với Long quân, chắc chắn là thiếp sẽ được sủng ái gấp trăm lần ở với chàng!" Nghe vợ nói, Thiềm Cung kinh hãi quá, vội nói:"Để ta đi xin chữ MIN đem về dâng mẹ!" Thu Luyện bèn lấy từ túi áo ra một vuông lụa, đưa cho chồng mà dặn:"Khi nào Chân quân hỏi chàng muốn gì thì chàng chỉ cần đưa vuông lụa này ra, xin Chân quân viết cho một chữ MIN!" Thiềm Cung bèn nhận vuông lụa, rồi nói:"Xin tuân lời nàng!"

Trưa sau, Thiềm Cung lên bờ đứng chờ Chân quân . Đúng đầu giờ mùi, quả có một đạo sĩ chống gậy, khập khi*ễng đi qua chỗ mình đứng, Thiềm Cung vội phục xuống đất lạy đạo sĩ. Đạo sĩ liền bỏ chạy dọc theo bờ hồ. Thấy thế, Thiềm Cung vùng dậy, chạy theo. Đạo sĩ lia gậy chống xuống mặt hồ, rồi phi thân đứng trên gậy. Thấy thế, Thiềm Cung cũng phi thân theo. Khi chân chạm gậy, bỗng Thiềm Cung thấy gậy đã biến thành thuyền nên lại phục xuống lạy đạo sĩ.

Đạo sĩ hỏi:"Nhà ngươi muốn xin điều chi?" Thiềm Cung vội đứng dậy, móc túi lấy vuông lụa đưa ra, xin đạo sĩ viết cho một chữ MIN. Đạo sĩ trải vuông lụa xuống sàn thuyền coi, rồi hỏi:"Nhà ngươi lấy vuông lụa này ở đâu?" Kinh hãi quá, Thiềm Cung đem hết sự thực ra thuật lại. Nghe xong, đạo sĩ cười, nói:"Vuông lụa này là cánh con bạch ký mẹ! Hai mẹ con đều mê thi ca phong nhã! Cái lão Long quân đã già mà còn đòi bắt bạch ký con làm phi tần để thì thực là hoang dâm vô độ!" Nói xong, đạo sĩ lấy từ túi áo ra một chiếc bút, viết lên vuông lụa một chữ MIN, vẽ một phù hiệu ở cạnh, rồi trả vuông lụa cho Thiềm Cung. Thiềm Cung lại phục xuống sàn thuyền lạy tạ đạo sĩ, rồi đứng dậy. Đạo sĩ bèn quay thuyền vào bờ. Tuân lời đạo sĩ, Thiềm Cung lên bờ. Chợt quay đầu nhìn, Thiềm Cung thấy đạo sĩ đã đạp chiếc gậy lướt ra khơi, chỉ trong khoảnh khắc đã biến mất ở chân trời, Xuống thuyền, Thiềm Cung thuật lại câu chuyện cho vợ nghe. Thu Luyện mừng lắm, dặn chồng:"Xin chàng đừng tiết lộ chuyện này cho mẹ thiếp biết!" Thiềm Cung đáp:"Xin tuân lời!" Từ đó, hai vợ chồng với đứa con sinh sống rất hạnh phúc bên nhau, và hàng tháng Mộ ông vẫn xuống miền nam buôn hàng.

Ba năm sau.

Một hôm, Mộ ông xuống miền nam buôn hàng. Chuyến này, sau tròn hai tháng, Mộ ông vẫn chưa về, khiến Thu Luyện không có nước hồ mới để rưới cơm ăn, nên bắt đầu lên cơn hen suyễn. Thu Luyện bèn dặn chồng:"Nếu thiếp chết, xin chàng đừng đem xác đi chôn, chỉ lấy vải khâm liệm rồi đặt nằm trên giường! Hàng ngày, cứ vào mỗi giờ mão (từ 5 đến 7 giờ sáng), ngọ (từ 11 giờ sáng đến 01 giờ chiều), và dậu (từ 7 giờ đến 9 giờ tối), xin chàng cứ ngâm bài thơ Đỗ Phủ Mộng Lý Bạch một lần, bên cạnh xác, thì xác sẽ chẳng bị hư! Khi nào cha đem nước hồ mới về, xin chàng tháo bỏ vải khâm liệm, ngâm xác vào một bồn nước có pha nước hồ mới, thì thiếp có thể hồi sinh!" Mới hen suy*ễn có ba ngày mà Thu Luyện đã chết. Theo đúng lời vợ dặn, Thiềm Cung lấy vải khâm liệm xác, rồi đặt xác nằm trên giường. Hàng ngày, vào mỗi giờ mão, ngọ, dậu, Thiềm Cung lại ngâm thơ bên cạnh xác.Sau khi Thu Luyện chết được nửa tháng, Mộ ông mới đi buôn về, đem theo một bình nước hồ mới. Nghe tin con dâu chết, Mộ ông buồn lắm, nhưng Thiềm Cung thì vẫn bình tĩnh mà làm theo lời vợ dặn, đem xác ngâm vào một bồn nước có pha nước hồ mới. Quả nhiên, hơn một giờ sau, Thu Luyện hồi sinh. Từ đó, Thu Luyện tỏ ý muốn về Vũ Xương cư ngụ.

Mười năm sau.
Mộ ông mất. Sau khi làm l*ễ an táng cho cha, Thiềm Cung chiều ý vợ, đưa cả gia quyến di cư xuống Vũ Xương lập nghiệp.

---------------------------------------------- Hết ---------------------------------

Backieuphong Theo bản dịch của GS Đàm Quang Hưng Giáo Sư Toán Trường Đại Học Cộng Đồng Houston, Texas

bach_ho
28-01-2014, 12:17 PM
Củng Tiên
Vị Tiên Họ Củng

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Vo_lam/o%20s%202.jpg

Đạo nhân họ Củng, không có tên tự, cũng không rõ quê quán ở đâu. Có lần tới xin ra mắt Lỗ vương nhưng người canh cổng không chịu vào báo, gặp lúc một quý nhân trong vương phủ đi ra, đạo nhân vái chào ngỏ ý. Quý nhân thấy quê mùa bèn đuổi đi, kế lại trở lại, quý nhân nổi giận sai người đuổi đánh. Tới chỗ vắng người, đạo nhân cười đưa ra trăm lượng vàng nhờ kẻ đuổi theo nói lại với quý nhân rằng “Ta cũng không cần gặp vương, chỉ nghe nói cây cỏ lâu đài trong vườn hoa sau vương phủ là danh thắng trên đời, nếu dẫn ta vào xem một phen là mãn nguyện rồi". Kế lại lấy tiền bạc ra đút lót người đuổi theo, người ấy mừng rỡ về thưa, quý nhân cũng mừng liền dẫn đạo nhân vào cửa sau, dạo xem khắp nơi rồi theo lên lầu. Quý nhân đang tựa bên cửa sổ thì đạo nhân xô một cái, chỉ thấy mình rơi ra ngoài lầu, may có sợi dây leo vướng ngang bụng nên còn treo lơ lửng trên không. Nhìn xuống thấy sâu chóng mặt mà sợi dây cứ kêu rắc rắc như sắp đứt, sợ quá la ầm lên.

Không bao lâu mấy tên thái giám chạy tới, vô cùng hoảng sợ vì thấy quý nhân cách mặt đất rất xa, lên lầu cùng xem thì thấy đầu dây buộc vào lầu Muốn cởi ra để cứu nhưng thấy dây nhỏ quá không thể dùng sức, tìm đạo nhân khắp nơi nhưng ông đã biến mất, đành bó tay hết cách về tâu với Lỗ vương. Vương tới nhìn thấy rất lấy làm lạ, sai rải cỏ khô dưới lầu, định chặt đút dây. Chuẩn bị vừa xong thì dây leo tự đứt mà chỉ cách mặt đất không đầy một thước, mọi người đều cười ngất. Vương sai hỏi xem đạo sĩ ở đâu, nghe nói ở nhờ nhà Tú tài họ Thượng bèn tới hỏi thì ông đi chơi chưa về. Kế gặp nhau giữa đường, bèn đưa về ra mắt vương.
Vương cho ngồi ăn tiệc, đòi làm trò vui, đạo sĩ thưa “Thần là người quê mùa, không có tài gì lạ, nay được thương tới xin hiến một ban nữ nhạc để chúc thọ vương gia”. Rồi lần trong tay áo lấy ra một mỹ nhân đặt xuống đất, nàng dập đầu lạy vương xong, đạo sĩ bảo diễn vở Dao Trì yến để chúc vương muôn tuổi. Mỹ nhân lên sạp hát mấy câu, đạo sĩ lại lấy ra một người nữa, tự xưng là Tây Vương Mẫu, giây lát lấy ra Đổng Song Thành, Hứa Phi Quỳnh, tất cả tiên nữ trên trời đều lần lượt ra mắt. Sau cùng là Chức Nữ tới yết kiến, dâng vương một bộ áo trời màu vàng lóng lánh chiếu sáng cả nhà. Vương nghĩ là đồ giả đòi xem, đạo sĩ vội nói không nên nhưng vương không nghe cứ giở ra xem, quả thấy áo trời liền lạc không có đường may, không phải sức người làm được. Đạo sĩ tỏ vẻ không vui, nói "Thần hết lòng thờ đại vương nên tạm mượn áo của Thiên Tôn cho xem, nay bị trọc khí nhiễm vào, làm sao trả lại cho chủ cũ?". Vương lại nghĩ những người ca hát ắt đều là tiên nữ, muốn giữ lại vài nàng nhưng nhìn kỹ lại thì đều là con hát thường ngày trong phủ. Lại ngờ khúc hát ấy thì họ chưa từng học qua, hỏi tới thì họ cũng ngơ ngác không tự biết. Đạo sĩ lấy bộ áo trời châm lửa đốt rồi cho vào trong tay áo, khám tới thì không thấy đâu nữa.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Vo_lam/trng%20tam%20phong%202.gif

Vương vì thế rất trọng đạo sĩ, giữ ở lại trong phủ. Đạo sĩ nói “Tính quê mùa thấy cung điện như chậu lồng, không bằng ở nhà Tú tài được tự do hơn”, nên cứ đến khuya lại về nhà Thượng Tú tài. Hôm nào vương cố giữ thì cũng ngủ lại, mỗi lần có yến tiệc lại đảo lộn hoa cỏ bốn mùa làm vui. Vương hỏi "Nghe nói người tiên cũng không thể quên tình, có đúng không?”' đạo sĩ đáp "Có lẽ người tiên thì đúng thế, chứ thần không phải là người tiên nên lòng như cây khô thôi”. Một đêm đạo sĩ ngủ lại trong vương phủ, vương sai một ca kỹ tới nhìn. Nàng vào phòng, gọi mấy tiếng không thấy đáp, thắp đèn soi thấy đạo sĩ nhắm mắt ngồi trên giường, lay gọi thì hé mắt một cái rồi nhắm lại, lại lay nữa thì ngáy vang lên. Xô mạnh thì ông ngã lăn ra mà vẫn ngủ say, ngáy vang như sấm. Gõ lên trán thấy cứng ngắt chồn cả ngón tay, có tiếng như gõ vào gang sắt, bèn về bẩm lại với vương. Vương sai lấy kim đâm thì đâm không vào, xô thì thấy nặng không thể lay chuyển, gọi thêm hơn chục người xúm lại khiêng ông ném xuống dưới giường, nghe như tảng đá nặng ngàn cân rơi xuống đất.

Sáng tới thấy ông vẫn ngủ dưới đất, kế tỉnh dậy cười nói "Ngủ một giấc say như chết, rơi cả xuống giường mà không biết". Sau vương sai đám con gái nhân lúc ông nằm ngồi tới cấu véo làm vui, nhưng véo cái đầu thì da thịt còn mềm, qua cái thứ hai đã cứng như sắt đá. Đạo sĩ ở nhà Thượng Tú tài, thường suốt đêm không về, Thượng khóa cửa đi ngủ, đến sáng ra mở của đã thấy đạo sĩ nằm trong phòng. Lúc trước Thượng dan díu với ca kỹ Huệ Ca, đã thể lấy nhau. Huệ phong nhã hát hay, ngón đàn nổi tiếng một thời, Lỗ vương nghe tiếng triệu nàng vào hầu hạ, vì thế đôi bên tuyệt đường đi lại, lòng thường thương nhớ nhưng không sao nhắn gởi gì được. Một đêm Thượng hỏi đạo sĩ có gặp Huệ Ca không, đạo sĩ đáp “Các ca kỹ trong phủ ta đều gặp qua nhưng không rõ là nàng nào”. Thượng tả dung mạo tuổi tác, đạo sĩ mới nhớ ra. Thượng xin nhắn giùm một câu, đạo sĩ cười nói “Ta là người tu hành, không thể đưa tin cho ông được”.
Thượng năn nỉ không thôi, đạo sĩ đưa tay áo ra nói "Nếu nhất định muốn gặp nàng một lần thì mời vào đây". Thượng nhìn vào thấy to rộng như gian nhà liền khom người chui vào, lạí thấy sáng sủa sạch sẽ, rộng bằng cái phòng khách, bàn ghế vật dùng không thiếu món nào, ở trong không hề thấy khổ cực buồn bã. Đạo sĩ vào phủ đánh cờ với Lỗ vương, chờ lúc Huệ Ca tới gần, giả phất tay áo phủi bụi, Huệ Ca bị hút vào mà chẳng ai thấy. Thượng đang ngồi một mình tơ tưởng chợt thấy có mỹ nhân từ mái hiên rơi xuống, nhìn lại thì là Huệ Ca. Hai người ngạc nhiên mừng rỡ, âu yếm nhau rất mực. Thượng nói "Duyên lạ hôm nay không thể không ghi lại, xin cùng làm thơ liên cú” rồi viết lên vách rằng "Hầu môn tự hải cửu vô tung” (Cửa hầu tựa biển mỏi mòn trông), Huệ nối theo “Thùy thúc Tiêu lang kim hựu phùng” (Ai biết người xưa lại tái phùng). Thượng viết tiếp “Tụ lý càn khôn chân cá đại” (Tay áo bao la trời đất rộng), Huệ viết “Ly nhân tư phụ tận bao dung” (Dung trai xa vợ gái thương chồng). Vừa viết xong chợt có năm người bước vào, đội mũ có góc, mạc áo đỏ nhạt, nhìn ra đều không quen biết, mà họ cũng im lặng không nói chỉ bắt Huệ Ca đi. Thượng kinh hãi không rõ vì sao, đạo sĩ về nhà gọi Thượng ra hỏi chuyện tình tự, Thượng giấu giếm không kể hết. Đạo sĩ mỉm cười cởi áo, lộn tay áo ra cho xem. Thượng nhìn kỹ thấy có tự tích lờ mờ nhỏ như chân kiến, té ra là bài thơ liên cú.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0040.jpg

Mười mấy hôm sau lại xin vào phủ, trước sau cả thảy ba lần. Huệ Ca nói với Thượng rằng "Thiếp nghe trong bụng máy động rất lo lắng, vẫn phải lấy lụa thắt lại. Nhưng trong vương phủ tai mắt rất nhiều, thảng hoặc một sớm sinh nở thì biết tìm chỗ nào giấu được trẻ khóc. Phiền chàng bàn tính với tiên ông họ Củng, cứ thấy thiếp xoa bụng ba lần thì nhờ người ra tay cứu vớt". Thượng theo lời, trở về thấy mặt đạo sĩ liền quỳ rạp xuống không chịu đứng lên. Đạo sĩ kéo đứng lên, nói "Hai người nói với nhau những gì ta đã biết rồi, xin đừng lo lắng. Dòng giống nhà ông chỉ nhờ có một chút đó, ta đâu dám không hết lòng giúp đỡ. Nhưng từ nay không cần vào đó nữa, điều ta muốn báo đáp cho ông vốn không phải chỉ ở việc tư tình thôi đâu”. Mấy tháng sau đạo sĩ từ ngoài vào cười nói "Ta đã đưa công tử về đây rồi, mau lấy tã lót ra”.

Vợ Thượng rất hiền, hơn ba mươi tuổi sinh nở mấy lần mà chỉ nuôi được một trai, vừa sinh con gái đầy tháng thì chết, nghe Thượng nói ngạc nhiên vui mừng đích thân ra đón. Đạo sĩ thò vào tay áo lấy đứa nhỏ ra, nó im lặng như đang ngủ mà rốn còn chưa cắt, vợ Thượng đón lấy bế lên mới khóc oa oa. Đạo sĩ cởi áo nói "Máu đẻ làm dơ áo thế này là đạo môn kỵ nhất, nay vì chuyện của ông mà vật cũ hai mươi năm một sớm phải bỏ đi". Thượng đưa áo khác cho thay, đạo sĩ dặn "Cái áo cũ của ta chớ bỏ, chỉ cần xé một mảnh bằng đồng tiền đốt đi mà uống thì có thể chữa được chứng khó sinh và trụy thai", Thượng vâng lời. Lâu sau đạo sĩ chợt nói với Thượng "Chiếc áo cũ của ta nên giữ lại chút ít mà dùng, sau khi ta chết cũng đừng quên!”.

Thượng cho là lời bất tường nhưng đạo sĩ không nói gì mà ra đi, vào gặp vương nói "Thần muốn chết". Vương giật mình hỏi, đạo sĩ đáp “Đó là số trời đã định, còn nói gì được". Vương không tin cố giữ lại, đánh xong một ván cờ đạo sĩ vội đứng lên, vương lại ngăn cản, xin phép ra nhà ngoài vương bèn cho. Đạo sĩ ra đó nằm xuống, nhìn lại thì đã chết rồi. Vương sắm sửa quan tài mai táng tử tế. Thượng tới điếu tang rất đau xót, bấy giờ mới hiểu là đạo sĩ đã báo trước. Cái áo cũ của đạo sĩ để lại làm thuốc thôi sản rất hay, người tới xin nối gót ngoài cổng. Ban đầu còn cho cái tay áo vấy máu, kế cắt tới cổ áo vạt áo chỗ nào cũng hiệu nghiệm. Sau Thượng nhớ lời đạo sĩ dặn, e vợ sẽ gặp nạn khi sinh nở nên cắt một mảnh dính máu to bằng bàn tay cất kỹ. Gặp lúc Lỗ vương có nàng ái phi lâm bồn ba ngày không sinh được, các thầy thuốc đều hết cách, có người kể lại chuyện Thượng, vương lập tức triệu vào, ái phi chỉ uống một chén thuốc là sinh được ngay.

Còn nữa...

bach_ho
28-01-2014, 12:27 PM
Củng Tiên
Vị Tiên Họ Củng
http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Co_su/c%20sch%2024.jpg
Tiếp theo

Vương cả mừng, tặng tiền bạc vải vóc rất hậu nhưng Thượng đều từ chối không nhận. Vương hỏi vậy muốn gì, Thượng đáp "Thần không dám nói", gạn hỏi mấy lần Thượng mới dập đầu thưa “Nếu được đội ơn trời thì chỉ xin ban cho nàng ca kỹ cũ Huệ Ca là đủ”. Vương triệu nàng tới hỏi tuổi, nàng thưa "Thiếp vào phủ năm mười tám tuổi, qua mười bốn năm rồi”' Vương thấy nàng đã lớn tuổi bèn gọi tất cả các ca kỹ ra cho tùy thích chọn lựa nhưng Thượng không ưng ý một ai. Vương cười nói "Anh học trò này khờ quá, hay mười năm trước có đính ước với nhau rồi?". Thượng kể thật mọi chuyện, vương liền sai đem đủ xe kiệu đưa Huệ Ca về với Thượng, cho luôn nàng những tiền bạc vải vóc đã ban làm của hồi môn.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Vo_lam/Trung_quoc/Vo_Dang/o%20gio%2012.jpg

Đứa con trai Huệ sinh tên Tú Sinh, "Tú” là ẩn nghĩa chữ "Tụ” (tay áo) vậy, năm ấy đã mười một tuổi. Vợ chồng thường nhớ ơn người tiên, năm nào đến tiết Thanh minh cũng đi viếng mộ. Có người đi buôn ở Trung Châu (tỉnh Tứ Xuyên) lâu năm, gặp đạo sĩ trên đường trao cho một quyển sách, nói “Đây là sách trong phủ Lỗ vương, lúc đi vội quá chưa kịp trả lại, nhờ ông trả hộ". Người ấy về nghe tin đạo sĩ đã chết không dám tâu, Thượng bèn cầm sách vào tâu hộ. Lỗ vương mở ra xem thì đúng là sách đã cho đạo sĩ mượn, lấy làm ngờ vực sai quật mộ đạo sĩ lên xem thì chỉ thấy quan tài rỗng không. Sau con trai Thượng chết yểu, may có Tú Sinh nối dõi, càng phục lời tiên tri của tiên ông họ Củng.
------------------------------------------------

Dị Sử thị nói: Càn khôn trong tay áo là lời ngụ ngôn của cổ nhân, há phải là có thật đâu, sao lại lạ lùng đến thế. Trong tay áo có trời đất, có mặt trời mặt trăng, có thể lấy vợ sinh con mà lại không bị cái khổ thúc thuế đòi lương, không bị cái phiền muộn của người đời, thì những rận rệp trong đó cũng khác gì chó gà ở cõi Đào Nguyên* đâu! Trộm mong người thường cũng được tới đó, thì chết già ở nơi ấy cũng được.

*Đào Nguyên: Đào Tiềm thời Tấn có bài Đào hoa nguyên ký kể chuyện một ngư phủ lạc vào rừng, theo dòng suối có hoa đào trôi ra ngược lên tới nguồn thì gặp một nơi có người ở, hỏi ra thì họ nói rằng tổ tiên tránh loạn thời Tần chạy vào sinh sống đã mấy trăm năm rồi, không biết việc đời bên ngoài thay đổi ra sao. Đào Nguyên đây dùng chỉ cõi thanh bình hạnh phúc ở nhân gian.

thieugia
30-01-2014, 05:24 PM
Bát Đại Vương
八 大 王

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/cng%20sinh%202.jpg

Phùng sinh ở huyện Lâm Thao (tỉnh Cam Túc), người thuật chuyện không nhớ tên, chỉ biết là dòng dõi thế gia đã sa sút. Có người chài lưới thiếu nợ sinh không trả nổi nên cứ bắt được ba ba là đem lại biếu. Có lần biếu con ba ba cực to, trán có đốm trắng, sinh thấy hình dạng lạ lùng liền thả ra sông. Sau sinh đi thăm con rể trở về, tới bờ sông Hằng Hà thì trời vừa tối thấy một người say có hai ba tiểu đồng theo sau ngất ngưởng đi tới, thấy sinh hỏi là ai? Sinh đáp bừa là kẻ đi đường, người say giận nói "Chẳng lẽ không có tên họ à, sao chỉ nói là kẻ đi đường?," Sinh sốt ruột lo về nên không buồn đáp, cứ đi thẳng qua mặt, người say càng giận, nắm lấy áo sinh không cho đi, mùi rượu nồng nặc. Sinh rất khó chịu mà cố sức gỡ ra không được bèn hỏi ngươi tên gì, người say lè nhè đáp “Ta là Lệnh doãn cũ ở Nam Đô, ngươi định làm gì?". Sinh nói "Thế gian có thứ Lệnh doãn như vậy, thật là chửi cả thiên hạ. May là Lệnh doãn cũ đấy, chứ nếu là Lệnh doãn mới chắc giết ráo người đi đường rồi phải không?". Người say giận lắm toan giở võ, sinh lớn tiếng nói "Phùng mỗ ta không phải là kẻ để yên cho người đánh đâu!". Người say nghe thế đổi giận làm vui, lảo đảo lạy rạp xuống nói "Té ra là ân chủ, mới rồi đường đột xin đừng bắt tội", rồi đứng dậy bảo kẻ tùy tùng về trước dọn rượu.

Sinh từ chối không được, người ấy nắm tay dắt đi vài dặm thì tới một xóm nhỏ, vào trong thấy nhà cửa đẹp đẽ như phủ đệ quý nhân. Người say hơi tỉnh rượu rồi, sinh mới hỏi thăm tên họ là gì, y đáp "Nói ra xin chớ kinh hãi, ta là Bát Đại vương ở sông Thao đây. Mới rồi tiên Thanh Đồng ở Tây Sơn mời đi uống rượu, không ngờ say quá nên xúc phạm tôn nhan, nghĩ rất hổ thẹn". Sinh biết là yêu quái, nhưng thấy tình ý niềm nở nên cũng không sợ sệt gì. Giây lát rượu thịt dọn lên ê hề, giục sinh ngồi vào tiệc. Bát vương uống rất hào, dốc cạn liên tiếp mấy chén, sinh sợ y say lại sinh sự bèn giả say đòi đi nằm. Bát vương hiểu ý cười nói "ông sợ ta bừa bãi sao? Xin chớ lo, phàm kẻ say vô hạnh rồi qua đêm nói rằng không nhớ đã làm những gì là nói dối thôi, bọn bợm rượu mất nết thì mười người có chín người như vậy đấy. Nhưng ta tuy không dám sánh với người tốt song nghĩ lại cũng chưa từng dám làm điều vô lại với bậc trưởng giả sao ông cự tuyệt thẳng thừng như thế?". Sinh bèn ngồi xuống nghiêm sắc mặt can rằng "Ông đã tự biết, sao không sửa đổi?", Bát vương đáp “Lão phu lúc làm Lệnh doãn thì say sưa còn quá ngày nay, từ khi làm Thượng đế tức giận bị đày ra cù lao, cố bỏ thói cũ đã hơn mười năm. Nay sắp chết mà còn lận đận không được vẫy vùng nên thói cũ lại nảy sinh mà không tự biết. Nay xin kính cẩn vâng lời ông".


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Co_su/ha%207.jpg
Nhà cửa đẹp đẽ như phủ đệ quý nhân.

Đang chuyện trò thì nghe tiếng chuông chùa xa xa, Bát vương đứng lên cầm tay sinh nói "Gặp gỡ không được lâu, nay có một vật xin tặng để đền ơn lớn. Vật này không nên mang lâu, khi nào được như nguyện rồi xin trả lại cho ta”. Rồi khạc ra một hình người bé tí dài hơn một tấc, lấy móng tay rạch vào cánh tay sinh, đau như xé ruột, đặt mau hình người lên rồi đè xuống, buông tay ra thì đã chìm hẳn vào trong thịt, vết móng tay vẫn còn mà chỗ đó gồ lên như mụn nhọt. Sinh sợ hãi hỏi, Bát vương cười không đáp, chỉ nói “ông nên đi thôi” rồi tiễn sinh ra. Bát vương trở vào, sinh ngoảnh nhìn thì xóm làng nhà cửa đều biến mất, chỉ có một con ba ba lớn đang ì ạch bò xuống nước rồi mất tăm. Sinh kinh ngạc sửng ra hồi lâu rồi tự nghĩ vật mình vừa được cho ắt là ngọc ba ba.

Từ đó mắt rất sáng, phàm nhưng nơi có châu báu, dù ở tận suối vàng cũng nhìn thấy được, ngay cả những món chưa từng biết cũng ứng khẩu gọi được đích danh, đào được mấy trăm lượng vàng chôn ngay dưói phòng ngủ, việc chi tiêu cũng đầy đủ. Sau có người bán ngôi nhà cũ, sinh nhìn thấy tiền bạc chôn giấu vô số bèn bỏ nhiểu tiền ra mua, từ đó giàu có ngang bậc vương hầu, các loại ngọc quý hiếm trên đời trong nhà đều có đủ. Lại được một tấm gương, phía sau chạm hình chim phượng đeo vòng, mây nước và Tương Phi, chiếu sáng cả dặm, có thể thấy rõ từng sợi tóc. Người đẹp mà soi vào thì hình bóng sẽ in lại, lau chùi cũng không mất được, nếu thay quần áo khác soi lại hoặc người đẹp khác soi lên thì ảnh trước mới mất đi.

Lúc bấy giờ công chúa thứ ba trong Túc vương phủ* nhan sắc tuyệt đẹp, sinh rất hâm mộ. Gặp lúc công chúa đi chơi núi Không Động, sinh tới rình trong núi chờ khi công chúa trên kiệu bước xuống lấy gương ra soi rồi mang về đặt lên bàn, nhìn kỹ thấy mỹ nhân ở trong cầm khăn mỉm cười, miệng như muốn nói, mắt như muốn liếc, mừng rỡ cất kỹ. Hơn một năm, vì vợ nói lộ ra, Túc vương nghe được cả giận, bắt giam sinh, đòi lấy tấm gương, định xử án chém. Sinh hối lộ rất nhiều cho một quý nhân trong vương phủ, nhờ tâu với Túc vương rằng "Nếu vương tha thì bao nhiêu của báu trên đời muốn có cũng dễ, nếu không thì ta cũng tới chết là cùng, mà vương thì chẳng có lợi gì cả". Vương muốn tịch biên gia sản và đày sinh đi xa, công chúa thứ ba nói "Y đã nhìn con, dù giết mười lần cũng không đủ gột rửa tiếng nhơ, chi bằng gả con cho y”. Vương không nghe.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0027.jpg

Công chúa đóng cửa không chịu ăn, Vương phi lo quá, cố nói với vưong, vương bèn thả sinh ra, lại sai vị quý nhân kia ngỏ ý với sinh. Sinh từ chối nói "Người vợ từ lúc hàn vi không thể bỏ, ta thà chết chứ không dám vâng lệnh, nếu vương cho chuộc tội thì dốc hết gia sản ra cũng được", vương giận lại bắt giam sinh. Vương phi triệu vợ sinh vào cung, định hạ độc giết chết. Vợ sinh vào, đem chiếc giá gương san hô làm lễ ra mắt, lời lẽ mềm mỏng dễ thương, Vương phi hài lòng, sai bái kiến công chúa thứ ba, công chúa cũng thích, bèn đính ước làm chị em rồi sai người vào ngục dụ sinh. Sinh nhắn vợ rằng "Con gái nhà vương hầu thì không thể lấy việc cưới trước cưới sau mà bàn lớn bé được đâu”. Vợ không nghe cứ về sắp đặt sính lễ đưa tới vương phủ, người đội lễ vật có tới hàng ngàn, nhiều loại châu quý ngọc lạ nhà vương cũng không biết tên.

Còn nữa...
------------------------------------------------------------

*Túc vương phủ:tức Túc Trang vương, hoàng tử thứ mười bốn của Minh Thái tổ nhà Minh, được phong là Hán vương, năm Hồng Vũ thứ 25 (1392) đổi phong là Túc vương, năm sau ra lập phủ đệ ở Cam Túc.


Thiều Gia - Theo Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh

thieugia
30-01-2014, 05:36 PM
Bát Đại Vương
八 大 王


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0021.jpg

Tiếp theo

Vương cả mừng gả công chúa cho sinh, công chúa vu quy cũng đem tấm gương về. Một đêm sinh ngủ một mình, mơ thấy Bát vương nghênh ngang vào, nói "Vật ta đã tặng nay nên trả lại. Mang nó lâu quá thì hao tổn tinh huyết, chiết giảm tuổi thọ". Sinh vâng dạ, giữ lại uống rượu, Bát vương từ chối, nói "Từ lúc nghe ông khuyên, ta bỏ dứt rượu được ba năm rồi". Rồi há miệng cắn vào cánh tay, sinh đau quá tỉnh dậy, nhìn lại thì chỗ mụn nhọt đã tiêu tan, từ đó lại như người thường.

-------------------- Hết ---------------------

Dị Sử thị nói: Tỉnh thì còn là người mà say rồi thì như con ba ba, những kẻ uống rượu đều như thế cả. Nhưng con ba ba kia tuy hàng ngày quen thói uống rượu bét nhè song không dám quên ơn, không dám vô lễ với bậc trưởng giả, con ba ba chẳng cũng hơn xa con người sao? Lắm kẻ tỉnh thì không bằng người, say thì không bằng con ba ba, người xưa soi gương bói rùa*, chắc là lấy con rùa để soi mình chăng? Vì vậy làm bài phú Người uống rượu. Phú rằng:

Có một vật nọ, rong chơi ngon miệng, uống vào thì ngất ngất ngây ngây, tên gọi là rượu. Chủng loại rất nhiều, công lao đã lắm. Dùng để tiếp đãi tân khách, dùng để thù phụng cha anh. Dùng để vui sướng lúc một mình, dùng để hợp cẩn thành đôi lứa. Có khi làm lưỡi câu để câu hứng thơ, có khi làm cái chổi để quét phiền muộn. Cho nên chàng rượu tới thường thì người người kết bạn, làng say vào sâu thì kẻ kẻ quên sầu. Đài hèm bã đã cao, công chĩnh vò bất hủ. Một thạch ấy sức quan Tề*, năm đấu làm tên Học sĩ**. Thế nên rượu nhờ người mà nổi danh, nhưng có khi người vì rượu mà mang tiếng.

Kìa như Mạnh Gia rơi mũ*a, Lưu Linh vác mai**b, Sơn Giản say mèm***c, Đào Tiềm lược rượu (4*). Say ngủ bên người đẹp, không ý tư thông (5*), nhúng đầu vào nghiên sâu, có thần giúp sức (6*). Kẻ sĩ cưỡi thuyền rơi nằm đáy giếng (7*), ông quan bộ Lại bị trói bên lò (8*). Thậm chí nếu rụt đầu (9*) mà nghịch ngợm, cũng còn chưa hại vật mà bất nhân. Tới như khi mưa chiều tuyết tối, hoa sớm trăng khuya, gió lặng bụi yên, bạn xưa gái mới, dép giày trộn lẫn, lan xạ thơm lùng, đùa trăng cợt gió, hát nhỏ chuốc vơi, điệu nhạc hay vừa mới trỗi, trên chiếu lặng tựa không người, trò chuyện giống hoa bay sáng miệng, ngâm thơ như lắc ngọc khua vàng, dẫu quá chén mà say khướt, cũng hồn trong mà ngủ yên. Nếu thế thì dù mỗi ngày mỗi uống cũng chẳng hại gì tới danh giáo. Còn như trong dục nhập nhằng, hát ca bậy bạ, đứng ngồi nhớn nhác, cười nói ồn ào, chuyện bé xé ra to, cãi vã nhiếc mắng, rướn cổ nhăn mày như uấng thuốc độc, ngã bầu rơi chén tắt nến đổ đèn, rượu ngon lênh láng, say sưa bét nhè thì phép uống rượu vốn cấm, tình ý như thế chẳng thà đừng uống.

Lại có kẻ rượu vừa nuốt xuống hơi đã bốc lên, lảm nhảm lè nhè chê chủ keo kiệt, đã không biết cư xử lại không biết uống rượu, thứ khách rượu không có phẩm giá ấy thì càng quá lắm. Thậm chí có kẻ vừa uống xong thì thôi khách sáo, trợn mày bứt tóc cởi áo xắn quần, bọt nhểu nhảo đầy mồm miệng, ói òng ọc ra áo quần, cổ rướn dài như chó sủa, tóc rối bời như ăn xin. Bụng chạm đất mà miệng kêu trời, tựa bày gan ruột, tay thì khua còn chân lại rũ, như bị phanh thây. Tài thơ phú không lời để tả, bút đan thanh khôn họa thành tranh. Cha mẹ già bị chửi, vợ con yếu khó dìu, có khi chú bác bạn bè bỗng dưng mà chịu nhục. Dùng lời nhỏ nhẹ can ngăn thì càng thêm u mê dữ tợn, đó gọi là uống rượu mất nết, không thể cứu giúp gì được. Duy có một cách để giã rượu, cách ấy ra sao? Chỉ cần lấy một cái gậy, trói tay chân lại như lối mổ heo, cứ đập vào mông đừng đánh lên dầu, hơn trăm gậy rồi chắc chắn tỉnh lại.

Thiều Gia theo Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh
--------------------------------------------

*Bói rùa: một cách bói toán thời cổ, lấy cái mai rùa hơ nóng lên rồi theo những vết nứt nẻ mà đoán hay dở xấu tốt.
*Một thạch... quan Tề: Sử ký, Thuần Vu Khôn truyên chép vua Tề hỏi Khôn uống được bao nhiêu rượu, Khôn đáp cũng tùy nơi tùy lúc, như uống trong các yến tiệc ở triều đình, phải giữ nghi lễ thì một đấu cũng say, còn uống trong những hội lễ chốn đân gian, thả sức vui chơi thì một thạch mới say.
** Năm đấu... Học sĩ: lấy ý câu trong bài Bát tiên ca của Đỗ Phủ thời Đường "Tiêu trục ngũ đẩu phương trác nhiên, Cao đàm hùng biện kinh tứ diên" (Uống cạn năm đấu mới hứng chí, Đàm luận hùng hồn kinh bốn bên).
*a Mạnh Gia rơi mũ: Tấn thư, Mạnh Gia truyện chép Mạnh Gia làm Tham quân dưới trướng Hoàn ôn, nhân ngày Trùng dương Ôn hội hết các tướng lên núi Long Sơn ăn tiệc, mọi người đều mặc giáp trụ, Ôn say quá gặp cơn gió mạnh thổi rơi cả mũ mà không hay.

**b Lưu Linh vác mai: Tấn thư, Lưu Linh truyện chép Lưu Linh là một trong Trúc Lâm thất hiền, tính hay rượu, đi đâu cũng mang bầu rượu theo, sai đầy tớ vác mai đi cùng, nói "Nếu ta chết thì chôn luôn tại chỗ".

***c Sơn Giản say mèm: Thế thuyết chép Sơn Giản trấn thủ Sơn Dương, ở đó có họ Tập có khu vườn đẹp, Giản thường tới uống rượu say khướt.

4* Đào Tiềm lược rượu: Tống thư chép Đào Tiềm thời Tấn ở nhà lấy khăn đội đầu lược rượu, lọc xong lại đội lên đầu. Có người láng giềng mời qua uống rượu, trong rượu có cặn, Tiềm lập tức cởi khăn ra lược.

5* Say ngủ... tư thông: Thế thuyết chép Nguyễn Tịch là một trong Trúc lâm thất hiền, cạnh nhà có người đàn bà rất đẹp mở quán bán rượu, Tịch và Vương An Phong thường cùng nàng uống rượu, có lần say nằm ngủ khoèo bên cạnh nàng. Người chồng lúc đầu rất ngờ vục, sau rình theo dõi thì thấy Tịch không có ý gì khác.

6* Nhúng đầu... giúp sức: Đường quốc sử bổ chép Trương Húc giỏi viết chữ thảo, tính hay rượu, lúc uống say rồi cứ lấy đầu làm bút nhúng vào mực viết chữ, biến hóa nhiều lối như có thần giúp.

7* Kẻ sĩ... đáy giếng: lấy ý câu trong bài Bát tiên ca của Đỗ Phủ "Tri Chương kỵ mã tự hành thuyền, Nhãn hoa lạc tỉnh thủy đê miên" (Tri Chương cưỡi ngựa ngỡ đi thuyền, Mắt hoa rơi giếng ngủ say mèm).

8* ông quan... bên lò: Tấn thư, Tất Trác truyện chép Tất Trác làm Lại bộ lang, cạnh nhà có quán trọ nấu rượu, Trác nhân đêm lẻn qua uống trộm bị người nấu rượu bắt trói, sáng ra mới biết là Tất Lại bộ.

9* Rụt đầu: nguyên văn là "hiệu miết tù” (học lối miết ẩm, tù ẩm). Hoa mạn lục chép bọn Tô Vũ Khâm, Thạch Diên Niên có nhiều lối uống rượu như "quỷ ẩm", "liễu ẩm", “tù ẩm", "miết ẩm", "hạc ẩm", trong đó "tù ẩm" là để lộ đỉnh đầu đứng chung quanh bàn uống rượu như bọn tù, “miết ẩm” là lấy chăn lông quấn quanh người chỉ thò đầu ra, uống xong một chén thì rụt đầu vào trong như con ba ba.

thieugia
31-01-2014, 01:07 AM
Đạo Sĩ


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Dao_gia/o%20gia%202.jpg

Hàn sinh nhà thế gia, thích khách. Người cùng xóm có anh chàng họ Từ, thường hay đến uống rượu. Một hôm khi họp vui, ở ngoài cổng có kẻ đạo sĩ đến ăn xin. Người nhà cho tiền, cho gạo không lấy, cũng không đi. Lũ người nhà tức giận, cũng mặc kệ. Hàn nghe thâý tiếng xô xát cãi cọ nhau đã lâu, hỏi các người nhà, chúng thưa thực như vậy. Nói chưa dứt lời đạo sĩ đã cứ vào. Hàn cho mời ngồi. Đạo sĩ đến với chủ nhân và các khách giơ tay chào khắp một lượt, rồi liền ngồi. hỏi qua gốc tích thời nguyên ở trong cái miếu đổ nát ở xóm đông.
Hàn nói:
-“Không hay con hạc lại về từ bao giờ, thành ra tôi thiếu cái lễ địa chủ”.
Trả lơì thưa rằng:
-“Kẻ quê kệch mơí đến, không có chơi bời quen ai, nghe rằng ông ở đây rộng tính, cho nên muốn được đến để uống rượu mà thôi”.
Hàn bảo rót rượu. Đạo sĩ uống được nhiều. Từ thấy quần áo rách bẩn, lại trông ra khốn đốn, có ý khinh bỉ không cần làm lễ tiếp chi. Hàn cũng coi là một người khách thoáng qua vậy. Đạo sĩ uống luôn đến hơn hai chục chén, rồi chào mà ra đi.
Từ đấy, mỗi lần yến họp khách, đạo sĩ cứ đến gặp ăn thời ăn, gặp uống thời uống. Hàn cũng hơi thấy là đáng chán. Trong khi uống rượu vui, Từ đùa giễu rằng:
“Đạo sĩ chỉ cứ làm khách mãi, sao không làm chủ một bận chăng?”
Đạo sĩ cười mà rằng:
“Đạo sĩ với cư sĩ cũng như nhau, chỉ có hai vai đem một cái mồm mà thôi”. Từ thẹn không nói được nữa.
Đạo sĩ nói:
“Tuy vậy, kẻ theo đạo này có lòng thành đã lâu, thế nào cũng cố hết sức gọi là kiếm một hai chén nước để báo đền lại”.
Uống xong, dặn rằng:
“Đến trưa mai xin mời quá bộ”.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Dao_gia/o%20gia%207.jpg

Ngày hôm sau, chúng rủ nhau cùng đi, còn ngờ là không đặt rượu, mà đạo sĩ đã đón đợi ở ngang đường. Vào cổng thời thấy nhà cửa mới làm hết, gác rộng liền mây, rất lấy làm sự lạ, cùng bảo với nhau rằng:
-“Lâu chúng ta không đến đây, không biết làm nhà mới từ khi nào?”
Đạo sĩ nói:
- “Vừa mới làm xong không bao lâu”.
Vào đến trong nhà, thời bày đặt rất lịch sự sang trọng những vật mà các nhà gia thế không thể có. Hai người thấy mà phải kính sợ. Mời ngồi xong rót rượu, bưng thức ăn lên, toàn là đứa hầu nhỏ khoảng mười sáu tuổi cả, mà mặc áo gấm đi giày điều. Rượu và thức ăn, thơm tho đầy nhiều. Ăn xong các thứ đồ nước bưng lên, nhiều quả không biết tên gọi đựng bằng những đồ thủy tinh quý, ngọc thạch sáng soi khắp bàn ghế và giưòng phản. Rượu uống bằng thứ chén pha lê, chu vi đến một thươc. Đạo sĩ nói:
- Gọi chị em họ Thạch lên đây.
Đứa nhỏ chạy lúc lâu. Có hai mỹ nhân đến. một người nhỏ dài như thể cành liễu yếu, một người mình ngắn tuổi trẻ hơn. Hai đằng cũng đẹp cả, đạo sĩ sai hát để mua vui cho cuộc rượu. Người trẻ tuổi đánh phách mà hát, người lớn tuổi thổi sáo mà họa lại. Tiếng nghe trong mà nhỏ tuyệt hay. Một khúc hát đã xong, đạo sĩ sai rót rượu mời cả khách một lượt. Lại quay lại hỏi người đẹp rằng:
- Lâu không múa còn nhớ chăng?
Liền có những đầy tớ đem chiếu trải ra ở dưới chỗ chiếu rượu, hai người con gái múa đối nhau. Áo dài phất tung, hương thơm bay loạn. Múa xong tựa nghiêng mình ở bức họa hình. Hai người khách thần hồn bay mất, không ngờ say quá lúc nào. Đạo sĩ cũng chẳng cần sự khoản tiếp nữa, chỉ cứ cất chén uống thật mạnh. Rồi đứng dậy bảo khách rằng:
- Xin các ông cứ xơi rượu cho, tôi đi nghỉ một thoáng xin ra ngay. Nói xong liền đi.
Ở dưới vách phía nam nhà, có bày một cái giường khảm xà cừ. Đứa con gái đem nệm gấm ra trải, ôm đỡ đạo sĩ lên nằm. Đạo sĩ kéo người đẹp mà dài, lên giường cùng gối nằm, sai người bé tuổi đứng ở bên dưới để xoa, gãi. Hai người khách thấy bộ trạng ấy, lấy làm khó chịu quá. Từ bèn nói to bảo rằng:
- Đạo sĩ không được hỗn thế.
Nói rồi định đến để quấy rối. Đạo sĩ vội trở mình trốn đi mất.
Trời đã sáng, rượu và mộng cùng tỉnh ra, thấy một vật gì ở trong lòng lạnh thấu điếng người. Dậy nhìn xem, thời là mình ôm một hòn đá dài mà nằm dưới hầm vậy. Vội trông lại Từ, thấy Từ vẫn chưa tỉnh, mà đầu gối vào một hòn gạch vỡ, ngủ say bét như ở chuồng tiêu. Đá cho một đá, thức dậy cùng nhau lấy làm sợ. Lại nhìn khắp bốn phía thì thấy đầy một sân cỏ rậm, hai gian nhà nát mà thôi.

Thiều gia - theo Liêu Trai Chí Dị/Bồ Tùng Linh

backieuphong
02-02-2014, 01:02 AM
CHÂU NHI

Sách trái nhân tiên phản dạ đài
Cảm ân hồn hựu phụ thi lai
Châu nhi chân tự Châu như ý
Bất cách u minh nhậm vãng lai

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0018.jpg

Tổng Đông Châu, huyện Vũ Tiến, tỉnh Giang Nam có phú thương họ Lý tên Hóa, có trên trăm mẫu ruộng, trên ngàn cân vàng. Năm Lý ông tứ tuần, Lý bà mới sanh được một gái, đặt tên là Tiểu Huệ, tư dung cực kỳ di*ễm lệ. Ông bà thương yêu con lắm. Hàng ngày, Lý ông cứ cầu Trời khấn Phật cho vợ mình sanh được một trai để nối dõi tông đường, nhưng trước sau ông bà vẫn chỉ có một mụn gái. Dinh cơ rộng lớn, con cái hiếm hoi nên nhà cửa rất lạnh lẽo.

Năm 14 tuổi, Tiểu Huệ đột nhiên bị bạo bệnh mà mất. Nhà cửa Lý ông đã lạnh lẽo lại lạnh lẽo thêm. Thấy mình đã già, không sanh con được nữa, Lý bà bèn cưới cho chồng một cô vợ lẽ, người họ Ngô.

Năm sau, Ngô thị sanh được một trai, đặt tên là Châu. Cả nhà quý Châu như hạt ngọc, gọi là Bé Châu. Bé Châu hay ăn chóng lớn, bụ bẫm tròn trịa, tính tình dễ* thương, nhưng cử chỉ chậm chạp, nói năng ngọng nghịu, hành động dại dột, trí óc trì độn. Năm lên 6, Bé Châu vẫn chưa phân biệt nổi đậu với thóc.

Trên núi Cao Sơn, tổng Đông Sơn, có ngôi chùa Quỳnh Liên. Trụ trì ngôi chùa là một thiền sư chột mắt, họ Vệ. Vệ thiền sư thường xuống núi, tới nhà dân trong tổng quyên tiền. Dân chúng đồn rằng thiền sư có tài nói đúng các sự việc xảy ra cho từng người, nhưng lại có tà thuật sát hại người. Vì thế, khi thiền sư tới nhà ai quyên tiền, thì dù chủ nhà có ghét, vẫn phải đem tiền ra biếu, vì sợ làm phật ý thiền sư, gia đình mình sẽ bị tai họa.

Thấy thiền sư cứ ỷ vào tà thuật để bắt nạt dân, Lý ông ghét lắm.

Một sáng mùa đông, thiền sư xuống núi, tới nhà Lý ông quyên một trăm quan tiền. Vốn ghét thiền sư, Lý ông chỉ cho một chục quan. Thiền sư không nhận. Lý ông cho thêm chục quan nữa. Thiền sư vẫn không nhận. Lý ông lại cho thêm chục quan nữa. Thiền sư nổi giận, nói:"Giàu có mà keo kiệt! Phải nạp đủ trăm quan, không được thiếu một đồng!" Lý ông cũng nổi giận, nói:"Ăn mày đòi xôi gấc, ăn xin mà hống hách. không nhận thì cút đi!" rồi cho tiền vào túi. Thiền sư giận quá, mặt đỏ gay, đứng phắt dậy, dọa: "Đừng có hối!" rồi vùng vằng bỏ đi.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Su_sai/cao%20tng%20i%20bi.jpg

Tuần sau, Bé Châu đang khỏe mạnh, đột nhiên bị chứng đau bụng kịch liệt, lăn lộn trên giường, mặt xám như tro. Cả nhà, ai cũng nghĩ rằng thiền sư đang dùng tà thuật để sát hại Bé Châu. Lý bà và Ngô thị cùng khuyên chồng nên đem tiền lên chùa biếu thiền sư để xin thiền sư tha cho Bé Châu. Vì nể vợ thương con, Lý ông đành đếm đủ trăm quan, đem lên chùa. Gặp thiền sư, Lý ông nói:"Con tôi bị chứng đau bụng kịch liệt, mong hòa thượng cứu chữa cho. Tôi xin tạ hòa thượng một trăm quan" Vì vẫn còn hận Lý ông, thiền sư mỉa mai từ chối:"Kiếm được một trăm quan cũng không phải là dễ*, nhưng bần tăng không dám nhận vì bần tăng chỉ là một thầy chùa nghèo trên sơn tự vắng, có tài chi mà cứu chữa cho ai?" Biết thiền sư không chịu tha cho con mình, Lý ông đành đem tiền về.

Tới ngõ, thấy cả nhà đang khóc, Lý ông đã chột dạ. Vào nhà, thấy Bé Châu đã chết, Lý ông đau đớn lắm, hận thù thiền sư vô cùng.

Hôm sau, Lý ông sai gia nhân làm lễ mai táng trọng thể cho con. Tang lễ xong, Lý ông lên huyện đường nạp đơn kiện thiền sư đã dùng tà thuật sát hại con mình. Quan tể đọc đơn, nửa tin nửa ngờ, sai lính lên chùa bắt thiền sư xuống huyện đường đối chất. Trong lúc quan hỏi cung, thiền sư trả lời rất hỗn xược. Quan giận lắm, sai lính nọc ra đánh mười roi. Đánh vào mông, nghe tiếng kêu bồm bộp như đánh vào mo cau, lính lấy làm lạ, bèn trình quan. Quan nghi là thiền sư có lót vật độn bên trong y phục, bèn sai lính lột cà sa ra khám thì bắt được 5 lá cờ xí, 1 cỗ quan tài, 2 hình nhân gỗ, tất cả đều nhỏ như đồ chơi trẻ con. Quan giận lắm, hỏi:"Có phải nhà ngươi đã dùng những yêu vật này để sát hại Lý Châu không?" Thiền sư đáp:"Không phải" Hỏi: "Thế thì dùng để làm chi?" Đáp:"Để làm đồ chơi, bố thí cho trẻ con nghèo" Quan quát:"Chỉ nói láo. Đồ chơi bố thí thì việc chi phải giấu? Đúng là những yêu vật để sát hại trẻ con!" Nói xong, quan múa tay bắt quyết, thành thạo tựa pháp sư. Ngỡ là quan biết phép hóa giải yêu vật của mình, thiền sư chột dạ, bèn nhận tội. Quan liền lên án tử hình. Thiền sư kinh hãi, van lạy xin tha. Quan không tha, cứ ra lệnh cho lính đánh đủ trăm roi rồi giam vào ngục, chờ ngày hành quyết. Bị lính đánh quá tay, thiền sư không chịu nổi, chết ngay giữa huyện đường. Quan bèn sai lính đem xác đi chôn.

Thấy thiền sư đã chết, Lý ông cũng hả dạ, bèn lạy tạ quan rồi xin phép ra về. Khi trời nhá nhem tối, Lý ông về tới nhà, vào thẳng phòng Lý bà, leo lên giường ngồi, thuật cho Lý bà nghe chuyện Vệ thiền sư bị lính đánh chết. Bỗng có một đứa bé chừng 7 tuổi bước vào phòng, hỏi Lý ông:"Sao ông đi nhanh thế? Cháu chạy theo hụt cả hơi mà vẫn không bắt kịp!"

Kinh hãi quá, Lý ông toan lên tiếng hỏi xem nó là ai thì thấy nó đã biến mất. Đảo mắt nhìn quanh, thấy nó đang ngồi chễm chệ ngay cạnh mình, Lý ông bèn co cẳng đạp nó xuống sàn. Nó té rất nhẹ nhàng, không gây một tiếng động. Nằm dưới sàn, nó mỉm cười mà hỏi:"Sao ông lại đạp cháu?" Lý ông chưa kịp đáp thì đã thấy nó lại đang ngồi chễm chệ ngay cạnh mình. Kinh hãi quá, Lý ông thét lớn:"Nhà có ma!" rồi vùng dậy, kéo Lý bà xuống bếp, bảo bà đóng cửa lại mà nằm im.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Co_su/images.jpg

Rồi Lý ông chạy tới phòng Ngô thị gõ cửa. Ngô thị vừa mở cửa thì thấy Lý ông nhảy vọt vào phòng, quay mình khóa cửa thực kỹ. Không biết là có chuyện chi, Ngô thị chỉ trố mắt nhìn chồng.

Chợt thấy có kẻ túm ống quần mình mà lắc, Lý ông cúi nhìn xem là ai. Thấy lại là đứa bé vừa rồi, Lý ông kinh hoàng tột độ, quát ầm lên:"Mi là thằng bé nào mà cứ theo ta mãi thế?" Đứa bé mỉm cười, đáp:"Cháu là một thằng bé cũng bị Vệ thiền sư giết chết như Bé Châu nhà ông!" Hỏi:"Họ tên mi là chi?" Đáp:"Cháu họ Lưu, tên Cảnh Chiêm" Hỏi:"Quê mi ở đâu?" Đáp: "Ở Tô Châu" Hỏi:"Vệ thiền sư quen biết mi ra sao?" Đáp:"Vệ thiền sư đâu có quen biết gì cháu!" Hỏi:"Không quen biết gì mi, mà sao lại giết mi?" Đáp:"Vì năm ngoái, cha mẹ cháu cùng mất, anh ruột và chị dâu cháu chiếm cứ ngôi nhà, đuổi cháu đi. Thấy thế, ông bà ngoại cháu đem cháu về nuôi. Một hôm, cháu đang đứng chơi ỏ trước cổng nhà ông bà ngoại cháu thì Vệ thiền sư từ xa đi tới, tay cầm một lọ thuốc dí vào mũi cháu, khiến cháu bị mê đi. Thiền sư bèn bế cháu tới một nương dâu vắng mà giết, vứt xác ở gốc dâu!" Hỏi:"Tại sao bây giờ mi lại tới đây quấy nhi*ễu ta?" Đáp:"Cháu đâu có tới đây quấy nhi*ễu ông!” Hỏi:"Thế mi tới đây để làm chi ?" Đáp:”Để xin ông nhận cháu làm con nuôi!" Hỏi:"Mi xin làm con nuôi ta để làm chi?" Đáp:"Để trả ơn ông!" Lý ông hỏi:”Ta có giúp mi việc chi đâu mà mi phải trả ơn?” Cảnh Chiêm đáp:”Có! Ông đã giúp cho cháu được hả dạ!” Lý ông hỏi: ”Hả dạ về việc chi?” Cảnh Chiêm đáp:”Về việc ông đã đi kiện Vệ thiền sư khiến thiền sư bị lính đánh chết! Thưa ông, vì cháu bị chết oan, linh hồn chưa được siêu thoát nên chưa được đi đầu thai. Hôm nghe tin ông kiện Vệ thiền sư nơi quan tể, cháu bèn lén lính canh cổng âm phủ, trốn lên dương thế, tới huyện đường coi. Thấy thiền sư bị lính đánh chết, cháu hả dạ lắm. Trở về âm phủ, cháu nhờ tào quan xin với Diêm Vương cho cháu được làm con nuôi ông. Diêm Vương đã chấp thuận rồi!" Lý ông nói:"Tuy Diêm Vương đã chấp thuận rồi, nhưng mi là ma, ta là người, thì làm sao ta có thể nhận mi làm con nuôi được?" Cảnh Chiêm cười, nói:"Được chứ sao không? Ông chỉ cần cho cháu một phòng nhỏ, một giường nệm, mỗi ngày một bát cháo loãng là đủ!"

Lý ông bèn quay hỏi Ngô thị:"Có nên nhận nó làm con nuôi không?" Ngô thị đáp:"Thì ông cứ thử nhận xem sao" Lý ông lại xuống bếp hỏi ý kiến Lý bà. Lý bà cũng đáp như Ngô thị. Lý ông bèn nhận Cảnh Chiêm làm con nuôi, cho nó vào ở phòng cũ của Bé Châu, đầy đủ giường nệm, rồi dặn gia nhân mỗi ngày bưng vào phòng cho nó một bát cháo loãng. Cảnh Chiêm mãn nguyện lắm. Ban ngày, nó chỉ nằm trên giường, tối đến mới ngồi dậy, ra sân chơi. Thấy nó, ai cũng ngỡ là người sống chứ chẳng ai nghĩ nó là ma.

Bốn hôm sau. Tối đến, Cảnh Chiêm ra sân chơi. Nghe tiếng Ngô thị khóc con, nó tới gõ cửa. Ngô thị ra mở. Nó xin vào nói chuyện. Ngô thị cho vào. Nó hỏi:"Mẹ ơi, Bé Châu chết đã bao lâu rồi?" Ngô thị đáp:"Đã 7 ngày" Nó nói:"Bây giờ đang giữa mùa đông, tiết trời lạnh lắm, chắc xác Bé Châu chưa hư. Mẹ thử nói với Bố cho khai mộ Bé Châu lên coi. Nếu quả xác nó chưa hư thì con có thể nhập vào xác nó, khiến nó sống lại!" Ngô thị bèn đi tìm Lý ông, thuật lại lời Cảnh Chiêm. Nghe xong, Lý ông mừng lắm.

Sáng sau, Lý ông sai một toán gia nhân ra khai mộ Bé Châu rồi dẫn Cảnh Chiêm ra coi. Khi mở nắp quan tài, thấy xác con, Lý ông thương cảm, ứa nước mắt. Chợt thấy Cảnh Chiêm biến mất, Lý ông nghĩ là nó đã nhập vào xác con mình, bèn sai gia nhân bế xác Bé Châu về nhà, đem vào phòng, đặt lên giường. Lát sau, Bé Châu sống lại, nhưng vì còn yếu, chỉ nằm trên giường.

Nghe tin, cả nhà kéo nhau lên coi. Thấy Bé Châu đòi uống nước nóng, gia nhân vội chạy đi lấy. Bé Châu uống xong, mồ hôi vã ra, ngồi nhổm dậy, nói chuyện rất hoạt bát khôn ngoan, không ngọng nghịu như trước, khiến cả nhà phải ngạc nhiên.

Tối đến, Bé Châu nằm ngủ. Lát sau, Ngô thị vào thăm thì thấy nó lại nằm cứng đơ. Lấy tay sờ mũi, không thấy hơi thở, Ngô thị kinh hãi, hô hoán ầm lên. Cả nhà huyên náo, cùng chạy lên coi. Thấy thân xác nó chẳng cục cựa, ai cũng thở dài, nghĩ rằng nó lại chết. Mọi người đành để nó nằm yên trên giường, ai về phòng nấy.

Còn nữa...

backieuphong
02-02-2014, 01:15 AM
Châu Nhi

Tiếp theo


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/ma-quy-yeu-tinh.jpg

Sáng sau, gia nhân vào coi, thấy Bé Châu sống lại, bèn hô hoán ầm lên. Cả nhà lại chạy lên coi. Thấy Bé Châu cứ chết đi sống lại, Lý ông lấy làm lạ, bèn hỏi:"Tối qua con đã chết, sao sáng nay lại sống?" Bé Châu đáp:"Tối qua con đâu có chết! Con theo Bé Kha xuống âm phủ chơi, sáng nay mới về" Hỏi:"Bé Kha là ai?" Đáp:"Là một đứa bé cũng bị Vệ thiền sư sát hại như con. Hôm thiền sư giết con, ổng còn giết thêm hai đứa nữa, một đứa tên Kha, một đứa tên Tản" Lý ông hỏi:"Bé Kha ở với ai?" Bé Châu đáp:"Nó ở với Khương viên ngoại" Hỏi:"Nó quen biết với Khương viên ngoại ra sao?" Đáp:"Nó có quen biết chi đâu! Vì thấy ổng không con, Diêm Vương mới bắt nó tới làm con nuôi ổng" Hỏi:"Ở với ổng, nó có được đầy đủ không?" Đáp:"Vì ổng giàu có nên nó cũng được đầy đủ!" Hỏi:"Nó có biết chuyện con được sống lại không?" Đáp:"Có" Hỏi:"Tối qua, con đi đâu gặp nó?" Đáp:"Tối qua, con có đi ra ngoài đâu! Nó lén lính canh cổng âm phủ, trốn lên đây thăm con rồi rủ con xuống nhà Khương viên ngoại ở chơi với nó một đêm để chuyện trò từ biệt" Lý ông hỏi:"Sáng nay, ai đưa con về?" Bé Châu đáp:"Bé Kha!" Hỏi: "Về bằng gì?" Đáp:"Bằng ngựa của viên ngoại!". Lý ông lại hỏi:"Ở âm phủ, con có biết đứa bé nào họ Lưu, tên Cảnh Chiêm không?" Bé Châu đáp:"Chính là con đây! Con có phải là Bé Châu đâu! Con chỉ mượn xác Bé Châu để sống lại thôi. Vì thế, từ nay xin Bố gọi con là Bé Chiêm!" Vỡ lẽ, Lý ông bèn bắt mọi người trong nhà phải gọi Bé Châu là Bé Chiêm.

Nghe Bé Chiêm nói, Ngô thị bèn hỏi:"Thế ở âm phủ, con có gặp Bé Châu không?" Bé Chiêm đáp:"Có, nhưng nó đã chuyển sinh rồi" Hỏi: "Chuyển sinh làm con ai?" Đáp:"Làm con phú thương họ Nghiêm, tên Tử Phương" Hỏi:"Sao con biết?" Đáp:"Nó thuật lại cho con nghe!" Hỏi:"Nó thuật như thế nào?" Đáp:"Nó thuật rằng Diêm Vương sai quỷ sứ gọi nó vào điện, bảo cho nó biết là Bố với nó không có duyên cha con. Trước kia, Bố có nợ ông Nghiêm Tử Phương 11 vạn đồng. Bố chưa kịp trả thì ổng đã chết. Vì thế, Diêm Vương cho nó lên dương thế làm con Bố để Bố dùng nó thay tiền mà trả nợ ổng. Hôm nọ ổng mới biết nó là con Bố nên ổng xin Diêm Vương cho ổng lên dương thế bắt nó xuống âm phủ làm con, để trừ nợ. Diêm Vương thuận cho. Ổng bèn lên dương thế, tới nhờ Vệ thiền sư bắt nó cho ổng. Vì thế, Vệ thiền sư mới giết chết nó. Như vậy là Bố đã hết nợ ông Nghiêm Tử Phương rồi!"

Đứng nghe Bé Chiêm nói, Lý ông giật mình kinh hãi, tóc gáy dựng ngược, mồ hôi toát ra. Lý ông thầm nghĩ:"Khi còn ít tuổi, mình có đi buôn ở Kim Lăng. Khi mua hàng của ông Nghiêm Tử Phương, quả thực mình còn nợ ổng 11 vạn đồng. Mình đang gom tiền để trả thì nghe tin ổng mất. Tuy nhiên, ngoài ổng với mình ra, có ai biết chuyện này đâu!" Vì thế. khi nghe Bé Chiêm nói, Lý ông tin ngay.

Lý bà cũng hỏi:"Thế ở âm phủ, con có gặp chị Tiểu Huệ không?" Bé Chiêm đáp:"Không. Nhưng sớm muộn gì thì con cũng sẽ hỏi được tin tức về Chị cho mẹ. Nhưng xin mẹ cho con biết hồi sinh thời Chị có thích thứ gì đặc biệt không?" Lý bà đáp:"Có. Hồi sinh thời, nó thích nhất là hoa tú đế. Một hôm, nó dùng kéo để cắt móng tay. Chẳng may nó bị kéo cắt đứt tay, máu nhuộm đỏ áo. Nó bèn lấy máu vẽ một bông hoa tú đế trên lụa. Từ hôm ấy, thỉnh thoảng nó lại lấy kéo cắt đứt ngón tay để lấy máu vẽ hoa. Bức tranh nó đắc ý nhất, bây giờ Mẹ vẫn còn giữ làm kỷ vật, treo ở đầu giường nó!"

Ba hôm sau. Sáng ra, Bé Chiêm chạy tới phòng Lý bà, nói:"Mẹ ơi, chị Tiểu Huệ bây giờ sung sướng lắm" Lý bà hỏi:"Sao con biết?" Bé Chiêm đáp: "Đêm qua, con xuống âm phủ thăm Bé Kha, được gặp Khương viên ngoại. Con hỏi viên ngoại xem ổng có biết gì về chị Tiểu Huệ không thì ổng gật đầu, nói rằng bây giờ Chị oai vệ lắm, cứ ra khỏi cổng là có cả trăm kẻ tiền hô hậu ủng vì Chị đã thành hôn với Thạch công tử, con trai út của Sở Giang Vương. Con bèn xin ổng dẫn con đi gặp Chị. Ổng ưng thuận, rồi dẫn con tới dinh thự của Thạch công tử. Vào sảnh đường, con thấy Chị điểm trang lộng lẫy, đầu tóc giắt đầy châu thúy" Hỏi:"Thế sao nó không về dương thế thăm nhà?" Đáp:"Có phải là ma nào cũng về dương thế thăm nhà được đâu? Thường thì khi người ta chết, ai cũng quên hết mọi việc hồi sinh thời, quên cả cha mẹ. Chỉ có những người ưa thích một thứ gì đặc biệt, thì sau khi chết, nếu có ai nhắc tới, may ra mới nhớ lại được mà thôi!" Hỏi:"Nó đối xử với con ra sao?" Đáp:"Chị đối xử với con thân mật và tử tế lắm. Khi viên ngoại giới thiệu con với Chị xong, Chị liền bảo con lên chiếc sập san hô trong sảnh đường ngồi nói chuyện với Chị. Khi con nói trên dương thế, Bố Mẹ nhớ Chị lắm thì Chị không hiểu chi cả, chỉ ngơ ngác nhìn con như người mơ ngủ. Con bèn nhắc hồi sinh thời Chị ưa lấy máu ngón tay để vẽ hoa tú đế lắm thì Chị mới nhớ lại được, rồi thở dài não nuột"

Lý bà hỏi:"Nó có đả động chi đến chuyện về thăm nhà không?" Đáp:"Có. Chị nói với con rằng Chị sẽ nhờ Thạch công tử xin với Sở Giang Vương và phu nhân cho phép Chị về thăm Bố Mẹ" Hỏi:"Nó có nói là hôm nào sẽ về không?" Đáp:"Không". Tuần sau, Lý ông đưa Ngô thị về thăm Ngô gia.

Một sáng, Bé Chiêm chạy tới phòng Lý bà, nói:"Hôm nay chị Tiểu Huệ sẽ về nhà thăm Bố Mẹ" Lý bà hỏi:"Bao giờ thì nó về tới đây?" Bé Chiêm đáp:"Cũng sắp rồi. Chị có dắt theo một đoàn tùy tùng, đông lắm. Mẹ nên mua lấy ít tiền giấy mà đốt để cho bọn họ có chút tiền tiêu và sửa soạn cho bọn họ một bữa rượu thịt" Lý bà vội sai tiểu đồng chạy ra chợ mua tiền giấy và đốc thúc gia nhân sửa soạn rượu thịt.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/a%20ph.jpg

Lát sau, Bé Chiêm lại chạy đi tìm Lý bà, nói:"Mẹ ơi, chị Tiểu Huệ đã về tới đây rồi! Chị đang đứng trên phòng khách kia kìa!" Lý bà cùng gia nhân vội theo Bé Chiêm lên phòng khách, nhưng chẳng thấy ai. Lý bà hỏi: "Chị Tiểu Huệ đâu?" Bé Chiêm không đáp, chỉ quay ra nói chuyện với Tiểu Huệ:"Chị hãy ngồi xuống sập này mà nghỉ chân, đừng đứng đó mà khóc nữa!" Mọi người trong phòng đều lắng nghe tiếng khóc nhưng chẳng ai nghe thấy gì. Bé Chiêm quay ra giục Lý bà:"Mẹ hãy sai người đem tiền giấy ra cổng đốt rồi bưng rượu thịt ra cho đoàn tùy tùng của Chị ăn uống!" Lý bà bèn sai gia nhân làm theo lời. Bé Chiêm cũng theo gia nhân ra cổng xem chúng đốt tiền giấy và bày rượu thịt.

Lát sau, nó chạy vào nói với Lý bà:"Mẹ ơi, chị Tiểu Huệ cũng ra cổng xem đoàn tùy tùng ăn uống và chia tiền. Chị ra lệnh cho bọn họ được tự do, trưa mai mới phải trở lại đón chị" Nói xong, nó lại chạy ra cổng.

Lát sau, nó lại chạy vào nói với Lý bà:"Mẹ ơi, chị Tiểu Huệ vào nhà rồi! Chị nói với con rằng hồi sinh thời, Chị có cái chăn thêu với đường viền kép, bị đuốc hoa đốt cháy mất một lỗ tròn bằng hạt đậu rồi bảo con hỏi mẹ xem chăn ấy có còn không?" Lý bà đáp:"Còn!" rồi đi lấy chăn đem ra. Bé Chiêm nói:"Chị vào phòng cũ của Chị rồi! Chỉ bảo con thưa với mẹ rằng vì đi đường xa nên bây giờ Chị mệt lắm, rất buồn ngủ. Sáng mai Chị sẽ xin hầu chuyện mẹ. Chị cũng dặn con nếu mẹ đem chăn ra thì đem vào phòng cho Chị!" Nghe Bé Chiêm nói, Lý bà bèn về phòng.

Hàng xóm phía đông của Lý ông là một gia đình họ Triệu. Ông bà Triệu có ái nữ tên Bích Hằng kém Tiểu Huệ hai tuổi. Hồi sinh thời, Bích Hằng với Tiểu Huệ thân nhau lắm. Đêm ấy, Bích Hằng mộng thấy Tiểu Huệ quấn khăn vàng, mặc áo tía, tới thăm mình, mỉm cười, nói:"Em chớ kinh hãi. Bây giờ chị đã là ma, đang về thăm nhà nhưng không có hình hài để nói chuyện với Bố Mẹ. Sáng mai, em làm ơn cho chị mượn hình hài của em một buổi để chị về nói chuyện với Bố Mẹ"

Sáng sau, Bích Hằng ngủ dậy, thuật lại giấc mộng cho mẹ nghe. Vừa thuật xong, Bích Hằng té xuống đất, nằm hôn mê. Triệu bà kinh hãi, chẳng biết làm thế nào. Lát sau, Bích Hằng tỉnh dậy, ngơ ngác nhìn Triệu bà, nói: "Thím Triệu với Tiểu Huệ mới xa nhau đây mà thấm thoắt đã 7 năm rồi. Tóc thím Triệu đã bạc trắng cả!" Triệu bà càng kinh hãi, nhìn con, hỏi:"Con có điên không?" Bích Hằng không đáp, chỉ chắp tay cúi đầu chào mẹ rồi vọt ra cổng, chạy sang nhà Lý ông.

Tới nơi, Bích Hằng chạy thẳng đến phòng Lý bà, đẩy cửa bước vào. Thấy Lý bà đứng ở góc phòng, Bích Hằng chạy tới ôm chầm lấy mà khóc. Lý bà kinh hãi, chẳng hiểu tại sao con gái nhà hàng xóm lại chạy sang nhà mình, ôm lấy mình mà khóc? Đột nhiên, Bích Hằng nói:"Con về nhà từ sáng hôm qua nhưng vì đi đường xa bị mệt nên chưa hầu chuyện Bố Mẹ được. Trước kia, con sống với Bố Mẹ, chưa được nửa đường đã bỏ ra đi, khiến Bố Mẹ đau lòng. Con đã phạm tội bất hiếu, bây giờ biết chuộc cách nào đây?"

Vỡ lẽ, Lý bà bật khóc, nói:"Bố Mẹ đau lòng lắm, nhưng bây giờ nghe tin con được phú quý, Bố Mẹ cũng vui mừng" Bích Hằng hỏi:"Bố với dì Ngô có nhà không?" Lý bà đáp:"Đi vắng cả!" Rồi Lý bà hỏi:"Làm dâu một gia đình vương giả mà sao con lại được về thăm nhà dễ* dàng như thế này?" Bích Hằng đáp:"Vợ chồng con cực kỳ hòa thuận, tương đắc. Bố mẹ chồng con cũng rất thương yêu con nên khi con nhờ chồng con xin phép cho về thăm nhà thì bố mẹ chồng con cho phép ngay" Nói xong, Bích Hằng buông Lý bà, chạy tới tường, đứng dựa lưng, nghiêng đầu, chống má, giống hệt điệu bộ của Tiểu Huệ hồi sinh thời. Thấy thế, Lý bà càng thương cảm, cứ sụt sùi mãi. Sau đó, Lý bà dắt Bích Hằng lên giường ngồi hàn huyên tâm sự.

Còn nữa...

backieuphong
02-02-2014, 01:22 AM
Châu Nhi

Tiếp theo


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/dim%20vng%204.jpg

Đến trưa, bỗng Bé Chiêm chạy từ cổng vào phòng Lý bà, nói:"Đoàn tùy tùng của chị Tiểu Huệ đã tới ngoài cổng, tề tựu đông đủ rồi!" Bích Hằng vội đứng dậy, chắp tay cúi đầu chào Lý bà, vừa khóc vừa nói:"Thôi, con phải đi đây. Mẹ cho con gửi lời chào Bố với dì Ngô!" Nói xong, Bích Hằng té xuống đất nằm hôn mê. Lát sau, Bích Hằng tỉnh lại. Lý bà bèn sai gia nhân đưa Bích Hằng về nhà.

Tuần sau, Lý ông cùng Ngô thị từ Ngô gia về. Mấy hôm sau, đột nhiên Lý ông bị bệnh nặng. Lý bà cho mời thầy thuốc tới xem mạch, hốt thuốc cho chồng nhưng bệnh tình của Lý ông chẳng hề thuyên giảm. Bé Chiêm vào phòng thăm Lý ông rồi ra nói với Lý bà:"Có hai con quỷ đang ngồi ở đầu giường Bố, một con cầm trượng sắt, một con cầm dây thừng. Con năn nỉ chúng tha cho Bố, nhưng chúng không chịu. Vậy thì Bố sắp mất rồi!" Nghe thấy thế, Lý bà mếu máo, sai gia nhân chuẩn bị khăn liệm, quan quách cho chồng.

Tối ấy, đột nhiên Bé Chiêm lại chạy từ cổng vào phòng Lý ông, hét lớn:"Những kẻ dơ bẩn và đàn bà con gái hãy ra khỏi phòng này ngay. Chồng chị Tiểu Huệ là Thạch công tử, sắp tới thăm Bố đó!" Mọi người trong phòng đều kinh hãi, kéo nhau chạy ra khỏi phòng. Nửa giờ sau, Bé Chiêm lại tìm gặp Lý bà, vỗ tay cười, nói:"Mẹ ơi, con mắc cười quá!" Lý bà hỏi:"Mắc cười về chuyện chi?" Đáp:"Về chuyện hai con quỷ ngồi ở đầu giường Bố. Khi nghe tin Thạch công tử sắp tới, chúng sợ xanh mặt, rủ nhau rúc xuống gầm giường Bố để trốn, trông giống hệt hai con rùa".

Nói xong, Bé Chiêm lại chạy ra giữa sân, ngửa mặt lên trời mà nói: "Thạch đại ca đấy ư? Em là Bé Chiêm, em của chị Tiểu Huệ đây" Thế rồi nó cứ đứng ở giữa sân, ngửa mặt lên trời mà nói chuyện với Thạch công tử. Lát sau, nó lại vỗ tay cười, nói:"Hai con quỷ mọi rợ này thực là ngu xuẩn. Tôi đã năn nỉ chúng mãi mà chúng chẳng chịu tha cho Bố. Bây giờ thì tôi khoái chí quá!" Nói xong, nó chạy ra cổng.

Lát sau, nó lại chạy vào nhà, nói với Lý bà:"Mẹ ơi, Thạch công tử đã bắt hai con quỷ ấy đi rồi. Công tử lôi chúng từ gầm giường Bố ra, lấy dây trói lại rồi treo lủng lẳng ở cổ ngứa. Như vậy là Bố sẽ không sao hết, Mẹ khỏi phải sửa soạn ma chay cho Bố. Công tử nói với con là sẽ về tâu với Diêm Vương, xin cho cả ba Bố Mẹ thọ đủ trăm tuổi!" Thấy nó nói thế, cả nhà đều mừng. Đêm ấy, đột nhiên bệnh tình của Lý ông thuyên giảm rõ rệt. Ba ngày sau, Lý ông khỏi hẳn bệnh.

Lý ông bèn mời thầy đồ tới nhà dạy Bé Chiêm học. Nó học rất thông minh. Năm 18 tuổi, nó được nhận vào học ở trường huyện. Tuy sống trên dương thế nhưng nó vẫn có thể nhìn thấy mọi vật dưới chốn u minh. Vì vậy, ở trong làng, nhà nào có bệnh nhân bị ma làm cũng mời nó tới nhà đuổi ma cho. Nó tới nhà bệnh nhân, chỉ chỗ ngồi của ma rồi bảo người nhà lấy lửa đốt, khiến ma sợ, phải bỏ chạy. Thế là bệnh nhân khỏi bệnh.

Năm Bé Chiêm 20 tuổi, một hôm chính nó bị bệnh nặng, người cứ gầy dộc đi, da dẻ xanh xao vàng vọt. Lý bà bảo nó:"Con hãy chỉ chỗ ma ngồi trong nhà mình để Mẹ lấy lửa đốt cho con được khỏi bệnh!" Nó cười, đáp: "Ma đâu có làm gì được con. Bệnh của con là do thần linh trách phạt về tội tiết lậu thiên cơ. Mươi hôm nữa, hết hạn phạt, con sẽ khỏi!"


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/dim%20vng%203.jpg

Quả nhiên, mười ngày sau nó khỏi bệnh. Từ đó về sau, chẳng bao giờ Bé Chiêm đả động chi đến những chuyện dưới chốn u minh nữa./.

Backieuphong: Theo Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh (bản dịch của GS Đàm Quang Hưng - Giáo Sư Toán Trường Đại Học Cộng Đồng Houston, Texas

minh_anh
15-02-2014, 05:04 PM
CÁI TIÊN
http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/cai_bang/ci%20bang.jpg

Ca vũ viên lâm các tận hoan

Lệ nhân hốt tác dạ xoa khan

Nhược phi suy giải đương thời ý

Linh quật hà lai đoạt mệnh đan

TIÊN ĂN MÀY CỨU THẦY THUỐC

Làng Quảng Lý, huyện Kim Thành, tỉnh Cam Túc, có công tử Cao Ngọc Thành, dòng dõi vọng tộc, gia tư phú túc, giỏi nghề châm cứu. Ngọc Thành có vợ, họ Hạ, và một trai, một gái. Đối với bệnh nhân, Ngọc Thành không hề phân biệt giàu nghèo. Ai có bệnh tới nhờ châm cứu, Ngọc Thành cũng niềm nở tiếp đãi, tận tình chữa trị.

Mùa hè năm ấy, một hôm, ở Quảng Lý, mới xuất hiện một kẻ ăn mày, không rõ từ đâu tới, nằm rên ở bên đường. Thấy kẻ ấy ghẻ lở cùng mình, ung nhọt đầy đùi, máu mủ tanh hôi, hầu hết dân làng đều lảng tránh, chỉ có vài ba người đem cơm nước tới cho. Mấy hôm trước, nhân có việc phải đi xa, Ngọc Thành dẫn một đám gia nhân cùng đi. Hôm về, nhìn thấy kẻ ăn mày ấy nằm rên ở bên đường, Ngọc Thành liền sai đám gia nhân dắt về nhà, cho ở trong phòng khách thuộc dãy nhà ngang. Vì sợ khách tanh hôi, đám gia nhân đều lảng tránh, chỉ có vài ba kẻ hiếu kỳ, lấy tay bịt mũi, tới gần để coi. Lát sau, Ngọc Thành lấy đồ nghề châm cứu đem xuống nhà ngang thăm khách thì thấy khách đang nằm rên ở trên giường. Ngọc Thành hỏi:"Khách tên chi?" Khách vội ngưng rên mà đáp:"Bản nhân tên Trần Cửu!" Ngọc Thành nói: "Bây giờ bản nhân vào đây để chữa bệnh cho khách!" Trần Cửu nói:"Đa tạ công tử! Vừa rồi, bản nhân đã được công tử cho theo về đây cư ngụ, bây giờ lại được công tử vào đây chữa bệnh cho, bản nhân không có chi để báo đáp, chỉ biết xin công tử nhận cho lời tri ân!" Ngọc Thành nói:"Bản nhân thích có dịp được làm phước cho người! Nay có dịp được làm phước cho khách, bản nhân thấy sung sướng rồi, khách không cần phải cám ơn!" Trần Cửu đáp:"Bản nhân sống được là nhờ ân đức của công tử nên bản nhân có bổn phận phải cám ơn!" Ngọc Thành không nói chi.

Châm cứu cho khách xong, Ngọc Thành ra dặn một gia nhân, tên Khánh Hà, hàng ngày phải đem 3 bữa cơm vào phòng cho khách. Hôm sau, khi Khánh Hà đem cơm vào, Trần Cửu nói:"Cơm này nấu bằng gạo thô, ăn dở lắm! Lần sau, phải dùng gạo thơm mà nấu cơm cho ta!" Giận quá, Khánh Hà lên mách chủ. Ngọc Thành nói:"Thì lấy gạo thơm mà nấu cơm cho khách!" Ba hôm sau, khi Khánh Hà đem cơm vào, Trần Cửu lại nói:"Lần sau, phải đem theo canh để ta d*ễ nuốt và đem theo bánh để ta tráng miệng!" Giận quá, Khánh Hà quát:"Ngươi gặp chủ ta là người nhân đức, không thì ngươi chết từ lâu rồi! Đi ăn mày mà đòi xôi gấc!" Nghe tiếng quát, Ngọc Thành gọi Khánh Hà lên hỏi chuyện. Nghe Khánh Hà trình bày, Ngọc Thành nói:"Thì đem canh với bánh vào cho khách!" Tuy giận khách, nhưng Khánh Hà vẫn tuân lời chủ.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Y_khoa/chun%20on.jpg

Tuần sau, khi Khánh Hà đem cơm vào, Trần Cửu lại nói:"Lần sau, phải đem theo thịt với rượu để ta nhắm!" Giận quá, Khánh Hà không thèm đáp lời, chạy lên nhà trên mách chủ. Nhìn thấy Khánh Hà, Ngọc Thành hỏi:"Thế nào? Khách đã đỡ chưa?" Khánh Hà đáp:"Thưa công tử, y khỏi hẳn rồi, chứ không phải là chỉ đỡ mà thôi!" Hỏi:"Sao ngươi biết?" Đáp:"Vì các ung nhọt của y đều đã đóng vẩy mà vẩy cũng đã rụng gần hết!" Hỏi:"Khách còn rên không?" Đáp:"Y vẫn còn rên!" Ngọc Thành nói:"Nếu vẫn còn rên thì chưa khỏi hẳn!" Khánh Hà cãi:"Y khỏi hẳn rồi, nhưng vẫn giả vờ rên để mong được công tử cho ở lại ăn bám!" Hỏi:"Ngươi thấy khách là người thế nào?" Đáp:"Y là kẻ tham lam! Nằm ăn xin ở dọc đường, sắp chết đói thì được công tử thương hại, đem về đây nuôi. Cho ăn cơm thì chê là cơm gạo thô. Cho ăn cơm gạo thơm thì lại đòi ăn canh với bánh! Cho ăn canh với bánh thì lại đòi ăn thịt uống rượu! Công tử cứ để cho tiểu nhân quẳng y ra chỗ cũ ở bên đường là xong!" Ngọc Thành nói:"Nếu chỉ đòi thịt với rượu thôi thì cũng chẳng phải là kẻ tham lam! Ngươi cứ đem tiền ra chợ mà mua thịt với rượu cho khách!" Khánh Hà tức lắm, chỉ giả vờ vâng dạ, chứ không tuân lời, rồi xuống bếp thuật chuyện cho chúng bạn nghe. Chúng bạn đều gật gù, cho rằng chủ mình là kẻ điên rồ.

Hôm sau, khi xuống nhà ngang thăm khách, Ngọc Thành hỏi:"Khách đã đỡ chưa?" Trần Cửu khập khi*ễng đứng dậy mà đáp:"Đa tạ công tử! Bản nhân đỡ rồi! Nhờ ơn sâu của công tử mà kẻ chết đã được sống lại, bộ xương khô đã được mọc thịt!" Hỏi:"Khách có cần chi không?" Đáp:"Thưa có!" Hỏi:"Cần chi?" Đáp:"Vì mới ốm dậy nên bản nhân thấy thèm thịt với rượu!" Nghe khách nói, Ngọc Thành biết Khánh Hà ghét khách, không tuân lời mình, nên gọi vào trách mắng rồi bắt đi lấy thịt với rượu đem vào. Tuy ngoài mặt, Khánh Hà tuân lời chủ, nhưng trong lòng, Khánh Hà căm hận khách vô cùng.

Đêm ấy, chờ mọi người ngủ say, Khánh Hà châm lửa đốt căn phòng Trần Cửu đang ngủ. Chờ cho ngọn lửa lên cao, Khánh Hà mới tri hô:"Cháy! Cháy!" Nghe tiếng tri hô, cả nhà thức giấc, chạy ra sân coi. Ngọc Thành vội đốc thúc gia nhân lấy nước chữa cháy. Trong khi gia nhân ra sức tưới nước, Ngọc Thành cứ thở dài mà than:"Cháy lớn thế này thì chắc ông khách chết rồi!" Khi ngọn lửa tắt, ai cũng nghĩ chắc xác Trần Cửu đã bị cháy thành than. Thế nhưng, đột nhiên mọi người cùng nghe thấy có tiếng ngáy trong đống tro bốc khói. Đưa mắt nhìn, mọi người đều kinh ngạc vì thấy khách vẫn còn sống, đang nằm ngủ ngon lành. Ngọc Thành liền lên tiếng gọi:"Trần quân!" Nghe tiếng gọi, Trần Cửu vươn vai ngồi dậy, đưa mắt nhìn quanh. Thấy Ngọc Thành, Trần Cửu hỏi:"Công tử đó ư? Phòng ốc nhà cửa biến đâu mất cả rồi?" Ngọc Thành đáp: "Cháy cả rồi!" Trần Cửu liền co chân nhảy vọt ra khỏi đống tro, nhẹ nhàng đáp xuống cạnh Ngọc Thành. Ngọc Thành bèn dắt Trần Cửu lên phòng khách thuộc dãy nhà trên, sai gia nhân đi lấy y phục mới cho Trần Cửu. Lúc đó, mọi người mới thấy Trần Cửu không phải là kẻ ăn mày tầm thường mà là một kỳ nhân. Nể trọng Trần Cửu, Ngọc Thành gọi Trần Cửu bằng tiên sinh. Tuần sau, Trần Cửu bình phục, diện mạo sáng sủa hẳn lên, ngôn ngữ phảng phất phong cách đạo gia.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0008.jpg

Một hôm, Ngọc Thành hỏi Trần Cửu:"Tiên sinh có biết đánh cờ không?" Trần Cửu đáp:"Bản nhân cũng biết vài ba nước!" Ngọc Thành bèn mời Trần Cửu đánh cờ. Trần Cửu nhận lời. Đánh ba ván, Ngọc Thành thua cả ba. Phục tài cao cờ của Trần Cửu, Ngọc Thành xin được học những nước thần diệu. Trần Cửu vui vẻ chỉ dẫn.

Một hôm, có quý khách xa tới thăm, Ngọc Thành mở tiệc khoản đãi, mời Trần Cửu cùng dự. Khách xa đề nghị gieo xúc xắc để lấy số làm tửu lệnh. Ngọc Thành tán đồng. Trần Cửu bèn xin được gieo thay Ngọc Thành. Ngọc Thành thuận ý. Thấy Trần Cửu luôn luôn gieo được số mình mong uớc, Ngọc Thành kinh ngạc lắm. Khi khách cáo biệt, Ngọc Thành xin Trần Cửu chỉ cho mình cách gieo xúc xắc để được số như ý. Trần Cửu chỉ cười, ngụ ý chối từ.

Cuối năm ấy, tới mùa đông, tiết trời lạnh lắm. Một hôm, chợt nghĩ rằng Trần Cửu đã ở lì tại nhà mình đến quá nửa năm mà không đả động chi tới chuyện cáo biệt, Ngọc Thành bắt đầu cảm thấy chán ngán, bực bội, thầm chê khách là kẻ chẳng biết điều. Thế nhưng, chiều hôm sau, đang lúc ngồi đàm đạo ở phòng khách, Ngọc Thành toan nói bóng gió về việc ấy thì đột nhiên Trần Cửu đã lên tiếng trước: "Khuya nay, bản nhân xin cáo biệt!" Tuy mừng thầm trong bụng, nhưng ngoài mặt, Ngọc Thành vẫn nói:"Chúng ta đang tương đắc, sao tiên sinh lại bỏ đi?" Trần Cửu đáp:"Vì bản nhân ở đây đã quá lâu, làm phiền công tử đã quá nhiều! Tuy nhiên, vì công tử đã ban cho bản nhân quá nhiều ân huệ nên trước khi cáo biệt, bản nhân muốn mời công tử dự một bữa tiệc, mong được công tử nhận lời!" Ngọc Thành nói:"Tiên sinh không có tiền thì lấy chi mà đãi tiệc? Bản nhân không nhận lời đâu!" Trần Cửu nói:"Một bữa tiệc thì có là bao? Xin công tử cứ nhận lời cho!" Ngọc Thành lưỡng lự hồi lâu rồi gật đầu mà nói:"Tiên sinh đã nói thế thì bản nhân phải nhận lời vậy! Tuy nhiên, xin tiên sinh cho biết là tiệc đặt ở đâu?" Trần Cửu đáp:"Ở cái chòi trong vườn sau nhà này!" Ngọc Thành nói:"Bây giờ đang giữa mùa đông, không khí trong chòi lạnh lắm!" Trần Cửu đáp:"Không lạnh đâu! Nếu công tử không tin, xin theo bản nhân ra đó coi!" Nói xong, Trần Cửu đứng dậy, mời Ngọc Thành đi theo mình.

Ra tới vườn sau, Ngọc Thành sửng sốt vì thấy thời tiết trong vườn ấm áp lạ thường, không khác chi thời tiết tháng ba. Vào chòi, Ngọc Thành thấy không khí còn ấm áp hơn. Đưa mắt nhìn quanh, Ngọc Thành thấy chòi đã biến thành một phòng khách rộng rãi, giữa có bày một bộ bàn ghế sang trọng, nạm hồng ngọc với mã não. Ở góc phía đông, có một chậu sứ đặt trên giá sành, trong trồng cây lớn, cành lá xum xuê, có đàn chim lạ đang đua nhau hót. Ở góc phía bắc, có bình pha lê trên giá cẩm thạch, trong trồng cây mai, cành trắng như tuyết, có đàn chim nhỏ đang nhảy tung tăng. Thấy lạ, Ngọc Thành bèn tiến tới chỗ cây mai, nắm thân cây mà rung, thử xem cảnh vật trước mắt là thực hay ảo. Đột nhiên, Ngọc Thành thấy hoa vàng nở rộ trên cành, chim trắng bay vọt lên cao rồi sà xuống đậu trên vai mình. Đưa tay bắt chim, thấy tay mình quơ vào khoảng không, rồi hoa vàng rụng lả tả, Ngọc Thành sững sờ kinh ngạc. Trần Cửu chỉ đứng nhìn mà mỉm cười rồi mời Ngọc Thành ra bàn ngồi.

Ở góc phía tây, Ngọc Thành thấy một chim yểng đậu trên giá gỗ, cất tiếng ra lệnh:"Dâng trà!" Tức thì, một chim phượng lông đỏ, mỏ ngậm khay trà, trên có hai chiếc chén pha lê, đựng trà thơm nghi ngút, từ bên ngoài bay vào, đậu ở cạnh bàn, nhả khay lên bàn. Trần Cửu khẽ đưa tay mời Ngọc Thành dùng trà. Hai người cùng nhâm nhi. Lát sau, thấy Trần Cửu đặt chén lên khay, Ngọc Thành cũng bắt chước. Chim phượng lại ngậm khay, vỗ cánh bay đi.

Còn nữa...

minh_anh
15-02-2014, 05:30 PM
TIÊN ĂN MÀY CỨU THẦY THUỐC

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Y_khoa/011.jpg

Tiếp...

Chim yểng cất tiếng ra lệnh:"Dâng rượu!" Tức thì, một chim loan lông xanh, mỏ ngậm bình rượu, một chim hạc lông vàng, mỏ ngậm hai chén, từ bên ngoài bay vào, đậu ở cạnh bàn, nhả bình với chén lên bàn. Chim yểng cất tiếng ra lệnh:"Dâng thức ăn!" Tức thì, một đàn chim, lông đủ màu sắc, mỏ ngậm các đĩa sơn hào hải vị, từ bên ngoài bay vào, đậu ở cạnh bàn, nhả đĩa lên bàn. Trong khoảnh khắc, bàn tiệc đã được bày xong. Thức ăn và rượu toàn là những phẩm vật khác thường, hương thơm ngào ngạt, la liệt đầy bàn. Trần Cửu rót rượu mời Ngọc Thành. Thấy Ngọc Thành uống rượu rất hào, Trần Cửu nói:"Không dè công tử lại có tửu lượng cao đến mức này! Vậy ta nên dùng chén lớn!". Nghe Trần Cửu nói, lập tức chim yểng ra lệnh:"Dâng chén lớn!" Tức thì, một bướm to bằng chim ưng, cặp cánh ẻo lả, vằn hoa di*ễm lệ, từ ngoài bay vào, liệng quanh bàn tiệc trông rất đẹp mắt. Ngọc Thành cất tiếng khen:"Bướm đẹp quá!" Nghe Ngọc Thành khen, Trần Cửu mỉm cười mà ra lệnh:"Mời rượu!" Tức thì, bướm vọt lên cao, rồi sà xuống sàn, biến thành giai nhân, xiêm y lòa xòa, bưng chén rượu lớn, tiến tới gần bàn mà dâng Ngọc Thành. Trần Cửu ra lệnh:"Trình diễn vũ điệu giai nhân trợ hứng!" Tức thì, giai nhân múa khúc nghê thường, chân dời khỏi sàn, thân lướt lên cao, đầu cúi xuống chân. Rồi đột nhiên, giai nhân lắc mình đứng thẳng, cất tiếng ca vang, chân vẫn lửng lơ, chẳng chạm mặt sàn. Khi dứt khúc ca, Ngọc Thành thấy dường như dư âm vẫn còn văng vẳng bên tai, từ mái nhà vọng xuống.

Mê mẩn tâm thần, Ngọc Thành đứng dậy, tiến sát giai nhân, nắm hờ vai áo, dìu nhẹ tới bàn, mời ngồi đàm đạo. Chẳng dám ngồi ngay, giai nhân đưa mắt lén nhìn Trần Cửu. Trần Cửu mỉm cười mà nói:"Thì cứ ngồi xuống, đàm đạo với khách!" Rồi Trần Cửu tự tay rót rượu, ban cho giai nhân. Khi rượu ngà ngà, ý tâm dao động, Ngọc Thành đứng dậy, tới bồng giai nhân. Tức thì, giai nhân biến thành quỷ sứ, răng nhọn mắt lồi, da đen thịt lõm, cực ác cùng hung. Kinh hãi quá, Ngọc Thành vội buông rơi quỷ. Bị rớt xuống sàn, quỷ vội đứng lên, dựa vào thành bàn, thân run bần bật. Trần Cửu liền bước tới gần, lấy đũa đập vào mõm quỷ mà hô:"Biến!" Tức thì, quỷ biến thành bướm, lập lững bay đi. Thấy giai nhân đã biến mất, Ngọc Thành xin cáo biệt. Trần Cửu liền ti*ễn Ngọc Thành ra sân. Ra tới ngoài sân, Ngọc Thành lảo đảo, vì uống quá nhiều. Ngoảnh đầu nhìn lại, chỉ thấy chòi cũ, Ngọc Thành càng kinh. Ngửng đầu nhìn trời, thấy trăng vằng vặc, Ngọc Thành hỏi đùa:"Đêm nay trăng sáng, phải chăng tiên sinh đã sai chim chóc lên nhà tiên sinh, đem rượu thịt xuống?" Trần Cửu gật đầu mà đáp:"Thưa phải!" Kinh ngạc quá, Ngọc Thành hỏi: "Thực sự là tiên sinh cư ngụ ở trên trời hay sao?" Trần Cửu gật đầu mà đáp:"Thưa đúng thế!" Càng kinh ngạc, Ngọc Thành hỏi:"Vậy tiên sinh có thể đưa bản nhân lên thăm nhà tiên sinh một lần được chăng?" Trần Cửu gật đầu mà đáp:"Thưa được!" rồi nắm tay Ngọc Thành mà dắt đi. Đột nhiên, Ngọc Thành cảm thấy chân dời mặt đất, thân vút lên cao, lơ lửng trong mây. Lát sau, Trần Cửu kéo Ngọc Thành sà xuống một vùng đất lạ. Đảo mắt nhìn quanh, Ngọc Thành thấy một biệt thự rộng lớn, xây cất bên trong một hàng rào cây, có cái cổng to, tròn như miệng giếng. Trần Cửu nói:"Đây là tệ xá!" rồi dắt Ngọc Thành qua cổng. Vào trong, tuy giữa ban đêm, Ngọc Thành vẫn nhìn thấy rõ biệt thự như giữa ban ngày. Trần Cửu dẫn Ngọc Thành đi theo một dải đường lát đá xanh, sạch sẽ trơn tru, mịn tựa lông chim. Chợt thấy bên đường có cổ thụ cao, cành lá xum xuê, hoa màu đỏ thắm, trông tựa hoa sen, chi chít đầy cành, Ngọc Thành không biết cổ thụ tên chi. Chợt thấy ở gốc cổ thụ có một hồ sen, nước xanh trong vắt, có một nữ lang, di*ễm lệ vô song, đang ngồi giặt áo, tay đập chiếc chày lên một áo hồng đặt trên tảng đá, Ngọc Thành bất giác dừng chân đứng nhìn, quên bẵng Trần Cửu.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/moitinh/img_0101.jpg

Thấy khách lạ nhìn mình chằm chặp, nữ lang nổi giận mà nói:"Cái anh chàng điên khùng này! Quê quán ở đâu mà dám lên đây nhìn ta như thế?" Rồi nữ lang cầm chiếc chày giặt mà ném Ngọc Thành. Bị chày trúng lưng, Ngọc Thành tỉnh rượu, cảm thấy ngượng ngùng, mồ hôi đẫm áo. Lúc đó, Trần Cửu mới lững thững tiến tới gần Ngọc Thành, lẳng lặng nắm lấy tay Ngọc Thành mà dắt ngược ra cổng. Dọc đường, Trần Cửu nói:"Còn nhiều tà niệm lắm, chẳng thể ở trên này lâu được!" rồi dắt Ngọc Thành ra ngoài. Chợt thấy ở dưới chân mình có một đám mây trắng hiện ra, Ngọc Thành hỏi: "Bây giờ tiên sinh định đưa bản nhân đi đâu?" Trần Cửu đáp:"Trở về nhân thế!" Hỏi:"Tiên sinh có đi với bản nhân không?" Đáp:"Thưa không! Chỗ này là nơi vĩnh biệt!" Hỏi:"Tiên sinh có điều chi dặn lại bản nhân không?" Đáp:"Thưa có!" Hỏi: "Điều chi?" Đáp:"Thọ mệnh sắp hết!" Kinh hãi quá, Ngọc Thành hỏi:"Có cách chi kéo dài được thọ mệnh không?" Trần Cửu gật đầu mà đáp:"Thưa có!" Hỏi:"Cách chi?" Đáp:"Bỏ nhà, vào núi Tây Sơn mà tạm ẩn mình!" Hỏi:"Bao giờ thì phải vào núi?" Đáp:"Ngày mai! Nếu chần chừ thì không sao tránh khỏi cái chết!" Ngọc Thành toan lên tiếng hỏi tiếp thì chợt nhận ra là Trần Cửu đã biến mất. Đột nhiên, đám mây dưới chân Ngọc Thành cứ hạ thấp dần.

Lát sau, Ngọc Thành thấy mình đang đứng giữa vườn sau nhà mình. Đưa mắt nhìn quanh, dưới nắng ban mai, Ngọc Thành thấy cái chòi cũ trong vườn đã xiêu vẹo, cảnh vật trong vườn đã khác hẳn hôm qua! Lững thững bước vào nhà, thấy vợ con vừa ngủ dậy, Ngọc Thành hỏi:"Ta mới đi vắng có một đêm mà sao cái chòi trong vườn sau đã xiêu vẹo như thế?" Hạ thị đáp:"Chàng đi đã được một năm rồi, chứ đâu có phải là một đêm!" Ngọc Thành bèn thuật chuyện Trần Cửu cho nghe. Mọi người đều kinh ngạc. Hạ thị bèn vạch lưng chồng ra coi chỗ bị chày ném trúng thì thấy ở chỗ ấy, da lưng đỏ tựa gấm, tỏa hương thơm lạ kỳ. Sáng sau, theo lời dặn của Trần Cửu, Ngọc Thành lấy gạo cho vào ruột tượng, quấn quanh lưng làm lương thực, khoác bọc áo quần, lên đường vào núi Tây Sơn.

Sáng sau, tới nơi, thấy mây mù dày đặc, không nhìn rõ đường đi, Ngọc Thành cứ bước bừa trên bãi cỏ hoang để tiến tới chân núi. Đột nhiên, Ngọc Thành xảy chân, rớt xuống vực thẳm, nhưng may mắn là không hề hấn chi. Định thần hồi lâu, quay đầu nhìn lại, Ngọc Thành chỉ thấy mây mù dày đặc, bèn buột miệng than: "Rớt xuống vực thẳm này thì làm sao mà sống? Ông tiên họ Trần bảo ta vào đây để tránh cái chết mà rút cục cũng không tránh được!" Than xong, Ngọc Thành ngồi bệt xuống đất mà thở. Lát sau, khi mây mù đã tan, Ngọc Thành thấy mình đang ngồi trước một cửa động dưới vực thẳm. Đưa mắt nhìn vào, thấy có ánh sáng le lói ở cuối đường hầm, Ngọc Thành bèn đứng dậy, uể oải bước vào trong. Tới nơi có ánh sáng, Ngọc Thành thấy một quang cảnh cực kỳ khác lạ. Đảo mắt nhìn quanh, Ngọc Thành chợt thấy trên một tảng đá bằng phẳng, có hai ông lão, một ông áo trắng, một ông áo vàng, đang ngồi đấu cờ. Tuy biết có khách nhưng hai ông lão cũng không hỏi chi, chỉ đưa mắt nhìn, rồi tiếp tục đấu cờ. Thấy thế, Ngọc Thành cũng lẳng lặng ngồi xuống cạnh mà coi cuộc cờ. Đấu cờ suốt đêm, sáng sau tan cuộc, ông lão áo trắng nhìn Ngọc Thành mà hỏi:"Làm thế nào mà cư sĩ tới được chốn này?" Ngọc Thành đáp:"Vào núi có việc, chẳng may bị lạc, xảy chân rớt xuống chốn này!" Ông lão áo vàng nói:"Chốn này chẳng phải là nơi trần thế! Cư sĩ không nên ở lại đây lâu! Hãy đi theo lão, sẽ biết đường về!" Rồi hai ông lão vẫy Ngọc Thành theo mình ra cửa động. Tới chỗ bị rớt xuống vực hôm qua, tự nhiên Ngọc Thành thấy một đám mây hiện ra ở dưới chân mình, rồi cứ từ từ nâng mình lên cao. Lên quá mặt đất, đám mây lại từ từ hạ xuống bãi cỏ hoang ở chân núi. Nhìn quanh, thấy lá cây ở chân núi đang đổi sang màu vàng, rơi rụng khắp nơi, đúng là tiết cuối thu, Ngọc Thành kinh ngạc lắm, nên thầm nghĩ: "Hôm qua, khi ta tới đây, trời đang giữa đông. Hôm nay trở lại, trời đang cuối thu, là nghĩa làm sao?" Thấy từ lúc lên đường đến giờ mình không thấy đói, không ăn chi mà sức vẫn còn, Ngọc Thành quyết định đi gấp về nhà.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Co_su/5.jpg

Sáng sau, thấy Ngọc Thành trở về, vợ con òa lên khóc. Kinh ngạc, Ngọc Thành hỏi:"Sao lại khóc?" Hạ thị đáp:"Chàng bỏ nhà vào núi Tây Sơn, đã 3 năm rồi! Không thấy chàng trở về, mẹ con thiếp đều nghĩ là chàng đã chết! Nay thấy chàng trở về nên mẹ con thiếp mừng quá mà khóc!" Ngọc Thành nói:"Nói bậy! Ta mới vào núi được có 3 ngày! Ruột tượng gạo còn nguyên đây, ta chưa ăn hạt nào thì làm sao mà đã 3 năm được?" Hạ thị nói:"Thì chàng cứ thử dốc gạo ra coi xem gạo còn mới hay là đã cũ?" Ngọc Thành bèn tháo ruột tượng, dốc gạo ra coi thì thấy là gạo quả đã mục nát. Nửa tin nửa ngờ, Ngọc Thành hỏi:"Ở nhà, có chuyện gì lạ không?" Hạ thị gật đầu mà đáp:"Có! Thiếp nằm chiêm bao thấy một giấc mộng lạ!" Ngọc Thành hỏi:"Giấc mộng lạ như thế nào?" Hạ thị bèn thuật: "Sáng hôm chàng vào núi, thì đến đêm hôm ấy, thiếp mộng thấy có hai lính lệ mặc áo đen, đeo binh khí ở thắt lưng, xông vào nhà mình, sồng sộc vào phòng thiếp, tựa như vào bắt giặc! Gặp thiếp, một tên hỏi:"Chồng đâu rồi?" Thiếp đáp:"Đi vắng rồi! Hai anh là ai?" Thấy chúng không đáp lời, thiếp hét:"Chắc hai anh là lính nhà quan! Sao lính lại được quyền xông vào nhà dân, sồng sộc vào phòng riêng của vợ dân?" Chúng không đáp lời, chỉ rủ nhau ra đi, vừa đi, vừa nói:"Lạ quá! Lạ quá!" Rồi chúng đi mất hút!". Nghe vợ thuật, Ngọc Thành thầm nghĩ:"Hai lính lệ mà vợ mình thấy trong mộng chính là hai quỷ sứ dưới âm ti, tuân lệnh Diêm Vương lên dương thế bắt mình, còn hai ông lão ngồi đánh cờ trong động dưới vực sâu chính là hai ông tiên!".

Thỉnh thoảng, khi có bà con bạn bè tới chơi, Ngọc Thành lại đem chuyện Trần Cửu ra thuật cho nghe, rồi vạch lưng cho xem chỗ bị chày ném trúng. Ai cũng thấy ở chỗ ấy, da lưng đỏ như gấm, tỏa hương thơm lạ kỳ, không phải là hương lan mà cũng không phải là hương xạ.

doancongtu
18-02-2014, 02:48 PM
CƠ SINH

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/co%20trng_1.jpg

Tự tác xuyên du tự cái khiên
Tướng phu lại hữu thất nhân hiền
Hữu ngôn cuồng dược năng mê tính
Nhương tửu đô ưng vi*ễn đạo tuyền

HỒ LY BÁO THÙ VÌ THẸN

Huyện Nam Dương, tỉnh Hà Nam có ông lão họ Ngạc. Ngạc ông có người cháu ngoại tên Cơ Chính Bình, là nho sinh nổi tiếng trong vùng, có vợ họ Thân. Ngôi nhà của Ngạc ông thường bị chồn tới quấy phá, lấy trộm tiền bạc, vật dụng. Ngạc ông tìm mọi cách để trừ chồn nhưng không thấy hiệu nghiệm.

Nghe nói nhà ông ngoại bị chồn quấy phá, Chính Bình bèn lập bàn thờ ở nhà mình, thắp hương mà khấn:"Xin Hồ huynh đang quấy phá nhà ông ngoại đệ hiện ra cho đệ được nói chuyện phải trái một lần!" rồi ngồi chờ, nhưng không thấy chồn nào hiện ra. Chính Bình bèn sang nhà ông ngoại, lập bàn thờ ở đó mà khấn, nhưng cũng không thấy gì. Có kẻ nói:"Khấn chồn hiện ra để nói chuyện phải trái thì quả là điên rồ" Chính Bình cãi:"Vì chồn có thể biến thành người nên ắt chồn cũng phải có cái tâm của người. Vì thế tiểu sinh mới khấn chồn hiện ra để nói chuyện phải trái!" Ai cũng cười, nhưng Chính Bình vẫn tin là mình nghĩ đúng. Cứ ba tối một lần, Chính Bình lại sang nhà ông ngoại khấn chồn hiện ra. Tuy chồn không hiện ra nhưng việc làm của Chính Bình cũng có đôi chút kết quả là cứ tối nào Chính Bình sang nhà ông ngoại khấn chồn thì tối ấy chồn không tới quấy phá.

Một tối, Chính Bình sang nhà ông ngoại thắp hương mà khấn:"Xin Hồ huynh hiện ra cho đệ được gặp một lần!" nhưng vẫn không thấy chồn nào hiện ra. Sáng sau, Chính Bình về nhà. Tối ấy, Chính Bình ra phòng khách, mở tung cửa mà ngồi giữa phòng. Bỗng thấy cánh cửa tự nhiên khép lại, Chính Bình hỏi:"Hồ huynh tới đó ư?" nhưng không thấy tiếng trả lời. Tối sau, Chính Bình lại ra phòng khách, đóng cửa mà ngồi giữa phòng. Bỗng thấy cánh cửa tự nhiên mở ra, Chính Bình nói:"Nếu là Hồ huynh đã tới thì xin hiện ra cho đệ được gặp một lần!" nhưng vẫn không thấy tiếng trả lời. Chính Bình bèn lấy 200 đồng tiền kẽm đặt lên bàn rồi vào phòng ngủ. Sáng sau, Chính Bình ra coi thì thấy khoản tiền đã mất. Hai tối sau, Chính Bình ra phòng khách ngủ, lấy 400 đồng đặt lên bàn. Nửa đêm, nghe thấy tiếng màn cửa sột soạt, Chính Bình hỏi:"Hồ huynh tới đó ư? Đệ mới đặt 400 đồng lên bàn, huynh lấy mà tiêu. Tuy đệ không giàu có nhưng cũng không keo kiệt. Nếu huynh cần tiền thì cứ hiện ra mà nói với đệ, đệ sẽ thu xếp cho, đừng tới nhà ông ngoại đệ lấy trộm nữa!". Vẫn không thấy tiếng trả lời. Lát sau, khi tới bàn coi, thấy mất 200 đồng, Chính Bình vẫn để 200 đồng còn lại ở trên bàn.

Ba đêm sau, khoản tiền ấy vẫn còn. Ba đêm sau nữa, Chính Bình lấy thêm rượu thịt đặt cạnh tiền, nhưng sáng ra, mọi thứ vẫn còn nguyên. Tối ấy, Chính Bình ở nhà. Chồn lại tới nhà Ngạc ông quấy phá. Ngạc ông liền sai gia nhân sang nói cho Chính Bình hay. Chính Bình bèn đem tiền và rượu thịt sang nhà ông ngoại, thắp hương mà khấn:"Hồ huynh! Ở tệ xá, đệ đã sắp sẫn tiền và rượu thịt, sao huynh không tới lấy? Ông ngoại đệ đã già, huynh tới đây quấy phá làm chi? Tối nay đệ có chút quà mọn đem sang đây biếu huynh, mong huynh tới nhận!" Khấn xong, đặt tiền và rượu thịt lên bàn rồi trải chiếu nằm dưới chân bàn. Suốt đêm, Chính Bình không thấy gì xảy ra. Sáng sau, Chính Bình thấy tiền và rượu thịt vẫn còn nguyên.

Thấy chồn không tới nhà ông ngoại mình quấy phá nữa, Chính Bình cho rằng vì được mình nể trọng nên chồn bị hổ thẹn, không dám tới quấy phá nữa mà cũng không dám tới thu lễ vật.

Nửa năm sau.

Một tối, Chính Bình đi chơi. Khuya về,vào phòng khách, thấy trên bàn có 400 đồng, một mâm thịt, một hồ rượu, Chính Bình nghi ngay là của chồn đem tới biếu trả nợ. Mở hồ ra ngửi, thấy mùi thơm ngát, rót rượu ra chén, thấy màu xanh biếc, đưa lên môi nhắp, thấy vị đậm đà, Chính Bình bèn ngồi xuống ghế, xé thịt ra ăn, rót rượu ra uống. Lát sau, khi hồ đã cạn, thấy đầu nặng chĩu, thân hình lảo đảo, Chính Bình biết mình đã say.

Bỗng thấy lồng ngực nóng ran, máu tham nổi dậy, Chính Bình muốn đi ăn trộm. Nghĩ tới phú ông họ Đỗ, người giàu có nhất trong làng, Chính Bình bèn giắt dao vào người, chạy tới nhà Đỗ ông. Thấy cổng đã khóa, Chính Bình trèo tường vào vườn, lên phòng khách, dùng dao nậy cửa, lẻn vào phòng. Thấy trong phòng có một đĩnh vàng với một áo điêu, Chính Bình vội quơ lấy, chạy ra vườn, trèo tường về. Tới nhà, vào phòng khách, để lên bàn, lấy chăn gối ra nằm ngủ. Sáng sau, Chính Bình dậy sớm, quơ mọi thứ trên bàn, đem vào phòng vợ. Thấy chồng đem vào phòng một đĩnh vàng, một áo điêu, Thân thị hết sức ngạc nhiên, hỏi:"Chàng lấy những thứ này ở đâu ra?" Chính Bình đáp:"Lấy trộm ở nhà Đỗ ông!" Ngỡ chồng nói đùa, Thân thị gặng hỏi, mới biết là chồng nói thực.

Cực kỳ kinh hãi, Thân thị nói:"Chàng vốn là người quân tử, quang minh chính đại, sao hôm nay lại đi làm cái chuyện vô liêm sỉ này?" Chính Bình không thèm đáp mà cũng không tỏ vẻ ngượng ngập.

Thấy thế, Thân thị càng kinh hãi, hỏi:"Sao chàng lại đi ăn trộm?" Chính Bình đáp:"Vì tối qua ta đi chơi. Khuya về, vào phòng khách thấy tiền và rượu thịt, ta nghi là của chồn đem tới biếu trả nợ. Uống hết hồ rượu, ta thấy trong người rạo rực, muốn đi ăn trộm!" Thân thị la lên:"Thôi rồi! Chàng uống phải rượu tham của chồn rồi! Thiếp nghe nói muốn giải được rượu này thì phải uống chu sa. Để thiếp ra chợ mua chu sa về cho chàng uống!" Dứt lời, Thân thị vội thay áo quần, chạy ra chợ mua chu sa, đem về hòa với rượu cho chồng uống. Uống xong, Chính Bình nằm vật xuống giường mà ngủ.

Lát sau, khi thức giấc, Chính Bình cảm thấy mình bàng hoàng, tựa hồ như vừa tỉnh cơn mê. Nhìn thấy một đĩnh vàng với một áo điêu ở trong phòng, Chính Bình hỏi:"Nàng lấy những thứ này ở đâu ra?" Thân thị đáp:"Của chàng đi ăn trộm về chứ đâu có phải là của thiếp?" Chính Bình hét ầm lên:"Ta ăn trộm của ai? Ta ăn trộm hồi nào?" Thân thị hỏi:"Thế lúc nãy chàng thuật cho thiếp nghe những gì, chàng còn nhớ không?" Chính Bình lắc đầu, hỏi:"Ta thuật những gì?" Thân thị nói: "Chàng thuật rằng đêm qua chàng uống phải rượu tham của chồn đem biếu nên máu tham trong người nổi dậy, chàng đi ăn trộm những thứ này ở nhà Đỗ ông!"

Nghe thấy thế, Chính Bình kinh hãi quá, cứ vò đầu bứt tai, hối hận là mình đã không chịu đề phòng chồn, để đến nỗi uống phải rượu tham của chồn. Rồi Chính Bình cứ thở vắn than dài mãi. Thân thị lại nói:"Lúc nãy thiếp ra chợ mua chu sa, nghe người ta đồn đêm qua nhà Đỗ ông mất trộm một đĩnh vàng với một áo điêu!" khiến Chính Bình càng cảm thấy khó chịu, cứ vò đầu bứt tai, không biết phải làm thế nào. Suy nghĩ hồi lâu, Thân thị bày mưu cho chồng:"Thiếp nghĩ chỉ có một cách mà thôi!" Chính Bình hỏi: "Cách gì?" Thân thị đáp:"Đêm nay, chờ cho mọi người ngủ say, chàng lén đem đĩnh vàng với áo điêu tới nhà Đỗ ông, ném qua tường vào vườn mà trả!" Chính Bình gật đầu, khen phải.

Quá nửa đêm, Chính Bình đem đĩnh vàng với áo điêu tới nhà Đỗ ông, ném qua tường vào vườn rồi chạy thục mạng về nhà.

Sáng sau, người nhà Đỗ ông ra vườn dọn dẹp, thấy đĩnh vàng với áo điêu, lượm vào trình chủ. Hôm sau, Thân thị đi chợ, thấy người ta đồn Đỗ ông đã tìm lại được các vật mất trộm. Vì thế, chuyện Đỗ ông mất trộm cũng êm dần. Mùa thu năm ấy, Chính Bình lên tỉnh dự khoa thi hương. Hôm trường thi yết bảng, Chính Bình đậu thủ khoa. Chủ khảo là Phùng công gửi giấy ban khen rồi chọn Chính Bình làm cống sinh, gửi lên kinh đô dự khoa thi hội.

Sáng sau, khi ngủ dậy, Phùng công thấy lính chạy vào thưa:"Bẩm đại quan, đêm qua không biết ai đã lẻn vào sảnh đường, leo lên rường nhà, dán một tờ thiếp màu đỏ, viết đầy chữ đen" Thấy lạ, Phùng công sai lính bắc thang lên bóc tờ thiếp xuống cho mình coi. Coi tờ thiếp, Phùng công thấy lời cáo như sau:"Cơ Chính Bình là một kẻ ăn trộm. Trước kia, y đã từng lẻn vào nhà phú ông họ Đỗ trong làng để ăn trộm một đĩnh vàng với một áo điêu. Thế mà bây giờ quan chủ khảo lại cho y đậu thủ khoa là nghĩa làm sao?" Phùng công nghi ngờ, bèn sai lính đi triệu Chính Bình vào dinh hỏi chuyện.

Chính Bình theo lính vào dinh. Phùng công đưa tờ thiếp cho coi. Chờ cho Chính Bình coi xong, Phùng công mới hỏi:"Lời cáo trong thiếp này có đúng không?" Chính Bình kinh ngạc, toát mồ hôi, thầm nghĩ ngoài vợ mình ra, chỉ có chồn mới biết được việc mình đã đi ăn trộm mà thôi. Nghĩ vì chồn được mình nể trọng thái quá nên bị hổ thẹn, đã bày mưu báo thù, Chính Bình đáp:"Bẩm đại quan, chắc đây là chuyện chồn báo thù!" Phùng công hỏi: "Chồn nào? Sao chồn lại báo thù?" Chính Bình bèn đem đầu đuôi câu chuyện ra thuật lại cho Phùng công nghe. Nghe xong, Phùng công khen Chính Bình thành thực, rồi an ủi, cho Chính Bình ra về. Phùng công đốt tờ thiếp tố cáo rồi vẫn cho Chính Bình đậu thủ khoa.

Thấy chồng bị triệu vào dinh, Thân thị lo lắng lắm. Khi thấy chồng được về, Thân thị vội chạy ra hỏi:"Chàng có bị tội chi không?" Chính Bình đáp:"Không!" rồi thuật chuyện gặp quan chủ khảo cho vợ nghe. Thân thị hết sức vui mừng.

Thân thị nói:"Chồn này thực là hèn hạ!" Chính Bình lắc đầu, nói:"Lỗi tại ta chứ không phải lỗi tại chồn!" Hỏi:"Sao lại lỗi tại chàng?" Đáp:"Vì khi ta làm điều gì khiến cho kẻ tiểu nhân bị hổ thẹn thì thế nào kẻ ấy cũng tìm cách báo thù! Chồn vốn là kẻ tiểu nhân. Được ta nể trọng thái quá, chồn bị hổ thẹn nên đã tìm cách báo thù! Vì thế, khi giao thiệp với kẻ tiểu nhân, ta nên tránh làm những việc khiến cho kẻ ấy bị hổ thẹn, kẻo ta bị mang họa vào thân"

Đoàn gia sưu tầm

fangzi
27-03-2014, 05:42 PM
TỤC HOÀNG LƯƠNG

Sơ tiệp Nam cung ý khí dương
Huống đồng dự ngữ cánh khu tường
Tăng liêu bất thị Hàm Đan đạo
Dã tác hoàng lương mộng nhất trường.

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Co_su/c%20th%202.jpg

Làng Thái Long, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Phúc Kiến có gia đình họ Tăng, gia tư bậc trung, trong nhà có nuôi một lão bộc và một gia nhân. Ông bà Tăng có người con trai tên Viên, tư chất cực kỳ thông tuệ. Hồi còn ít tuổi, được cha mẹ cho đi học, Tăng Viên học rất giỏi, được thầy bạn cùng khen. Tuy nhiên, Tăng Viên lại có tính ham chơi hơn ham học, thường lấy trộm tiền bạc của cha mẹ, đem đi theo những tên vô lại ở đầu đường xó chợ để rượu chè cờ bạc. Vì thế gia tư của ông bà Tăng mỗi ngày một sa sút. Hàng xóm phía đông nhà họ Tăng là gia đình họ Tô. Ông bà Tô có người con gái tên Thanh Thanh, nhan sắc mặn mà. Năm 17 tuổi, Tăng Viên xin cha mẹ hỏi cưới Thanh Thanh cho mình, song ông bà Tô từ chối vì cho rằng Tăng Viên là kẻ vô hạnh. Ông bà Tăng bèn khuyên con nên học hành chăm chỉ rồi sẽ hỏi cưới người khác cho. Thấy gia tư của cha mẹ gần cạn, Tăng Viên mới dốc chí học hành.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/ha%2025.gif

Trong làng, có phú ông họ Vương, tên Tử Lương. Thấy Tăng Viên vừa thông tuệ vừa chăm học, nhưng nhà nghèo, Tử Lương bèn chu cấp tiền bạc cho Tăng Viên ăn học. Mùa thu năm ấy, Tăng Viên thi đậu cử nhân. Cuối năm, ông bà Tăng sang làng bên, hỏi cưới con gái gia đình họ Chung cho Tăng Viên. Năm sau, Chung thị sanh một trai, đặt tên là Dưỡng.

Mười bảy năm sau, Tăng bà mất. Ba năm sau, khi hết tang mẹ, Tăng Viên 38 tuổi, lên kinh đô dự kỳ thi hội, dắt người lão bộc theo hầu. Hôm trường thi yết bảng, trong nhóm tiến sĩ tân khoa, Tăng Viên là người ít tuổi nhất, còn Trương cử nhân, 58 tuổi, là người nhiều tuổi nhất. Hôm sau, nhóm tân khoa rủ nhau phục sức chỉnh tề, đội mũ cầm quạt, cưỡi ngựa đi thăm các thắng cảnh ở vùng ngoại ô kinh thành. Nghe nói trong vùng có thiền viện Côn Lô là thắng cảnh nổi tiếng, nhóm tân khoa bèn rủ nhau tới thăm. Tới nơi, nghe nói ở hành lang thiền viện có thầy bói đoán quẻ rất hay, mọi người cùng tới hành lang, gật đầu chào thầy bói. Thầy bói chắp tay đáp lễ. Tăng Viên dành nói trước:"Nghe nói bốc sư đoán quẻ rất hay, vậy hãy đoán giùm bản nhân một quẻ!" Thầy bói hỏi: "Quan nhân muốn đoán về việc chi?" Tăng Viên đáp:"Về việc học hành thi cử!" Thầy bói cười, nói:"Quan nhân phụcc sức như thế này thì hẳn là đã đậu đại khoa rồi, cần chi phải đoán?" Nghe nói, Tăng Viên đẹp lòng, bèn hỏi: "Vậy hãy đoán giùm xem trong tương lai, bản nhân có được làm quan lớn hay không?" Thầy bói gieo quẻ, rồi nói: "Quan nhân sẽ được giữ một chức quan rất lớn!" Phe phẩy chiếc quạt, Tăng Viên hỏi:"Chức gì?" Thầy bói đáp: "Chức tể tướng!" Hỏi: "Bao giờ thì bản nhân sẽ được giữ chức ấy?" Đáp: "Hai mươi năm nữa!" Mừng quá, Tăng Viên hiu hiu tự đắc, móc túi lấy tiền, thưởng cho thầy bói. Đột nhiên, trời đổ cơn mưa, nước hắt ướt hành lang. Tăng Viên bèn rủ mọi người vào Phật đường tránh mưa. Mọi người cùng thuận ý, theo Tăng Viên vào Phật đường.

Lúc đó, trong Phật đường, có một nhà sư mắt sâu, mũi cao đang ngồi tham thiền trên một tấm bồ đoàn trải trước điện thờ Phật. Nghe có tiếng ồn ào, nhà sư quay đầu nhìn. Thấy một nhóm tân khoa đang bước vào Phật đường, nhà sư lặng lẽ gật đầu chào. Nhóm tân khoa đều chắp tay đáp lễ, chỉ có Tăng Viên là cao ngạo, chẳng thèm đáp lễ. Thấy ở sát tường, cạnh tấm bồ đoàn, có một chiếc sập, Tăng Viên bèn rủ nhóm tân khoa lên sập ngồi nói chuyện. Tăng Viên lớn tiếng nói chuyện huyên thiên, chẳng thèm để ý đến nhà sư đang ngồi tham thiền. Thấy Tăng Viên hiu hiu tự đắc, nhóm tân khoa đều gọi đùa Tăng Viên là tể tướng, khiến Tăng Viên càng thêm tự đắc. Trong lúc nói chuyện, Tăng Viên cao hứng, chỉ Trương tiến sĩ mà nói: "Khi nào được làm tể tướng, bản nhân sẽ phong cho Trương niên trượng đây chức nam phủ, phong cho các tân khoa đây cũng như các anh em bà con của bản nhân chức tham du, phong cho lão bộc của bản nhân chức tiểu thiên bả! Bản nhân nghĩ phong như thế thì chắc ai cũng được mãn nguyện rồi! Các vị nghĩ sao?" Nghe Tăng Viên nói, cả nhóm cùng cười. Nhà sư vẫn yên lặng ngồi tham thiền. Lát sau, cơn mưa mỗi lúc một lớn, khiến tiết trời trở lạnh. Vì nói huyên thiên, Tăng Viên mệt quá, nằm lăn xuống sập, lim dim đôi mắt. Thấy thế, nhóm tân khoa bèn rủ nhau ra hành lang coi bói, để cho Tăng Viên ngủ.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/175822673.jpg
Tăng Viên

Đang ngủ, chợt thấy hai sứ giả đem chiếu viết tay của nhà vua tới triệu mình vào triều giữ chức tể tướng, Tăng Viên vội vùng dậy, chỉnh lại mũ áo, rồi lên ngựa, theo hai sứ giả vào triều, chẳng thèm cáo biệt nhóm tân khoa. Vào triều, Tăng Viên phủ phục trước bệ rồng mà bái tạ nhà vua. Nhà vua bèn truyền cho nội thị tới nâng Tăng Viên dậy, rồi truyền dọn đại tiệc để thết đãi Tăng Viên cùng toàn thể triều thần. Trong tiệc, nhà vua giới thiệu Tăng Viên với triều thần, nói rằng Tăng Viên vừa được bổ nhậm làm tể tướng để quyết định việc nước. Rồi nhà vua hạ lệnh cho các cấp triều thần, từ tam phẩm trở xuống, phải tuân lệnh Tăng Viên và thuộc quyền thưởng phạt của Tăng Viên. Nhà vua ban áo mãng, đai ngọc, ngựa xe, nghi trượng cho Tăng Viên. Tăng Viên lại phủ phục xuống sàn bái tạ nhà vua mà nhận lãnh các phẩm vật ân tứ. Sau đó, Tăng Viên đứng dậy, xin phép được đi thay triều phục. Khi Tăng Viên trở ra bàn tiệc, nhà vua phủ dụ: "Khanh đã được trẫm bổ nhậm vào chức vụ tể tướng thì phải nỗ lực mà tìm cách làm cho dân giàu nước mạnh, phải dùng thuộc cấp theo đúng sở năng của từng người, phải thưởng phạt thuộc cấp cho công minh, không được thiên vị hoặc ghét bỏ một ai. Nay trẫm cho khanh được phép về làng vinh quy một tháng, ban cho phụ thân khanh một tấm áo tía, ban cho con trai khanh một tấm áo son. Hết hạn, khanh phải trở lại triều đình ngay để đảm nhận trọng trách!" Tăng Viên líu ríu vâng dạ. Lát sau, Tăng Viên quỳ lạy nhà vua mà xin cáo biệt. Ra ngoài, Tăng Viên bước lên cỗ xe nhà vua ban, bảo xa phu rong xe cho mình đi đón lão bộc rồi rong xe cho mình và lão bộc về quê ở Phúc Kiến.

Về làng, thấy căn nhà cũ kỹ của mình đã biến mất, thay vào đó là một ngôi nhà mới mẻ khang trang, kèo cột đều được vẽ hình, rui xà đều được chạm trổ, cảnh trí cực kỳ tráng lệ, Tăng Viên vô cùng kinh ngạc, chẳng hiểu tại sao nhà cửa lại có thể biến đổi mau chóng đến thế. Lên tiếng gọi tên gia nhân cũ, chợt nghe có tiếng dạ ran, rồi có cả chục tên gia nhân mới lục tục kéo lên phòng khách trình diện. Tăng Viên rất ngạc nhiên, nhưng lại đắc ý, cất tiếng cười ha hả. Sau một tháng vinh quy, Tăng Viên trở lại kinh đô đảm nhận chức vụ tể tướng. Từ hôm ấy, ở kinh đô, các vị công khanh, các quan thị lang, các triều thần từ cấp cao đến cấp thấp, lần lượt tới nhà Tăng Viên tặng quà để xin chào ra mắt. Các vị công khanh tới chào thì phải cung kính khom lưng mà qua cổng. Các quan thị lang tới chào thì phải chắp tay mà vái lạy. Các triều thần cấp cao tới chào thì phải bỏ giày ra mà vào nhà. Các triều thần cấp thấp tới chào thì phải bò từ cổng mà vào nhà. Ai tới chào, Tăng Viên cũng chỉ khẽ gật đầu đáp lễ. Một hôm, nhân dịp về kinh đô bái yết nhà vua, quan tuần vũ tỉnh Sơn Tây có đem theo một đội nữ nhạc, gồm 18 nàng thiếu nữ, để tặng Tăng Viên. Tuy cả 18 nàng cùng đẹp như tiên, nhưng có hai nàng đẹp hơn cả là Niệu Niệu và Tiên Tiên. Vì sủng ái hai nàng, Tăng Viên cho hai nàng cái quyền được ăn không ngồi rồi, khỏi phải làm bất cứ việc gì, ngoài việc đàn hát. Một hôm, nghĩ lại thủa hàn vi, nhớ đến phú ông Vương Tử Lương ngày trước đã chu cấp tiền bạc cho mình ăn học, Tăng Viên bèn thảo sớ tiến cử Tử Lương, dâng lên nhà vua, xin cho Tử Lương được lên kinh đô làm quan gián nghị. Được nhà vua ban chỉ dụ chấp thuận, Tăng Viên liền bổ dụng Tử Lương. Trong triều, có quan thái bộc họ Quách, tính tình cương trực, chẳng sợ kẻ quyền thế. Một hôm, thấy Tăng Viên cao ngạo, Quách thái bộc trừng mắt nhìn Tăng Viên. Giận quá, Tăng Viên liền sai quan cấp gián họ Lã và quan thị ngự họ Trần thảo sớ đàn hặc Quách thái bộc, dâng lên nhà vua. Hôm sau, được nhà vua ban chỉ dụ chấp thuận, Tăng Viên liền phụng chỉ, cất chức Quách thái bộc, đuổi về quê. Sau những vụ ân đền oán trả như thế, Tăng Viên cảm thấy rất hả hê.

Một hôm, Tăng Viên truyền cho thuộc hạ chuẩn bị đầy đủ nghi trượng tể tướng để mình lên xe, ra vùng ngoại ô kinh thành dạo chơi. Trong lúc đoàn xe di chuyển, chợt thấy một kẻ say rượu phạm đến nghi trượng của mình, Tăng Viên liền sai lính trói lại, đem giao cho quan doãn họ Kinh trừng phạt, rồi sai thuộc hạ tới nói với quan doãn phải đánh đòn kẻ ấy cho đến chết. Sợ quyền thế của Tăng Viên, nhà giàu nào ở kinh đô cũng phải đem một phần điền sản của mình mà hiến tặng Tăng Viên, khiến tài sản của Tăng Viên ngang ngửa với tài sản của nhà nước, rồi Tăng Viên trở thành địch quốc phú gia. Thế nhưng, ít lâu sau, đột nhiên Niệu Niệu qua đời. Tăng Viên buồn lắm, song vì còn Tiên Tiên nên Tăng Viên cũng được phần nào an ủi. Tuy nhiên, chỉ hai tháng sau, Tiên Tiên cũng qua đời. Lúc đó Tăng Viên mới cảm thấy cực kỳ buồn bã.

Một hôm, chợt nhớ đến cô hàng xóm đẹp tên Thanh Thanh, ở phía đông nhà mình ngày trước, Tăng Viên bèn sai một lũ gia nhân về Thái Long dò hỏi xem Thanh Thanh đã có chồng hay chưa? Khi chúng trở về kinh đô trình rằng Thanh Thanh vẫn còn độc thân, Tăng Viên liền sai chúng đem ngựa xe tiền bạc về Thái Long, ép ông bà Tô phải bán Thanh Thanh cho mình làm nàng hầu. Khi đoàn ngựa xe chở Thanh Thanh về tới kinh đô, Tăng Viên ra tận cổng mà đón Thanh Thanh. Mở rèm xe, thấy Thanh Thanh chẳng những vẫn đẹp mà còn diễm tuyệt hơn xưa, Tăng Viên tự mãn, nghĩ rằng trong thiên hạ chẳng thể có người đàn ông nào có được một cuộc đời vinh hiển, hạnh phúc như mình!

Còn nữa...

fangzi
28-03-2014, 04:21 PM
TỤC HOÀNG LƯƠNG

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/cng%20sinh.jpg

Tiếp theo...

Năm sau, Tăng Viên lại bổ nhậm đứa con trai của mình là Tăng Dưỡng, 21 tuổi, đi làm thái thú quận Bình Dương, tỉnh Sơn Tây. Trong suốt bốn năm giữ chực vụ tể tướng, thấy toàn thể triều thần đều sợ hãi mình, ai cũng câm nín, chẳng ai dám hó hé phàn nàn điều chi, Tăng Viên càng cao ngạo, cho rằng địa vị tể tướng của mình như thế là vững chắc lắm rồi, chẳng cần phải lo lắng đề phòng chi nữa. Thế nhưng, một hôm, có quan Long Đồ học sĩ họ Bao dâng lên nhà vua tờ sớ như sau:
"Thần là Long Đồ học sĩ họ Bao, cúi xin Thánh Thượng xét cho các tội trạng sau đây của tể tướng Tăng Viên.
Thần trộm nghĩ: Tăng Viên vốn chỉ là một đứa tiểu nhân, ưa giao du với những tên vô lại ở đầu đường xó chợ để rượu chè cờ bạc. Chỉ vì y khéo nói những lời hợp thánh ý nên y được Thánh Thượng đoái thương, khiến cha y được mặc áo tía, con y được mặc áo son, ân sủng kể như đã đến mức cùng cực. Được ân sủng ấy, lẽ ra y phải quên thân mình mà đền nợ nước để báo đáp quốc gia trong muôn một, thì y lại phóng túng, chuyên quyền, tác oai, tác phúc! Đó là một tội đáng chết!

Trong nhân dân, thấy nhà nào có con gái đẹp, y cũng cưỡng ép phải bán cho y làm nàng hầu, tì thiếp, khiến oán khí trong nhân dân bốc mờ mịt cả càn khôn! Đó là hai tội đáng chết!

Đêm ngày y chỉ lo ăn chơi, hoang dâm vô độ, đàn hát nơi hậu uyển, chẳng nghĩ chi đến quốc kế, dân sinh! Đó là ba tội đáng chết!

Quan tước triều đình, y coi như những món hàng mua bán của riêng y. Mỗi khi có một chức vị bị khuyết thì y lại cân đo xem chức vị là béo hay gầy để định giá là cao hay thấp. Tiền bạc y thu vào, chẳng tính sao cho xiết! Đến như các vị công khanh, tướng sĩ mà y cũng bắt phải đút lót cho y để được chức nọ tước kia! Đó là bốn tội đáng chết!

Đến giới cùng đinh trong xã hội, chỉ có một mảnh đất để trồng trọt, mà y cũng bắt phải đóng thuế cho y, chẳng tha cho kẻ nào! Đó là năm tội đáng chết!

Khi sai nô bộc đi đâu, y cũng bắt quan chức địa phương phải ra nghênh tiếp! Khi gửi thư tới chốn nào, y cũng bắt quan các địa phương phải bẻ cong luật pháp triều đình để chiều theo ý muốn của y! Đó là sáu tội đáng chết!

Khi nô bộc, thân nhân của y tới đâu, y cũng bắt nhân dân địa phương phải cung cấp ngựa xe cho họ, hễ chậm trễ là bị roi vọt! Đó là bảy tội đáng chết!

Chẳng những y bắt nhân dân địa phương mà y còn bắt cả các quan chức địa phương phải phục dịch nô bộc, thân nhân của y nữa! Đó là tám tội đáng chết!

Nếu có vị triều thần nào tài giỏi, anh hùng, chẳng chịu a dua với y thì y liền hãm hại. Nhẹ thì bị y an trí đi chốn rừng thiêng nước độc, nặng thì bị y truất quyền, hạ nhục. Vì thế mà triều thần đều thờ ơ, triều đình bị cô lập. Vì y tiếm lộng uy quyền nên ai ai cũng coi y như sài lang mà tìm đường tránh né! Đó là chín tội đáng chết!

Triều thần có ý kiến gì hay là y lại dèm pha với Thánh Thượng! Cậy được ân sủng của Thánh Thượng, y vênh vang hách dịch, chẳng bao giờ chịu ăn năn hối lỗi! Đó là mười tội đáng chết!

Trên đây, thần chỉ dám thuật sơ mươi tội ác của y chứ nếu đem đếm cho hết thì số tội ác của y còn nhiều hơn cả số tóc trên đầu y nữa! Ai ai cũng sợ bị y vu oan, nơi nơi nhân tình đều bị phân loạn Thần cứ khắc khoải chẳng lẽ trên đời này lại có thứ tể tướng như thế hay sao? Vì sớm khuya lo sợ cho tiền đồ tổ quốc nên khi thấy những điều trái tai gai mắt mà y đã làm, thần chẳng dám cầu an mà bịt tai nhắm mắt làm ngơ, nên liều mình liệt cử một số tội ác của y để ngửa cổ trình lên Thánh Thượng!

Thần cúi xin Thánh Thượng cho chặt đầu kẻ gian nịnh Tăng Viên, tịch thu tài sản tham ô của y, để trên thì yên được cái giận của Trời, dưới thì hả được cái uất của dân!

Thần trộm nghĩ: Nếu Thánh Thượng chẳng mau chóng dùng búa rìu mà chu diệt y thì sớm muộn gì y cũng trở thành cái họa Tào Tháo, Vương Mãng, với ý đồ làm chuyện thoán nghịch, hòng cướp ngôi vua! Nếu Thánh Thượng minh xét thấy là thần sàm tấu thì thần cúi xin Thánh Thượng cứ dùng búa rìu đỉnh vạc mà hành hình thần cho đáng tội vu oan!"

Đọc xong tờ sớ, nhà vua trao cho Tăng Viên. Coi xong, Tăng Viên táng đởm kinh hồn, rét run cầm cập, tựa như kẻ bị dội nước lạnh lên đầu vào giữa mùa đông. Vì muốn bao che cho Tăng Viên, nhà vua thu lại tờ sớ, cất giữ trong ngự phòng, không cho triều thần hay.
Thế nhưng, chẳng phải là chỉ có một mình Long Đồ học sĩ dâng sớ hặc tấu Tăng Viên mà kể từ hôm ấy, ngày nào nhà vua cũng nhận được nhiều tờ sớ khác của các cấp triều thần hặc tấu Tăng Viên. Ngay cả những kẻ trước kia xin làm con nuôi của Tăng Viên, nay cũng ngảnh mặt làm ngơ! Có kẻ còn ra mặt về phe với triều thần, hặc tấu lại Tăng Viên. Vì nhận được quá nhiều tờ sớ hặc tấu Tăng Viên, nhà vua đành phải truyền cho các thượng thư sáu bộ tra xét về các hành động của Tăng Viên. Sau khi nhận được sáu tờ sớ phúc trình của các thượng thư, đồng thanh kết tội Tăng Viên, nhà vua đành hạ chỉ tịch thu gia sản của Tăng Viên, bắt Tăng Viên phải đi quân dịch ở tỉnh Vân Nam.

Con trai của Tăng Viên là Tăng Dưỡng, đang nhậm chức thái thú quận Bình Dương tỉnh Sơn Tây cũng bị gọi về kinh đô để hỏi tội. Vừa được nghe tin về chỉ dụ của nhà vua, Tăng Viên còn đang bàng hoàng thì đã thấy một tên giám thị dẫn một toán chừng hai chục võ sĩ đeo kiếm, vác đao, cầm dây, xông vào nhà mình, vào thẳng phòng ngủ, lột mũ áo rồi trói chặt tay mình và cả vợ mình là Chung thị. Lát sau, Tăng Viên thấy có cả chục phu xa rong xe ngựa tới, xông thẳng vào nhà kho, khuân hết trên trăm vạn lượng vàng bạc tiền nong, trên hai chục hộc châu thúy não ngọc, trên ba ngàn món màn trướng rèm giường, chất lên xe mà chở đi, còn những món lặt vặt như địu con nít, dép đàn bà thì chúng quẳng ra khắp thềm, đầy sân. Lát sau, Tăng Viên lại thấy một kẻ lạ mặt tới cướp nàng hầu Thanh Thanh đẹp đẽ của mình mà đem đi. Tuy Thanh Thanh vò đầu bứt tai, kêu khóc thảm thiết, van lạy chí tình, nhưng kẻ ấy cũng chẳng tha. Nhìn thấy cảnh tượng ấy, tuy lòng đau như cắt, nhưng Tăng Viên cũng chẳng dám nói năng chi, chỉ biết nhìn theo mà nuốt hận. Lát sau, tên giám thị ra lệnh cho toán võ sĩ niêm phong hết mọi phòng ốc trên lầu cũng như dưới nhà, vựa thóc cũng như nhà kho. Khi toán võ sĩ đã niêm phong xong các phòng ốc thì tên giám thị quát vợ chồng Tăng Viên phải đi ra khỏi nhà. Hai vợ chồng vừa ra khỏi nhà thì tên giám thị đã khóa cổng ngôi nhà lại rồi ra lệnh cho toán võ sĩ áp giải hai vợ chồng lên đường, đi bộ xuống tỉnh Vân Nam. Hai vợ chồng đành nuốt nước mắt mà lên đường.

Chẳng quen đi bộ, Tăng Viên xin tên giám thị cho mình một con ngựa nhỏ, cho vợ mình một cỗ xe cũ. Chẳng những tên giám thị không cho mà y còn mắng chửi Tăng Viên thậm tệ. Đi được hơn mười dặm, Chung thị mỏi chân quá, chẳng lết đi được nữa, khiến Tăng Viên phải đưa tay đỡ, dìu vợ bước đi. Lại đi được hơn mười dặm, khi hai vợ chồng đã kiệt sức thì cả đoàn người vừa tới chân một ngọn núi cao, sừng sững trước mặt. Đang lo lắng rằng, chẳng nói chi vợ mình, ngay chính bản thân mình đây, liệu có leo lên tới được đỉnh núi hay không, Tăng Viên nhìn vợ mà khóc, rồi xin tên giám thị cho vợ chồng mình được dừng chân tạm nghỉ. Tên giám thị bèn trừng mắt nhìn Tăng Viên, rồi quát thét hai vợ chồng, bắt phải leo lên đỉnh núi ngay lập tức. Bất đắc dĩ, Tăng Viên phải dìu vợ khập khiễng leo núi. Leo tới lưng chừng núi, Chung thị kiệt sức, ngồi bệt xuống đất mà khóc. Thấy thế, Tăng Viên cũng dừng chân đứng bên cạnh vợ. Tên giám thị liền quát thét, bắt hai vợ chồng phải tiếp tục leo lên.

Còn nữa...

doancongtu
29-03-2014, 05:26 PM
LẬP MỆNH

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0062.jpg
Quá Giang Đông

Chế phủ Lý công Vệ lúc chưa hiển đạt cùng một đạo sĩ qua sông, thấy có người tranh cãi với người chèo thuyền, đạo sĩ thở dài nói “Mệnh chỉ còn trong khoảnh khắc mà còn so đo chỉ với vài đồng bạc ư ?”. Trong khoảnh khắc, người kia quả bị cột buồm quét ngang, rơi xuống sông chết. Lý công thầm lấy làm kỳ lạ.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Dao_gia/o%20gia%207.jpg
Ta nói ra e ông sợ hãi

Khi thuyền ra đến giữa sông, gió lớn nổi lên, thuyền cơ hồ có nguy cơ sắp lật, chỉ thấy vị đạo sĩ bước theo võ bộ niệm thần chú, trong phút chốc bỗng gió lặng sóng im, thuyền qua sông an toàn. Lý công lạy tạ ơn cứu mạng, đạo sĩ nói “Người mới ngã xuống sông chết ấy là mệnh, ta không cứu được. Ông là quí nhân gặp ách có thể qua được cũng là mệnh, ta không thể không cứu, cần gì phải tạ ơn”. Lý công lại vái lạy nói “Xin lĩnh nhận lời dạy ấy của thầy, xin chọn đời yên phận theo mệnh”. Đạo sĩ nói “Như thế không đủ, việc cùng đạt của riêng mình thì nên yên phận theo mệnh. Không yên phận theo mệnh thì chạy chọt sắp xếp không gì không làm, Lý Lâm Phủ, Tần Cối cho dù không làm hại người tốt thì cũng là tể tướng là họ tự tăng tội nghiệt mà thôi. Còn như chuyện lợi hại về quốc kế dân sinh thì không thể nói mệnh. Trời đất sinh ra người tài, triều đình sinh ra chức quan là để bổ cứu vào khí số vậy. Thân nắm đại quyền mà bó tay đổ cho mệnh, thì trời đất cần gì sinh ra người tài ấy, triều đình cần gì đặt ra chức quan ấy. Thần Môn nói [biết không làm được] mà vẫn làm, Gia Cát Vũ Hầu nói [Cúc cung tận tụy đến chết mới thôi], đó là cái học lập mệnh của thánh hiền đấy, ông nên biết”.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/phong_canh/thi%20nhn.jpg
xuống thuyền đi được mươi bước đột nhiên biến mất không thấy đâu

Lý công kính cẩn thụ giáo, lạu hỏi họ tên. Đạo sĩ nói “Ta nói ra e ông sợ hãi”, xuống thuyền đi được mươi bước đột nhiên biến mất không thấy đâu nữa.

fangzi
30-03-2014, 09:59 AM
TỤC HOÀNG LƯƠNG

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Huyen_bi/ma_qui/dim%20vng.jpg

Tiếp theo...

Đột nhiên, Tăng Viên nghe thấy hàng trăm tiếng quát tháo, rồi nhìn thấy một bọn cướp xuất hiện, đứa nào đứa nấy, đao sắc rìu to, tay khoa đao múa rìu, chân chạy huỳnh huỵch tới trước mặt mình, mắt lộ hung quang. Kinh hãi quá, tên giám thị và toán võ sĩ cùng bỏ chạy. Tăng Viên vội quỳ xuống đất, nói với tên tướng cướp:"Bản nhân là tể tướng Tăng Viên ở triều đình, bị nhà vua trừng phạt, đày đi quân dịch ở tỉnh Vân Nam, bắt gia nội phải đi theo. Nay gặp quý vị, tên giám thị và toán võ sĩ đã bỏ chạy, bỏ rơi vợ chồng bản nhân ở đây! Hiện thời, trong túi vợ chồng bản nhân chẳng có vật chi quý giá, xin quý vị tha mạng!" Tên tướng cướp trừng mắt nhìn Tăng Viên mà quát:"Tụi mỗ vốn chẳng phải là giặc cướp mà chỉ là lương dân! Vì ngươi xu nịnh nhà vua, đàn áp nhân dân nên tụi mỗ mới bị oan ức, chẳng thể ở yên trong làng xóm làm ăn, phải vào núi làm cướp! Nay gặp được ngươi ở đây thì tụi mỗ chỉ muốn chém đầu cho hả giận mà thôi! Đừng năn nỉ chi nữa cho tốn công vô ích!" Giận quá, Tăng Viên cũng quát lại:"Tuy bản quan là kẻ có tội nhưng là có tội với nhà vua, chứ đối với tụi bay thì bản quan vẫn là mệnh quan của triều đình! Sao tụi bay lại dám hỗn láo với mệnh quan như thế?" Bị Tăng Viên quát mắng, tên tướng cướp nổi giận, vung rìu chặt một nhát vào cổ Tăng Viên khiến đầu rơi bịch xuống đất.

Chính Tăng Viên cũng nghe thấy tiếng đầu mình rơi xuống đất. Còn đang bàng hoàng, chợt Tăng Viên thấy có hai con quỷ, chẳng biết từ phương nào, xông tới trói tay mình rồi dẫn đi. Lát sau, tới một đô thị, chúng dẫn Tăng Viên vào một cung điện có cả trăm con quỷ khác, đứng quay lưng vào bốn bức tường quanh điện, hai chân dạng ra, tay phải chống cán chĩa ba xuống đất, tay trái giấu sau lưng. Một con chạy tới cởi trói cho Tăng Viên, đẩy Tăng Viên ngã chúi vào đám hồn ma đang quỳ dưới chân một bệ cao. Ngửng đầu nhìn, Tăng Viên thấy một vị vương giả, hình thù xấu xí, đang ngồi dựa lưng vào thành ngai trên bệ mà định công phán tội cho các hồn ma. Đoán vị ấy là Diêm Vương, Tăng Viên liền sụp xuống sàn mà lạy. Ngửng đầu nhìn, Tăng Viên chợt thấy một chủ bạ, từ góc điện bước lên bệ, trình Diêm Vương một cuốn sổ. Đọc xong, Diêm Vương sai con quỷ cầm sổ, dẫn Tăng Viên tới ngục Cửu U, giao cho quản ngục. Quản ngục đón sổ mà đọc. Đọc xong, quản ngục liền khóa tay, xiềng chân, gông cổ Tăng Viên, giam vào ngục thất, bắt nằm ngửa trên sàn đá nhọn, chẳng cho ăn, không cho ngủ. Hôm sau, quản ngục lại chuyển Tăng Viên sang ngục thất khác, bắt phải chịu sáu cực hình mới. Sau 18 ngày bị giam cầm trong 18 ngục thất khác nhau ở chốn Cửu U, chịu đủ 108 cực hình, Tăng Viên chỉ còn hơi thở mong manh, cặp mắt lờ đờ, tay chân rời rạc, thân hình trông rất tiều tụy. Sang ngày thứ 19, quản ngục giao sổ lại cho con quỷ, bảo dẫn Tăng Viên về trình Diêm Vương. Diêm Vương cầm sổ lên đọc rồi đưa mắt nhìn Tăng Viên mà phán:"Lừa vua hại nước, thì phải chịu hình phạt vạc dầu!" Tức thì toán quỷ đứng quanh điện cùng lớn tiếng dạ ran. Rồi Tăng Viên thấy một con quỷ cao lớn bước tới vác mình lên vai, đem ra thềm. Thấy ở ngoài thềm có một vạc dầu sôi, cao chừng bảy thước, chung quanh có đốt than hồng, khiến chân vạc bị nung đỏ ối, Tăng Viên kinh hãi, bật khóc thất thanh, nh ưng chẳng biết làm thế nào. Con quỷ liền dùng tay trái nắm tóc, tay phải nắm chân Tăng Viên mà quăng vào vạc. Tức thì da thịt Tăng Viên bị cháy đen, dầu sôi lọt vào miệng, nấu chín cả tạng phủ. Tăng Viên thấy toàn thân mình bị đau rát thấu tim gan, bị cuốn theo luồng dầu sôi mà nhấp nhô trong lòng vạc. Tăng Viên muốn được chết cho chóng, nhưng chẳng sao chết được. Chừng một giờ sau, con quỷ mới dùng chĩa ba xiên thân Tăng Viên, nhấc ra khỏi vạc, rồi đem vào điện, đặt dưới chân bệ. Diêm Vương lại cầm sổ lên đọc rồi đưa mắt nhìn Tăng Viên mà phán:"Cậy thế hại người thì phải chịu hình phạt núi đao!" Tức thì con quỷ lại vác Tăng Viên lên vai, đem ra khỏi điện. Tới chân một ngọn núi dốc đứng như tường, Tăng Viên ngẩng cổ nhìn lên. Thấy trên đỉnh núi có cả ngàn vạn mũi đao nhọn, chĩa tua tủa lên trời, có chừng mấy chục hồn ma đang dẫy dụa, la hét thảm thiết, ruột gan lòi cả ra ngoài, Tăng Viên kinh hãi quá, nhưng chẳng biết làm thế nào. Con quỷ liền nắm tóc nắm chân Tăng Viên mà tung vút lên cao. Còn đang chơi vơi giữa trời, bỗng Tăng Viên cảm thấy thân mình bị buốt đau tê tái vì bị rơi trúng giữa rừng đao. Buốt đau quá độ, Tăng Viên ngất đi. Lát sau, tỉnh dậy, Tăng Viên thấy tứ chi mình co quắp, thân mình đang nằm dưới chân núi, có con quỷ đứng cạnh. Con quỷ liền dùng chĩa ba xiên thân Tăng Viên, đem về điện, đặt dưới chân bệ. Diêm Vương lại cầm sổ lên đọc rồi đưa mắt nhìn chủ bạ mà phán:"Hãy tính xem trong cuộc đời y, y đã bán chức tước, danh vọng, bẻ cong luật pháp triều đình bao nhiêu lần tất cả?" Tức thì chủ bạ đem bàn tính ra gẩy rồi trình lên:"Tất cả là 321 lần!" Diêm Vương lại phán:"Hãy tính xem y đã chiếm đoạt được bao nhiêu lạng vàng tất cả?" Chủ bạ lại gẩy bàn tính rồi trình lên:"Tất cả là 321 vạn lạng!" Diêm Vương bèn đưa mắt nhìn Tăng Viên mà phán:"Y đã tích lũy nhiều vàng như thế thì bây giờ bắt y phải uống cho kỳ hết chỗ vàng ấy!" Tức thì con quỷ lại vác Tăng Viên lên vai, đem ra đặt ở ngoài thềm, cạnh vạc dầu sôi. Lát sau, Tăng Viên thấy một xa phu đẩy một xe vàng đến cạnh vạc, khuân vàng quăng vào vạc. Tức thì vàng chảy lỏng ra. Con quỷ liền lấy muỗng lớn múc vàng lỏng, bành miệng Tăng Viên ra, đổ đầy vào. Vàng lỏng tràn ra hai bên mép, khiến thịt da cháy khét lẹt. Vàng lỏng trôi qua cuống họng, vào đến bao tử, lan khắp châu thân, khiến tạng phủ cháy xèo xèo. Lúc đó, Tăng Viên mới thầm nghĩ: trước kia, trên dương thế, nếu thấy xe vàng này thì mình hữn nghĩ sao ít thế, mà bây giờ, dưới âm phủ, thấy xe vàng này thì mình lại nghĩ sao nhiều thế? Bị bắt uống hết chỗ vàng lỏng trong vạc, Tăng Viên phải uống liên tiếp trong 6 giờ mới hết. Thi hành hình phạt xong, con quỷ lại dùng chĩa ba xiên thân Tăng Viên, đem vào điện, đặt dưới chân bệ. Diêm Vương lại cầm sổ lên đọc rồi đưa mắt nhìn Tăng Viên mà phán:"Hãy áp giải y tới huyện Trương Dịch, tỉnh Cam Túc, bắt y đầu thai làm con gái!" Tức thì con quỷ lại vác Tăng Viên lên vai, đem ra khỏi điện. Tới một quảng trường có trồng hai trụ sắt cao, đỡ một xà ngang sắt, xuyên qua tâm một bánh xe sắt có đường kính cả trăm thước, phát ra một thứ ánh sáng ngũ sắc như cầu vòng, tỏa khắp không trung, con quỷ đặt Tăng Viên xuống đất, rồi rút roi ra đánh, bắt phải leo lên bánh xe.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Huyen_bi/ma_qui/hc%20v%20thng.jpg

Tăng Viên đành phải nhắm mắt mà leo lên. Thế là bánh xe quay tít, khiến thân thể Tăng Viên bị lắc lư, rồi trở thành lạnh toát. Lát sau, khi bánh xe ngừng quay, Tăng Viên mở mắt ra coi thì thấy mình đã bị biến thành một đứa bé gái sơ sinh, đỏ hỏn, đang nằm trong một chiếc nôi, ở một căn phòng tồi tệ, dột nát. Nhìn sang bên, thấy cha mẹ mình mặc áo vá, quấn chăn rách, nhìn vào góc phòng, thấy có hai cái bị với hai cái gậy, Tăng Viên biết rằng cha mẹ mình cùng là ăn mày. Từ đó, ngày nào Tăng Viên cũng được mẹ quấn trong một manh áo rách, bế đi ăn xin, gió thổi tạt vào thân thể, lạnh buốt tới xương. Khi bụng đói cồn cào, Tăng Viên lên tiếng khóc thì mẹ cho bú, song Tăng Viên cũng chẳng bú được bao nhiêu vì mẹ Tăng Viên gày gò ốm yếu, chẳng lấy đâu ra sữa. Lớn lên, Tăng Viên mới biết cha mình họ Khấu, mẹ mình họ Cái, đặt tên mình là Vô Sa. Năm 14 tuổi, Vô Sa bị cha mẹ đem bán cho tú tài họ Cố làm tì thiếp, nhưng Vô Sa không được Cố sinh nuôi ăn mà phải tự kiếm lấy miếng cơm manh áo. Vợ cả của Cố sinh, họ Mạnh, cực kỳ hung hãn, tai ngược. Ngày nào Mạnh thị cũng đánh đập Vô Sa, lấy thanh sắt nung đỏ dí vào hai đầu vú cho cháy đen, khét lẹt, khiến Vô Sa đau đớn vô tả. May được Cố sinh thương yêu, Vô Sa cũng được an ủi phần nào. Một đêm, Vô Sa đang ngủ một mình thì bị một kẻ vô lại trong làng leo rào vào phòng hãm hiếp. Vô Sa hô hoán thất thanh thì Cố sinh và Mạnh thị cùng tỉnh giấc. Hai vợ chồng chạy xuống phòng Vô Sa thì tên vô lại đã vượt rào trốn mất. Lát sau, Cố sinh xuống ngủ với Vô Sa. Vô Sa thủ thỉ với Cố sinh, kể lể mọi nỗi oan khổ của mình cho Cố sinh nghe, từ việc kiếp trước mình là đàn ông, họ Tăng, làm quan đến chức tể tướng, nhưng vì ác nghiệt nên khi chết xuống âm phủ bị Diêm Vương sai quỷ quăng vào vạc dầu, quẳng lên núi đao, rót vàng lỏng vào miệng bắt nuốt. Đã thế, kiếp này lại còn bị làm con gái nhà ăn mày, vừa đói vừa rét, rồi đến khi đi lấy chồng thì bị vợ cả đánh ghen, đốt vú khét lẹt, rồi còn bị kẻ vô lại hãm hiếp. Kể lể xong, Vô Sa khóc. Mủi lòng, Cố sinh cũng thở dài. Đột nhiên, trời đổ cơn mưa, rồi có một tiếng sét nổ lớn khiến cửa phòng bật tung. Thấy có hai tên cướp, cầm đao xông vào phòng mình, Vô Sa kinh hãi quá, vội trùm chăn kín đầu, chỉ dám hé mắt nhìn hai tên cướp qua chăn. Một tên liền vung đao chém bay đầu Cố sinh, tên kia lục túi áo Cố sinh lấy ra một vật gì chẳng rõ, rồi hai tên rủ nhau co cẳng chạy. Chờ cho chúng chạy hồi lâu, Vô Sa mới lóp ngóp bò dậy, chạy lên phòng Mạnh thị báo tin. Nghe tin, Mạnh thị oà lên khóc, khiến Vô Sa cũng phải khóc theo. Sau khi mai táng cho chồng, đột nhiên Mạnh thị làm đơn kiện Vô Sa, thưa rằng Vô Sa đã thông dâm với hai tên cướp rồi súi chúng giết chồng mình. Quan tể huyện Vĩnh Lợi bèn sai lính đi bắt Vô Sa về huyện đường tra tấn. Tuy Vô Sa một mực kêu oan nhưng quan vẫn tin lời Mạnh thị, ghép Vô Sa vào tội sát phu, bắt phải chịu hình phạt lăng trì xử tử. Hôm bị trói giải ra pháp trường thọ hình, khí oan trong ngực chẳng sao thoát được ra ngoài, Vô Sa chỉ muốn hét lên cho hả nỗi uất ức, nhưng chỉ ú ớ được ở trong cổ họng. Vô Sa thấy rằng ngay cả những lúc còn là Tăng Viên, bị giam trong 18 ngục thất ở chốn Cửu U, cũng chẳng có lúc nào mình bị khổ cực như lúc này.

Còn nữa...

fangzi
30-03-2014, 10:07 AM
TỤC HOÀNG LƯƠNG

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Co_su/cng%20sinh.jpg

Tiếp theo và hết.

Trong khi đang ú ớ, chợt Vô Sa nghe thấy tiếng gọi:"Tăng huynh! Tăng huynh! Phải chăng huynh đang chiêm bao thấy ác mộng?" Vô Sa chợt tỉnh thì nhận ra mình là Tăng Viên, đang nằm trên chiếc sập trong thiền viện Côn Lô ở vùng ngoại ô kinh thành, và người vừa gọi mình là Trương tiến sĩ. Đưa mắt nhìn quanh, Tăng Viên thấy nhà sư già vẫn còn đang ngồi tham thiền trên tấm bồ đoàn trải trước điện thờ Phật, còn nhóm tân khoa đồng hành thì đang ngồi chờ mình tỉnh giấc! Thấy Tăng Viên tỉnh giấc, nhóm tân khoa đua nhau giục:"Ai cũng đói rồi! Huynh hãy sửa soạn mau lên để chúng ta còn về!" Tăng Viên bèn uể oải ngồi dậy, đi rửa mặt xúc miệng rồi ra chào nhà sư mà xin cáo biệt cùng với nhóm tân khoa. Nhà sư cười hỏi:"Bốc sư ở hành lang có đoán rằng hai mươi năm nữa quan nhân mới được làm tể tướng! Thế nhưng vừa rồi, phải chăng quan nhân nằm chiêm bao thấy mình đã được làm tể tướng?". Kinh hãi quá, Tăng Viên đáp:"Quả thực là như thế! Bản nhân ngu dốt, xin hòa thượng chỉ giáo cho!" Nhà sư mỉm cười, nói:"Tu đức hành nhân thì tự nhiên là quan nhân sẽ hiểu được lẽ huyền bí của giấc chiêm bao chứ bần tăng có biết chi đâu mà chỉ giáo được cho quan nhân?" . Cả nhóm tân khoa cùng xin cáo biệt nhà sư, lên ngựa ra về. Lúc đi thăm thiền viện thì Tăng Viên vênh vang tự đắc, lúc dời khỏi thiền viện thì Tăng Viên ủ rũ buồn tênh. Hôm sau, Tăng Viên cùng lão bộc từ biệt mọi người mà lên đường, trở về Phúc Kiến.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Co_su/c%20th%203.gif
Về sau, chẳng ai biết cuộc đời của Tăng Viên kết thúc ra sao.

Về làng được ít lâu, một hôm, Tăng Viên bỏ nhà vào núi ở ẩn. Về sau, chẳng ai biết cuộc đời của Tăng Viên kết thúc ra sao.

-------------------------- hết -------------------------

thieugia
09-04-2014, 05:54 PM
A TÚ


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/n%20hip.jpg

Tri quân tự hữu ý trung nhân
Nhạn đỉnh như hà nhận bất chân
Tha nhật trùng lai hiệu ưu liệt
Thượng nghi ảo thuật hiện song thân

Huyện Hải Châu, tỉnh Giang Tô có gia đình vọng tộc họ Lưu, gồm Lưu ông, Lưu bà và một trai, tên Tử Cố. Lưu bà có người em trai, họ Thạch, tên Bình, cư ngụ ở huyện Cái, cùng tỉnh. Năm Tử Cố lên 10, Lưu ông bị bạo bệnh mà mất. Lưu bà ở vậy nuôi con.

Năm năm sau. Một hôm Tử Cố được mẹ cho sang huyện Cái thăm cậu một tháng, cho gia nhân tên Bành Xích theo hầu. Tới nơi, Tử Cố được Thạch Bình cho ở riêng một phòng, còn Bành Xích thì ở chung với lũ gia nhân. Cởi bỏ hành lý xong, Tử Cố xin phép cậu cho mình ra chợ coi phố xá. Thạch Bình cho đi. Ra chợ, thấy một cửa tiệm tạp hóa, Tử Cố vào coi. Thấy người bán hàng ngồi ở quầy là một cô gái có sắc đẹp mê hồn, đột nhiên Tử Cô thấy mình bị choáng váng, rồi cứ ngây người mà đứng như kẻ bị hớp hồn. Lát sau, như người tỉnh ngủ, Tử Cố mới bước tới quầy, nói với cô gái:"Xin Cô-nương cho coi chiếc quạt trên tường!" Cô gái bèn quay mặt vào nhà trong mà gọi:"Bố ơi! Có khách muốn coi quạt!" Từ nhà trong, cha cô gái lững thững bước ra, gỡ chiếc quạt trên tường xuống, trao cho khách. Thấy cha cô gái có vẻ lạnh lùng, Tử Cố e ngại, đỡ chiếc quạt cầm coi ít phút, đưa trả cô gái, nói:"Cám ơn Cô-nương!" rồi quay mình bước ra khỏi tiệm. Đi chừng trăm bước, Tử Cố dừng chân, quay đầu nhìn lại. Chợt thấy cha cô gái từ trong tiệm bước ra đường, đi về phía chợ, Tử Cố bèn quay trở lại tiệm. Thấy khách trở lại, cô gái dợm chạy ra chợ gọi cha về thì đột nhiên bị Tử Cố ngăn lại mà nói:"Cô-nương chẳng cần phải đi mời ông nhà về làm chi! Chỉ xin Cô-nương cho biết chiếc quạt giá bao nhiêu mà thôi!" Nghe khách hỏi, cô gái đáp: "Bốn mươi đồng!" Thấy giá quá cao, Tử Cố không mặc cả, chỉ nói:"Cám ơn Cô-nương!" rồi bỏ đi.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/thiu%20nin%205.jpg
Lưu Tử Cố

Sáng sau, Tử Cố lại xin phép cậu cho ra chợ chơi. Tới tiệm tạp hóa, hỏi giá chiếc quạt, cô gái lại nói giá bốn mươi đồng, Tử Cố lại nói lời cám ơn rồi bỏ đi. Cô gái vội gọi lại mà nói:"Xin quay lại! Nói thách đó! Chẳng đắt thế đâu! Hai mươi đồng thôi!" Tử Cố bèn quay lại, lấy tiền ra trả, rồi đem quạt về nhà. Vào phòng, chợt thấy mình nhớ cô gái quá, Tử Cố để chiếc quạt ở đầu giường rồi lại chạy ra chợ, tới tiệm tạp hóa. Thấy khách tới, cô gái mỉm cười, hỏi: "Muốn mua gì nữa đây?" Đang bị choáng váng vì người đẹp, nay lại thấy người đẹp mỉm cười với má lúm đồng tiền, đột nhiên tim đập thình thình, Tử Cố chỉ lắc đầu, lắp bắp:"Không muốn mua gì nữa! Chỉ muốn nói chuyện thôi!" Cô gái bèn hỏi:"Công tử họ tên chi?" Tử Cố đáp:"Họ Lưu, tên Tử Cố!” Rồi hỏi ngược:“Thế còn Cô-nương họ tên chi?" Đáp:"Họ Diêu, tên A Tú!" Rồi hỏi:"Công tử quê ở đâu?" Đáp:"Ở huyện Hải Châu, tỉnh này!” Rồi hỏi ngược:”Thế Cô-nương quê ở đâu?" Đáp:"Ở huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Đông!" Hỏi:"Sao lại lên đây cư ngụ?" Đáp:"Vì song thân lên đây mở tiệm tạp hóa!" Hỏi:"Tiệm có đông khách không?" Đáp:"Cũng không đông lắm!" Nói chuyện hồi lâu, chợt Tử Cố hỏi:"Ở đây có bán phấn cho đàn bà điểm trang không?" A Tú cười, đáp:"Có! Mua cho ai?" Tử Cố đáp:"Cho người quen!" A Tú bèn đi lấy phấn cho vào phong bì, rồi le lưỡi dán phong bì mà trao cho khách. Tử Cố trả tiền, rồi đứng nói chuyện đến tối. Về phòng, Tử Cố vội cất kỹ phong bì phấn vào bọc hành lý, chỉ e mất dấu lưỡi giai nhân.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/phong_canh/011.jpg
Ngày nào Lưu Tử Cố cũng xin phép cậu cho ra chợ chơi...

Từ đó, ngày nào Tử Cố cũng xin phép cậu cho ra chợ chơi, tới tiệm nói chuyện với A Tú. Vì thế, hai người mỗi ngày một thêm thân. Nửa tháng sau. Thấy ngày nào Tử Cố cũng ra chợ, Bành Xích sinh nghi, liền lén theo dõi để dò xét thì thấy tiểu chủ mình mê một cô gái đẹp, má lúm đồng tiền, ngồi bán hàng ở chợ. Biết chuyện Bành Xích theo dõi mình, Tử Cố bèn lấy cớ mẹ mình ở Hải Châu thiếu người hầu hạ để xin cậu bắt Bành Xích phải về trước. Nghe lời Tử Cố, Thạch Bình đuổi Bành Xích về. Bành Xích về rồi, Tử Cố càng thấy nhớ A Tú, mua một cái tráp thật đẹp để cất giữ phong bì phấn, rồi mỗi khi vắng người lại lấy phong bì ra ngắm để tưởng nhớ giai nhân. Nửa tháng sau tới hạn mẹ dặn phải về, Tử Cố đành xin cáo biệt cậu để trở về Hải Châu.

Năm sau, Tử Cố 16, lại được mẹ cho sang huyện Cái thăm cậu một tháng, nhưng lần này Tử Cố được mẹ cho đi một mình. Tới nơi, sau khi chào hỏi cậu và cởi bỏ hành lý, Tử Cố xin phép cậu cho ra chợ chơi. Được cậu cho phép, Tử Cố vội phóng mình ra đường, chạy thẳng tới tiệm tạp hóa của Diêu ông. Tới nơi, thấy cửa tiệm đóng, Tử Cố buồn rầu, thất thểu về phòng, nằm vật xuống giường. Chợt nghĩ có thể là mình tới sớm quá, cửa tiệm chưa mở, Tử Cố lại vùng dậy, chạy ra chợ. Tới nơi, thấy cửa tiệm vẫn đóng, Tử Cố càng buồn thêm. Đi quanh tiệm hỏi thăm, được biết vì cửa tiệm chẳng đông khách lắm, Diêu ông tạm đóng cửa, đưa vợ con xuống Quảng Đông thăm quê, Tử Cố cứ ngẩn ngơ như kẻ mất hồn. Hỏi thăm bao giờ Diêu ông trở lại, thấy ai cũng đáp là không biết, Tử Cố buồn bã, lủi thủi ra về. Vì ở huyện Cái không còn bóng dáng A Tú nên hai hôm sau, Tử Cố xin phép cậu cho về Hải Châu, lấy cớ là về để đi học. Thạch Bình cho về.

Thấy con về, Lưu bà hỏi:"Sao về sớm thế?" Tử Cố đáp:"Vì con muốn về để đi học!" Tuy nhiên, mấy ngày sau đó, thấy con chẳng đi học, chỉ nằm trên giường thở dài, Lưu bà gặng hỏi thì Tử Cố thú thực là mình tương tư A Tú, con gái ông bà chủ tiệm tạp hóa ở huyện Cái. Nhân dịp ấy, Bành Xích bèn mách với Lưu bà mọi điều mà mình đã dò xét được từ năm ngoái, khi theo Tử Cố sang thăm Thạch Bình. Nghe Bành Xích mách, Lưu bà bèn cấm không cho Tử Cố sang huyện Cái nữa. Vì tương tư A Tú, Tử Cố buồn bã, bỏ cả ăn uống, khiến Lưu bà lo lắng. Đắn đo suy nghĩ, thấy chiều con là hơn cả, Lưu bà bèn viết cho em một lá thư, sai con đem sang huyện Cái. Tới nơi, Tử Cố trao thư của mẹ cho cậu. Mở thư ra coi, thấy chị muốn nhờ mình đứng ra làm mối con gái Diêu ông cho cháu, Thạch Bình liền phục sức chỉnh tề rồi tới tiệm tạp hóa của Diêu ông. Lát sau, khi thấy cậu trở về, Tử Cố nôn nóng chạy ra hỏi:"Thưa cậu, Diêu ông đưa gia đình xuống Quảng Đông, chẳng hay đã về chưa?" Thạch Bình gật đầu, đáp:"Về rồi!" Tử Cố hỏi:"Thưa Cậu, Cậu đã hỏi giùm cháu chưa?" Thạch Bình gật đầu, đáp:"Hỏi rồi!" Nửa mừng nửa lo, Tử Cố hỏi:"Thưa Cậu, việc có thành không?" Thạch Bình lắc đầu, đáp:"Không thành!" Tử Cố tái mặt, hỏi:"Thưa Cậu, vì sao?" Thạch Bình đáp:"Vì Diêu ông đã hứa gả con cho một chàng trai ở Quảng Ninh rồi!" Nghe cậu nói, Tử Cố thất vọng, mặt buồn rười rượi, lòng nguội như tro.

Sáng sau, Tử Cố xin cáo biệt cậu để lên đường về nhà. Nhìn theo đứa cháu thất tình, Thạch Bình cũng cảm thấy ái ngại cho cháu. Về nhà, vì buồn rầu, suốt ngày Tử Cố chỉ ôm cái tráp đựng phong bì phấn mà khóc, cầu xin thần linh cho mình được gặp một cô gái khác, giống hệt A Tú.

Còn nữa...

thieugia
16-04-2014, 03:48 AM
A Tú

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/n%20hip.jpg

Tiếp theo...

Thấy con buồn rầu, Lưu bà bèn sang nhà bà mối họ Vu, ở bên hàng xóm, thuật chuyện con thất tình, rồi nhờ Vu bà kiếm cho con một cô vợ. Vu bà hỏi:"Cô gái mà công tử mê mẩn họ tên là gì?" Lưu bà đáp:"Cô ấy họ Diêu, tên A Tú!" Vu bà hỏi:"Là con cái nhà ai!" Lưu bà đáp:"Là con gái ông bà chủ nhân một tiệm tạp hóa ở huyện Cái!" Vu bà nói:" Ủa! Ngỡ là ai chứ gia đình ấy thì lão thân quen! Để rồi lão thân sẽ kiếm cho công tử một cô gái khác, giống như A Tú!"

Cuối năm ấy. Một hôm, Vu bà sang nhà Lưu bà, nói:"Lão thân vừa sang huyện Phúc Châu về. Tình cờ đi qua cổng biệt thự họ Hoàng, lão thân thấy một nữ lang đứng dưới mái hiên, trông giống A Tú lắm! Vậy lão bà hãy cho công tử sang Phúc Châu mà xem mặt nữ lang ấy!" Lưu bà bèn cám ơn Vu bà. Sau khi Vu bà cáo biệt, Lưu bà gọi Tử Cố vào phòng, thuật chuyện cho nghe rồi sai Bành Xích rong xe ngựa cho Tử Cố sang Phúc Châu. Được mẹ cho đi xem mặt giai nhân, Tử Cố mừng lắm. Tới nơi, hỏi thăm huyện dân, được biết biệt thự họ Hoàng ở cửa Tây huyện thành, Tử Cố bảo Bành Xích rong xe tới. Dòm qua cổng, thấy một nữ lang đứng dưới mái hiên, trông giống A Tú lắm, Tử Cố mới tin lời Vu bà. Tuy nhiên, Tử Cố cứ thắc mắc mãi hai điều là tại sao trong thiên hạ lại có hai người giống nhau đến thế? Và tại sao một nữ lang cư ngụ trong một biệt thự sang trọng mà chẳng điểm trang chi cả, ăn mặc toàn áo quần cũ, trông tựa áo quần lâu ngày không giặt. Thấy có khách đứng ở ngoài cổng nhìn mình, nữ lang bèn quay vào nhà, đứng lấp ló sau cánh cửa, thập thò nửa mặt mà nhìn khách.

Tử Cố bèn bảo Bành Xích rong cho mình xe sang căn nhà phía đông biệt thự, xin chủ nhà cho thuê một tháng. Chủ nhà nói giá, Tử Cố ưng thuận, lấy tiền ra trả. Nhận tiền thuê xong, chủ nhà đi ngay. Cởi bỏ hành lý xong, Tử Cố trở lại cổng biệt thự, mong lại được nhìn thấy nữ lang,nhưng chẳng thấy đâu. Từ hôm ấy, ngày nào Tử Cố cũng để ý tìm nữ lang nhưng bóng dáng giai nhân vẫn biệt tăm. Tháng sau. Một sáng, Tử Cố nản chí, định hôm sau sẽ trả nhà cho chủ rồi sai Bành Xích rong xe cho mình trở về Hải Châu. Chiều ấy, sang thăm biệt thự lần cuối, bỗng Tử Cố lại thấy nữ lang đứng dưới mái hiên. Lần này, thấy Tử Cố đứng ở ngoài cổng, đột nhiên nữ lang giơ tay chỉ về phía sau biệt thự, rồi đưa tay vỗ trán. Thấy lạ, đang gắng nghĩ xem nữ lang vỗ trán như thế là ngụ ý gì thì Tử Cố chợt thấy nữ lang bước vào nhà, đóng cửa lại. Tử Cố bèn quyết định cứ vòng ra phía sau biệt thự xem sao. Thấy phía sau là một khu vườn rộng rãi, chung quanh có tường cao bao bọc, nhưng ở mé tây, có một chỗ bờ tường thấp hẳn xuống, Tử Cố nghĩ rằng nữ lang đã vỗ trán để ra dấu bảo mình ra chỗ tường thấp ấy để gặp nhau. Tử Cố bèn tới núp vào một bụi cỏ ở gần chỗ tường thấp, nhìn lên mà chờ. Lát sau, Tử Cố thấy nữ lang ra vườn, đứng sát chỗ tường thấp, thò đầu ra ngoài mà gọi:"Lưu lang! A Tú đây! Có phải chàng đang núp trong bụi cỏ đó không?" Nghe tiếng nữ lang, Tử Cố bèn chui ra khỏi bụi cỏ mà đáp:"Phải! Ta đang chờ nàng!" Bước tới chỗ tường thấp, nhìn kỹ nữ lang, thấy đích thực là A Tú, Tử Cố vui mừng, chẳng cầm được nước mắt. Nữ lang bèn rút từ túi áo ra một chiếc khăn hồng, thò tay qua tường mà lau nước mắt cho Tử Cố. Vừa cảm động, vừa ngạc nhiên, Tử Cố hỏi: "Biệt thự này của ai?" Nữ lang đáp:"Của ông cậu họ!" Tử Cố hỏi:"Quý danh ông cậu là chi?" Nữ lang đáp:"Họ Hoàng, tên Lý!" Tử Cố hỏi: "Cha nàng đã hứa gả nàng cho một chàng trai ở Quảng Ninh rồi, sao nàng còn lên đây cư ngụ?" Nữ lang đáp:"Làm gì có chuyện đó! Chàng nghe ai nói?" Tử Cố kinh ngạc, nói:" Ủa! Chính cha nàng đã nói với cậu của ta như thế mà!" Nữ lang nói: "Chẳng phải thế đâu! Hôm cậu của chàng tới hỏi thiếp cho chàng thì cha thiếp lượng lự, chưa muốn nhận lời! Cậu của chàng hỏi nguyên do thì cha thiếp đáp là vì chàng ở Hải Châu, xa huyện Cái quá, nếu gả thiếp cho chàng thì ít khi cha thiếp có dịp gặp thiếp! Nghe thấy thế, cậu của chàng mới đặt chuyện ra mà nói để cho chàng đừng hy vọng chi nữa mà thôi" Tử Cố nói:"Đúng thế! Ta cứ ngỡ rằng ta chẳng còn hy vọng gì để được gặp lại nàng! Nay được gặp lại thì chẳng phải là duyên số hay sao?" Nói xong, Tử Cố toan trèo tường vào vườn thì nữ lang ngăn lại, nói:"Đừng trèo vào! Cứ về đi! Tối nay, cho Bành Xích tiền, bảo y ra chợ thuê phòng mà ngủ! Đến khuya thiếp sẽ sang!" Mừng quá, Tử Cố chạy về nhà, cho Bành Xích tiền mà nói:"Hãy ra chợ mà chơi, rồi tìm quán trọ ở ngoài ấy mà ngủ! Sáng mai hãy về!"

Tối ấy, Tử Cố để ngỏ cửa. Tới khuya, quả nhiên thấy nữ lang đẩy cửa bước vào phòng, Tử Cố mừng quá, kéo ghế mời ngồi, kể lể nhớ nhung. Nghe xong, nữ lang liền đứng dậy, kéo Tử Cố lên giường mà ân ái. Nằm đến canh tư, chợt nữ lang vùng dậy, mặc áo quần rồi chào Tử Cố mà đi. Tử Cố giữ lại thì nữ lang chỉ lắc đầu, hẹn đêm sau sẽ sang. Từ đó, hàng đêm, cứ chờ cho Bành Xích ngủ say là nữ lang lại sang ngủ với Tử Cố. Mải vui với nữ lang, Tử Cố quên bẵng việc về nhà.

Nửa tháng sau. Một đêm, khi thức giấc, Bành Xích chợt nhớ ra rằng hồi tối mình quên chưa cho ngựa ăn, bèn vùng dậy, đi lấy thóc đem ra cho ngựa. Khi đi qua cửa phòng tiểu chủ, thấy đèn còn sáng, Bành Xích bèn tới khe cửa dòm vào. Thấy tiểu chủ đang ngồi nói chuyện với một nữ lang, Bành Xích giật mình kinh hãi, vội đem thóc ra chuồng cho ngựa rồi trở về phòng đi ngủ. Sáng sau, Bành Xích ra chợ Phúc Châu, dò hỏi về những người cư ngụ trong biệt thự họ Hoàng. Về đến nhà, Bành Xích đi tìm tiểu chủ mà hỏi:"Đêm qua, nữ lang ngồi trong phòng nói chuyện với tiểu chủ là ai?" Tử Cố chối:"Đêm qua, làm gì có nữ lang nào ngồi trong phòng ta!” Rồi hỏi ngược:”Mi nghe ai nói?" Đáp: "Tiểu nhân chẳng nghe ai nói cả! Chính mắt tiểu nhân đã nhìn thấy! Tối qua, khi thức giấc, thấy trong phòng tiểu chủ đèn còn sáng, tiểu nhân mới tới khe cửa dòm vào thì thấy như thế!" Biết Bành Xích đã rõ chuyện, Tử Cố bèn đáp:"Nữ lang ấy là A Tú, con gái Diêu ông, chủ tiệm tạp hóa ở huyện Cái!" Bành Xích lắc đầu, nói: "Chẳng phải đâu!" Hỏi:"Sao mi biết là chẳng phải?" Đáp:"Vì cô A Tú chẳng quen biết chi với chủ nhân biệt thự họ Hoàng cả!" Tử Cố nói:"Mi lầm rồi! Chủ nhân biệt thự là cậu họ của cô ấy!" Bành Xích lại lắc đầu, nói:"Chẳng phải đâu!" Hỏi:"Sao mi biết?" Đáp:"Vì tiểu nhân đã ra chợ hỏi kỹ rồi! Ai cũng nói là vì biệt thự họ Hoàng bị bỏ hoang nên có một con chồn cái già lẻn vào cư ngụ! Thỉnh thoảng chủ nhân biệt thự mới thuê một thanh niên bạo dạn tới cắt cỏ và dọn dẹp mà thôi!" Hỏi:"Thế mi nghĩ nữ lang ấy là ai?" Đáp:"Nữ lang ấy chính là hóa thân của con chồn cái già!" Hỏi:"Sao mi biết?” Đáp:"Vì nếu là người thì nữ lang ấy phải điểm trang sạch sẽ chứ đâu có ăn mặc xốc xếch dơ bẩn như thế? Vả lại nữ lang ấy có sắc mặt trắng bệch, có gò má cao, lại không có má lúm đồng tiền thì chẳng thể nào là cô A Tú được!" Thấy Bành Xích nói có lý, Tử Cố kinh hãi, hỏi:"Thế bây giờ ta phải làm thế nào?" Bành Xích đáp: "Đêm nay, tiểu nhân sẽ giấu dao nhọn trong người, núp ở ngoài phòng tiểu chủ! Chờ cho nữ lang ấy tới, tiểu nhân sẽ xông vào phòng, rút dao ra đâm!" Cho là kế hay, Tử Cố gật đầu ưng thuận.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/chn%20tuyt%20.jpg
A Tú

Đêm ấy, khi vừa bước chân vào phòng Tử Cố, nữ lang đã lên tiếng:"Thiếp biết đêm nay chàng vừa có lòng ngờ vực thiếp! Lẽ ra, thiếp chẳng tới nữa, nhưng thiếp vẫn cứ tới để cùng chàng yến ẩm, trước khi chia tay!" Nữ lang vừa dứt lời thì Tử Cố thấy cửa phòng sịch mở, rồi thấy Bành Xích hung hăng rút dao xông tới chỗ nữ lang. Đột nhiên, nữ lang quát:"Buông dao!" Tức thì con dao trong tay Bành Xích bị văng xuống sàn, tựa hồ như cổ tay Bành Xích bị gậy đập trúng vậy. Nữ lang lại quát:"Mau đi lấy rượu đem ra đây để ta cùng chủ ngươi uống từ biệt!" Thấy sự việc xảy ra như thế, Tử Cố đâm ra kinh hãi nữ lang, bèn bảo Bành Xích: "Hãy chịu khó bày một tiệc rượu để ta thù tạc với vị khách đây lần cuối!" Bành Xích đành tuân lời tiểu chủ mà bày tiệc rượu.

Tử Cố mời nữ lang nhập tiệc. Nữ lang liền ngồi vào bàn yến ẩm, coi như chẳng có chuyện gì xảy ra. Thế nhưng, giữa tiệc, đột nhiên nữ lang hỏi:”Tuy thiếp chẳng phải là A Tú, nhưng tự nghĩ mình cũng chẳng xấu xí gì! Chàng nghĩ sao về nhan sắc của thiếp?" Kinh hãi quá, Tử Cố chỉ mấp máy môi lắp bắp, chẳng nói nên lời. Nữ lang lại tiếp:"Thiếp biết rõ là bây giờ chàng đang kinh hãi thiếp lắm! Sao chàng chẳng hỏi thẳng thiếp cho ra lẽ, việc chi phải để cho gia nhân mai phục, rút dao đâm thiếp?” Cực kỳ kinh hãi, tóc gáy dựng ngược, Tử Cô cứng họng, chẳng đáp được lời nào. Khi nghe đồng hồ điểm canh ba, nữ lang nâng chén uống cạn một hơi, rồi nói:"Bây giờ thiếp tạm biệt chàng! Chừng nào chàng động phòng hoa chúc với A Tú thì thiếp sẽ tới gặp giai nhân để so đẹp xấu! Thôi thiếp đi đây! Hẹn sẽ gặp lại!" Nói xong, nữ lang biến mất. Tử Cố bèn trả nhà cho chủ, bảo Bành Xích rong xe cho mình sang thẳng huyện Cái.

Tới nơi, vì vẫn tin lời nữ lang là cậu mình đã đặt chuyện Diêu ông hứa gả con cho một chàng trai ở Quảng Ninh, Tử Cố giận cậu lắm, chẳng đến chào hỏi cậu nữa. Tử Cố chỉ sai Bành Xích rong xe cho mình tới chợ huyện, thuê một căn nhà gần tiệm tạp hóa của Diêu ông mà ở.

Còn nữa...

thieugia
16-04-2014, 04:05 AM
A Tú

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/h%20ly%204.jpg

Tiếp theo

Hôm sau, Tử Cố bỏ tiền ra nhờ một bà mối họ Phó ở huyện Cái tới tiệm tạp hóa hỏi A Tú cho mình. Tới nơi, thấy chỉ có một mình Diêu bà ở tiệm, Phó bà lên tiếng hỏi:"Tiên sinh với tiểu thư đâu rồi?" Diêu bà đáp:"Cháu đang ở Quảng Ninh chơi với các cô em họ, còn ông nhà lão thân thì đang trên đường đi đón cháu về!" Phó bà nói:"Hôm nay lão thân tới đây là để hỏi tiểu thư A Tú cho công tử Tử Cố, con của Lưu bà ở huyện Hải Châu!" Diêu bà đáp:"Chuyện này thì lão thân chẳng dám quyết định! Chờ ông nhà lão thân và cháu về, lão thân sẽ thuật lại để xem ông nhà lão thân và cháu quyết định ra sao!" Phó bà hỏi:"Khi nào thì tiên sinh và tiểu thư mới về?" Diêu bà đáp:"Thực tình thì lão thân cũng chẳng rõ, nhưng nếu lão bà muốn biết thì để khi nào ông nhà lão thân và cháu về tới nhà, lão thân sẽ xin báo tin để lão bà biết ngay!"

Phó bà về thuật lại cho Tử Cố nghe. Tuy sốt ruột, nhưng chẳng biết làm sao hơn, Tử Cố đành ở lại huyện Cái để chờ Diêu ông về. Mười hôm sau, chợt nghe đồn trong huyện Cái có một đám giặc nổi lên cướp phá, Tử Cố không tin. Thế nhưng, khi thấy huyện dân nhớn nhác bỏ chạy, Tử Cố mới kinh hãi, vội trả nhà lại cho chủ, bảo Bành Xích rong xe cho mình về Hải Châu. Dọc đường gặp giặc, chủ tớ đều bị giặc bắt, mỗi người bị giam một nơi. Thấy Bành Xích cường tráng, đám giặc canh phòng cẩn mật, còn Tử Cố yếu đuối, đám giặc chỉ canh phòng lơ là. Nhờ thế, đêm ấy, Tử Cố lẻn được ra chuồng ngựa, lấy trộm được một con ngựa, phóng về Hải Châu. Tới địa giới Hải Châu, thấy đã thoát hiểm, Tử Cố mới cho ngựa đi thong thả. Chợt thấy một cô gái mặt mũi lem luốc, đầu tóc rối bù, áo quần rách rưới, đang thất thểu bước trên đường, ngay trước mắt mình, Tử Cố chẳng để ý, cứ cho ngựa bước vượt qua. Bỗng nghe thấy tiếng hỏi:"Có phải người đang cưỡi ngựa kia là công tử họ Lưu, tên Tử Cố đó chăng?" Tử Cố mới giật mình, quay ngựa lại. Chợt nhận ra cô gái là A Tú, Tử Cố mừng lắm, nhưng vì đã bị chồn đánh lừa một lần, Tử Cố đâm ra e dè, chỉ hỏi:"Cô nương là ai?" Lộ vẻ ngạc nhiên, cô gái đáp:"Thiếp là A Tú đây mà! Công tử chẳng nhận ra sao?" Tử Cố lại hỏi:"Có thực cô nương là cô A Tú họ Diêu, ở huyện Cái hay không?" Cức kỳ kinh ngạc, cô gái hỏi:"Sao công tử lại hỏi như thế?" Tử Cố chẳng đáp, chỉ xuống ngựa, buộc ngựa vào gốc cây bên đường, rồi bảo cô gái ngồi xuống gốc cây nói chuyện. Cô gái tuân lời.

Tử Cố bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện con chồn cái già ở Phúc Châu đã hóa thành A Tú để đánh lừa mình. Nghe xong, cô gái nói:"Thiếp là A Tú thực, con gái ông chủ tiệm tạp hóa họ Diêu ở huyện Cái chứ chẳng phải là A Tú giả đâu!" Tử Cố hỏi:"Sao nàng lại lem luốc, rách rưới, tới đây một mình như thế này?" Cô gái đáp:"Nguyên là cha thiếp từ huyện Cái xuống Quảng Ninh đón thiếp về huyện Cái. Tới gần địa giới huyện Cái thì thiếp bị giặc bắt, còn cha thiếp thì được chúng thả cho vễ. Tên tướng giặc bồng thiếp lên mình ngựa, bắt thiếp ngồi sau, ôm quanh bụng y để y phóng ngựa. Vì ngựa phi nhanh, thiếp té xuống đất, lăn đi mấy vòng. Trong khi tên tướng giặc quay ngựa lại để bắt thiếp thì đột nhiên có một nữ lang ở đâu hiện ra, nắm lấy cổ tay thiếp mà kéo đi, nhanh hơn cả ngựa phi, khiến chân thiếp nâng cao khỏi mặt đất, còn tai thiếp thì chỉ nghe thấy tiếng gió thổi vù vù. Khi thấy tiếng la hét của giặc đã xa dần rồi mất hẳn, nữ lang mới hạ chân xuống con đường này, buông cổ tay thiếp ra mà nói:"Thôi! Tạm biệt nghe! Cứ thủng thẳng đi theo con đường này thì sẽ gặp người yêu. Nếu y có rủ về nhà thì cứ theo y mà về!" Vì thế, thiếp mới tới đây một mình, mặt mũi lem luốc, đầu tóc rối bù, áo quần rách rưới!" Tuy chẳng nói ra, nhưng Tử Cố thầm nghĩ chắc nữ lang ấy là con chồn cái già ở Phúc Châu. Tử Cố lại hỏi:"Tại sao khi xuống Quảng Đông thăm quê, cha nàng đưa cả gia đình đi theo, mà khi trở về huyện Cái cha nàng lại để nàng ở lại?" Cô gái đáp:"Vì chú thiếp giữ thiếp ở lại để làm mối cho một chàng trai họ Phương ở Quảng Ninh!" Tử Cố hỏi:"Thế tại sao cha nàng lại xuống Quảng Đông đón nàng về?" Cô gái đáp:"Vì cha thiếp được chú thiếp báo tin là việc làm mối chẳng thành!" Lúc đó, Tử Cố mới hối hận là mình đã nghi oan cho cậu mình đặt chuyện!

Tin chắc cô gái này là nàng A Tú họ Diêu ở chợ huyện Cái, Tử Cố bèn nhấc bổng A Tú lên lưng ngứa, rồi cưỡi chung ngựa về nhà mình ở Hải Châu. Tới nhà, Tử Cố đem ngựa vào chuồng rồi dẫn A Tú lên nhà chào mẹ. Thấy mẹ vẫn bình an mạnh khoẻ, Tử Cố mừng lắm, bèn giới thiệu A Tú với mẹ. A Tú vội chắp tay lạy Lưu bà. Lưu bà cũng chắp tay đáp l*ễ. Tử Cố bèn trình với mẹ đầu đuôi chuyến du hành của mình và chuyện gặp A Tú ở dọc đường. Nghe xong, Lưu bà mừng lắm, vội sai gia nhân đi lấy y phục và giỏ trang điểm mới cho A Tú rồi sai dẫn A Tú đi tắm gội. Tắm gội xong, A Tú mặc quần áo mới, rồi trang điểm, khiến dung quang sáng hẳn ra. Lưu bà mừng lắm, nói:"Đẹp như thế này thì thảo nào mà con trai ta chẳng mất cả hồn vía!" Rồi Lưu bà sai gia nhân kê thêm một chiếc giường trong phòng riêng của mình cho A Tú nằm.

Hôm sau, Lưu bà sai gia nhân đem thư sang huyện Cái mời ông bà Diêu sang Hải Châu thăm con gái và quyết định việc hôn nhân cho con. Tuần sau. Ông bà Diêu cùng sang nhà Lưu bà. Sau khi thi l*ễ và thăm hỏi, Lưu bà dành phòng riêng của mình cho ông bà Diêu ở để hàn huyên với con. Tuần sau, Diêu ông bói ngày lành tháng tốt để làm lễ* vu quy cho con. Sau lễ* thành hôn, ông bà Diêu xin cáo biệt. Lưu bà đi ti*ễn khách đến mấy dặm đường mới quay về.

Tối ấy, khi động phòng hoa chúc, Tử Cố lấy cái tráp đựng chiếc phong bì phấn ra khoe A Tú, rồi mở tráp, lấy chiếc phong bì còn nguyên dấu lưỡi của A Tú cho A Tú coi. A Tú cảm động, nước mắt lưng tròng. Mở phong bì ra coi, thấy chẳng có phấn mà chỉ có đất sét, Tử Cố kinh ngạc, hỏi:"Sao lại lạ thế?" A Tú cười, đáp:"Đã mấy năm rồi mà bây giờ chàng mới biết hay sao? Hôm chàng mua phấn cho đàn bà điểm trang, thiếp muốn đùa chàng nên đã lấy đất sét bỏ vào phong bì thay cho phấn! Sao hôm ấy chàng chẳng mở phong bì ra ngay mà coi xem là phấn thực hay phấn giả?" Trong khi hai vợ chồng đang đùa rỡn với nhau thì cửa phòng sịch mở, bức rèm được vén lên, rồi có tiếng nữ lang nói:"Hai người được hạnh phúc với nhau như thế này thì phải tạ ơn bà mối đi chứ?" Đưa mắt nhìn ra cửa, thấy một A Tú nữa, Tử Cố cực kỳ hoảng sợ, vụt chạy ra khỏi phòng, đi mời mẹ và cả nhà vào phòng mình coi. Lưu bà và đám gia nhân cùng đi theo Tử Cố. Vào phòng, thấy có hai A Tú giống hệt nhau, mọi người đều sửng sốt, chẳng ai biết được A Tú nào là A Tú thực, kể cả Tử Cố! Chăm chú nhìn hồi lâu, Tử Cố mới nhận ra vợ, bèn bảo vợ cùng mình quỳ xuống mà lạy tạ nữ lang.

Còn nữa...

thieugia
16-04-2014, 04:11 AM
A Tú

Tiếp theo...

Nữ lang đòi mượn một tấm gương. Tử Cố vội đứng dậy, đi lấy gương đem tới. Nữ lang đỡ gương, cầm soi hồi lâu rồi đưa mắt nhìn A Tú chằm chặp tựa hồ như để so sánh hai nhan sắc. Đột nhiên nữ lang chạy vụt ra khỏi phòng. Mọi người cùng chạy theo để giữ lại thì nữ lang đã biến mất. Cảm cái ân nghĩa của nữ lang đã tác hợp cho vợ chồng mình, Tử Cố bèn thiết lập bàn thờ và bài vị để thờ nữ lang, gọi nữ lang là Hồ tỉ tỉ.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/n%20hip.jpg

Một tối, Tử Cố được bạn bè mời đi uống rượu. Khuya về, vào phòng, khoá cửa, thấy phòng tối thui, Tử Cố thắp đèn lên coi thì thấy giường trống, chẳng thấy vợ đâu. Toan lên tiếng gọi vợ, chợt nghe có tiếng gõ cửa, Tử Cố chạy ra mở thì thấy A Tú bước vào. Tử Cố hỏi:"Nàng đi đâu đó?" A Tú đáp:"Thiếp ra phòng khách pha trà!" Tử Cố nói:"Ta muốn nàng cùng ta lên giường ân ái!" A Tú cười, đáp:"Uống nhiều rượu quá, đàn bà nào chịu cho nổi? Mùi rượu nồng nặc, chẳng đàn bà nào chịu ngoại tình với đâu!" Tuy chẳng hiểu vợ muốn nói gì, Tử Cố cũng cười rồi nâng cằm vợ lên mà nựng nịu. A Tú hỏi:"So sánh nhan sắc của thiếp với nhan sắc của Hồ tỉ tỉ, chàng thấy ai đẹp hơn?" Tử Cố đáp:"Nàng đẹp hơn! Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn thoáng qua diện mạo bên ngoài thì khó lòng mà phân biệt nổi!" A Tú cười, nói:"Chàng nói đúng đó! Thiếp thấy chàng chẳng thể phân biệt nổi thiếp với Hồ tỉ tỉ!"

Chợt lại nghe có tiếng gõ cửa, Tử Cố chạy ra mở thì lại thấy một A Tú nữa bước vào. Kinh ngạc quá, Tử Cố chăm chú nhìn A Tú trước hồi lâu thì mới nhận ra đó là Hồ tỉ tỉ. Đột nhiên Hồ tỉ tỉ biến mất, rồi hai vợ chồng nghe thấy một chuỗi cười dòn dã từ xa vọng lại. Hai vợ chồng bèn chắp tay hướng về phía chuỗi cười mà vái lạy. Tử Cố khấn:"Xin Hồ tỉ tỉ cho vợ chồng Lưu mỗ được gặp mặt lại để nói chuyện!" Có tiếng đáp:"Thiếp chẳng muốn gặp mặt A Tú nữa!" Tử Cố hỏi:"Vì sao?" Có tiếng đáp:"Vì A Tú đẹp hơn thiếp!" Tử Cố hỏi:"Sao Hồ tỉ tỉ chẳng hiện hình với một diện mạo khác?" Có tiếng đáp:"Thiếp chẳng thể làm thế được!" Tử Cố hỏi:"Tại sao?" Có tiếng đáp:"Vì kiếp trước, thiếp với A Tú là hai chị em ruột trong cùng một gia đình! Một hôm mẹ dẫn hai chị em lên thiên cung gặp Tây Vương Mẫu! Thấy Tây Vương Mẫu đẹp quá, cả hai chị em cùng đem lòng ái mộ. Khi về, hai chị em cùng cố tu sửa nhan sắc mình cho giống Tây Vương Mẫu! Vì A Tú thông tuệ hơn nên thị chỉ cần tu sửa có một tháng mà nhan sắc của thị đã gần giống Tây Vương Mẫu! Thế rồi, chẳng may thị bị chết yểu. Còn lại một mình, thiếp phải tu sửa mất ba năm mà nhan sắc của thiếp cũng chỉ được như thế này thôi! Thiếp hy vọng là khi A Tú tái sinh thì nhan sắc của thiếp sẽ vượt được nhan sắc của thị! Nào ngờ, nay A Tú đã được tái sinh làm con gái gia đình họ Diêu mà nhan sắc của thiếp vẫn còn thua nhan sắc của thị nên thiếp chẳng muốn gặp mặt thị nữa!" Tử Cố hỏi:"Đã thế thì hôm nay Hồ tỉ tỉ còn hiện hình ra với vợ chồng Lưu mỗ làm chi?" Có tiếng đáp:"Vì cảm tấm lòng thành của hai người đã thiết lập bàn thờ và bài vị thờ thiếp nên thiếp muốn hiện hình ra để nói lời cám ơn! Thôi! Thiếp đi đây!" Thế rồi tiếng nói im bặt.

Từ đó, cứ ba ngày một lần, Hồ tỉ tỉ lại tới nhà Tử Cố, nhưng chẳng hiện hình mà chỉ dùng tiếng nói để hướng dẫn cho vợ chồng Tử Cố biết cách giải quyết mọi gia vụ cho êm đẹp. Một hôm, A Tú về huyện Cái thăm cha mẹ một tháng. Hồ tỉ tỉ liền hiện hình ra với diện mạo A Tú mà ăn ở với Tử Cố như vợ chồng. Đám gia nhân đều kinh hãi, tránh mặt Hồ tỉ tỉ. Trong tháng ấy, một hôm có mấy gia nhân ăn cắp một số vật của Lưu bà. Khi thấy Lưu bà nói cho Tử Cố hay, Hồ tỉ tỉ liền điểm trang đẹp đẽ, lên ngồi ở giữa chiếc sập kê trong phòng khách, gọi toàn thể gia nhân lên tụ tập chung quanh chiếc sập. Hồ tỉ tỉ nói:"Các vật của lão phu nhân vừa bị mất, kẻ nào trót lấy thì phải đem trả lại chỗ cũ!" Rồi Hồ tỉ tỉ rút từ mái tóc ra một chiếc trâm đồi mồi, giơ cao lên mà nói:"Kẻ nào chẳng tuân lời thì sẽ bị chiếc trâm này đâm vào đầu, đau nhức suốt cuộc đời! Lúc đó, có hối thì cũng đã muộn!"

Sáng sau, quả nhiên các vật mà Lưu bà bị mất cắp đều được đem trả lại chỗ cũ. Hôm A Tú về, Hồ tỉ tỉ biến mất. Nghe chuyện, A Tú cũng bắt chước Hồ tỉ tỉ mà dọa nạt đám gia nhân để chúng phải trả lại những vật chúng đã lấy cắp.

Từ đó, cứ lúc nào A Tú vắng nhà là Hồ tỉ tỉ lại hiện hình ra với diện mạo của A Tú mà ăn ở với Tử Cố. Ba năm sau. Một hôm, đột nhiên Hồ tỉ tỉ biệt tích.


----------------------- Hết ---------------------------

backieuphong
01-06-2014, 08:01 PM
Thang Kỳ Ngũ

http://thaicucthieugia.com/images/stories/thay_do/o%20gia%206.jpg


Hàn lâm Thang Kỳ Ngũ người Tiền Đường, trước thuê nhà để ứng thí ở Khảo viện, do nhà chật trội lại bên cạnh có gian nhà lớn cửa khóa chặt mà không có người ở. Hỏi thăm láng giềng, họ nói “Đó là nhà của Thái thú Hàng Châu Sài công, có ma dữ quấy phá nên không ai mua”. Thang vốn can đảm nói “Thuê ở được không?”, láng giềng cười cho là điên khùng, cũng không ai cản trở.

Thang bèn mở cửa vào nhà thấy trên lầu có hai cái bàn bốn cái ghế, phía Tây lầu có cái rương tre. Tuy lâu ngày không có người ở nhưng cũng không có bụi bặm. Thang mừng rỡ, lập tức đem hành lý lên lầu. Lại lấy thêm một bầu rượu, một ngọn côn rồi đốt đuốc nằm đọc sách. Canh ba đêm ấy, âm phong nổi lên nơi cửa sổ, ánh đèn đuốc nhỏ dần rồi có cô gái xõa tóc trần truồng, miệng mồm nhue nhoét máu bước vào. Thang vung côn đuổi đánh, cô gái buồn bã nói “Quí nhân ở đây, thiếp lầm rồi”, lại theo cử sổ mà ra.

Thang mừng vì ma đã đi định cởi áo đi nằm chợt phòng phía Tây có tiếng động lắc cắc. Nhìn tới thấy có cô gái từ Phòng phía Tây đi ra, tay cầm áo quần đẹp đẽ và các vật khăn lược làm như sắp đi tắm. Thang càng không sợ, làm như không thấy nên vừa uống rượu vừa đọc sách.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/m%20nhn%20.jpg

Lát sau, cô gái chải tóc, chỉnh đốn áo quần, sau đó khép nép bước tới quỳ trước mặt, nói “Thiếp có mối oan kỳ lạ, không phải ông thì không ai làm rõ cho thiếp được. Thiếp vốn họ Chu, tên là Mai Hoa là thiếp của Thái thú Hàng Châu Sài công. Vợ cả cả ghen tuông mà gian giảo, biết quan Thái thú thương yêu thiếp nên không dám công khai hãm hại. Hôm thiếp sanh nở, vợ cả đút lót cho bà mụ (người đỡ đẻ khi xưa), lúc đẻ xong bèn lấy dầu của cây đồng sống rồi ngầm bôi vào âm đạo khiến thiếp bị lở loét mà chết. Con trai thiếp tên là Mỗ hiện được bà vợ cả nuôi làm con, mười năm nữa ông sẽ làm chủ khảo Hồ Bắc, con trai thiếp sẽ là học trò của ông ông nên kể cho nó biết mối oan của thiếp. Xác của thiếp hiện đang được chôn ở cạnh giếng bên tường phía Đông lầu này, có viên gạch bát giác làm dấu, ông cứ sai nó cải táng cho mẹ ruột”. Lại chỉ vào cái rương tre nói “Đó là chỗ thiếp cất giấu nữ trang. Lúc thiếp chết, Thái thú vô cùng đau xót lúc ra đi lại rặn người nhà không được đem rương của thiếp về sợ nhìn thấy lại thêm đau lòng. Về sau có kẻ đến trộm, bị thiếp nổi âm phong dọa mà phải lui ra. Hiện trong ấy có ba trăm lượng vàng xin lấy để tặng”. Thang cũng buồn rầu và hứa sẽ làm theo.

Về sau, mọi chuyện đều đúng như lời người đàn bà ấy nói và cũng từ đấy, ma quái trên lầu cũng tuyệt tích.

Backieuphong – Theo Tử Bất Ngữ của Viên Mai.

fangzi
03-01-2015, 08:53 AM
TIÊU THẤT

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/m%20nam%204.jpg

Huyện Lâm Chuy, tỉnh Sơn Đông, có nho sinh Từ Kế Trường, có vợ là Điền thị, vừa xinh đẹp, vừa hiền lành, không ghen tuông, hay chiều chồng, lại hay bỡn chồng. Kế Trường đi thi mãi không đậu, bèn bỏ học, đi làm chủ bạ (thư ký).

Một sáng hè, Kế Trường đi dự tiệc ở xa. Chiều về, dọc đường khát quá, đảo mắt nhìn quanh để kiếm nhà vào xin nước uống, Kế Trường chỉ thấy toàn là đồng ruộng, với vài ba ngôi cổ mộ rải rác đó đây.

Lát sau, thấy thấp thoáng ở đằng xa có một biệt thự, Kế Trường mừng quá, rảo bước chạy tới thì thấy một ông lão ngồi hóng gió ở cổng, Kế Trường chắp tay vái chào mà nói:"Tiểu sinh khát quá, xin lão trượng làm ơn cho ngụm nước!" Ông lão liền đứng dậy mà nói:"Xin mời thiếu lang theo lão phu vào nhà!"

Ông lão dẫn Kế Trường vào phòng khách, mời ngồi, gọi tì nữ bưng trà lạnh lên. Chờ Kế Trường uống hết bình trà, ông lão mới nói:"Xin thiếu lang cho lão phu được biết quý danh!" Kế Trường đáp:"Tiểu sinh là Từ Kế Trường!" rồi ngồi nói chuyện với ông lão.

Lát sau, khi Kế Trường đứng dậy cám ơn, xin cáo biệt thì bất ngờ ông lão nói:"Trời tối rồi, đường đi khó thấy! Thiếu lang ở đây mà nghỉ, sáng mai hãy về!" Đang say rượu, thân thể mỏi nhừ, được mời ở lại, Kế Trường liền đáp:"Xin vâng!" Ông lão bèn sai tì nữ đi dọn phòng cho khách, rồi quay nói với Kế Trường:"Lão phu đã sai dọn phòng để thiếu lang đi nghỉ, nhưng giờ này còn sớm, thiếu lang hãy ngồi đây nói chuyện với lão phu một lát đã!" Kế Trường đành ngồi lại. Ông lão bèn nói với Kế Trường đủ mọi chuyện cho đến nửa đêm.

Đột nhiên, ông lão gọi gia nhân, sai bày tiệc rượu cho 8 thực khách. Kế Trường kinh ngạc, chẳng hiểu tại sao giữa đêm khuya mà ông lão lại sai gia nhân bày tiệc, nhưng không dám hỏi tới việc riêng của chủ nhà. Bỗng ông lão hỏi Kế Trường:"Thiếu lang có gia thất chưa?" Kế Trường đáp: "Thưa lão trượng, đã!" Ông lão nói:"Lão phu có chuyện riêng muốn thưa cùng thiếu lang!" Kế Trường vội hỏi:"Thưa lão trượng, chuyện chi?" Ông lão đáp:"Xin chớ chê lão phu đường đột! Lão phu có 7 con gái, đã gả chồng hết 6, chỉ còn đứa út, 16 tuổi. Nay thấy thiếu lang là người xứng đôi với thị nên lão phu muốn gả thị cho thiếu lang làm vợ lẽ, chẳng hay ý thiếu lang thế nào?" Kế Trường lúng túng, chẳng biết đáp lời ra sao. Ông lão bèn sai gia nhân sang hàng xóm mời khách tới dự tiệc rồi sai tì nữ vào nhà trong giục cô út điểm trang rồi mời phu nhân đưa cô út ra chào khách.

Lát sau, có 4 vị khách già từ ngoài cửa bước vào, rồi phu nhân từ nhà trong bước ra, theo sau là 2 tì nữ dìu 1 nữ lang, tư dung diễm lệ, xiêm y sang trọng. Nữ lang cúi đầu chào mọi người.

Ông lão bèn đứng dậy giới thiệu mọi người với Kế Trường rồi chỉ Kế Trường mà nói:"Thiếu lang đây là Từ Kế Trường! Lão phu vừa quyết định đêm nay làm l*ễ vu quy cho con gái út sánh duyên cùng thiếu lang! Nửa đêm mà còn làm phiền quý vị tới đây chứng giám, mong quý vị thứ lỗi cho!" Mọi người đều nói lời chúc tụng rồi cùng nhập tiệc.

Vừa đi dự tiệc ở xa về, còn đang say mèm, thân thể mỏi nhừ, đầu óc rối loạn, Kế Trường chỉ muốn được đi nằm. Thế nhưng, trong tình cảnh ấy, Kế Trường phải mi*ễn cưỡng ngồi vào bàn.

Thêm vài tuần rượu, Kế Trường say quá, không kham nổi, đứng dậy xin đi nghỉ. Ông lão cố ép ngồi lại nhưng Kế Trường cương quyết từ chối. Ông lão đành sai tì nữ dẫn khách cùng con gái út của mình vào phòng. Tì nữ tuân lệnh, rồi khép cửa phòng mà đi.

Kế Trường ngồi xuống giường, còn nữ lang thì tới ngồi trên chiếc ghế đặt ở góc phòng, cạnh ngọn đèn. Kế Trường hỏi:"Nàng họ chi?" Nữ lang đáp:"Thiếp họ Tiêu!" Hỏi:"Nàng tên chi?" Đáp:"Thiếp không tên!" Hỏi: "Không tên thì lấy chi mà gọi?" Nữ lang cười mà đáp:"Ai cũng gọi thiếp là Cô Bảy vì thiếp là con gái thứ 7 trong gia đình!" Hỏi:"Gia thế nhà nàng ra sao?" Đáp:"Gia thế nhà thiếp nghèo hèn thô lậu, chẳng có chi đáng khoe. Tuy nhiên, nay được cha đem gả cho một chủ bạ thì thiếp nghĩ gia thế nhà mình cũng không đến nỗi làm nhục gia thế nhà chồng. Chàng chẳng nên căn vặn về chuyện này nữa!" Ngượng quá, Kế Trường không dám hỏi chi thêm.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/tm%20kinh%205.jpg

Đến lượt Cô Bảy hỏi:"Bây giờ chàng định đưa thiếp về đâu đây?" Kế Trường nói:"Ta muốn xin ở rể tại đây có được không?" Nữ lang đáp:"Không được!" Hỏi:"Tại sao?" Đáp:"Vì chàng còn có vợ cả ở nhà! Chị Cả hiền lành vui vẻ, chẳng biết ghen tuông, sao không đưa thiếp về ở chung?" Thấy Kế Trường ngần ngại, Cô Bảy nói tiếp:"Sáng mai, một mình chàng về nhà trước, xin Chị Cả cho thiếp về ở chung! Nếu Chị Cả ưng thuận thì chàng cứ dọn cho thiếp một phòng riêng. Tối mai thiếp sẽ tự tới, chàng khỏi phải đón rước!" Kế Trường gật đầu.

Cô Bảy bèn tắt đèn rồi lên giường hoan lạc với Kế Trường. Lát sau, mệt quá, Kế Trường lăn ra ngủ.

Sáng ra, khi ánh nắng rọi vào mắt, Kế Trường tỉnh giấc thì thấy Cô Bảy biến đâu mất, còn mình thì đang nằm dưới gốc cổ thụ, trên đống cỏ dày. Kinh hãi quá, Kế Trường vội vùng dậy, chỉnh lại mũ áo mà ra về.

Tới nhà, Kế Trường thuật chuyện cho vợ nghe. Điền thị không tin, cứ rũ ra cười mà nói:"Chắc vì chàng say rượu, té lăn xuống đường mà ngủ rồi mơ thấy thế chứ gì!" Tuy nhiên, vì muốn bỡn chồng, Điền thị vẫn đi dọn một phòng riêng, kê giường nệm mới, gối chăn mới, rồi ra nói:"Thiếp đã dọn xong phòng riêng rồi! Tối nay chàng vào đó mà ngủ với cô dâu!" Nói xong, Điền thị lại rũ ra cười, khiến Kế Trường cûng phải cười theo.

Tối ấy, cơm nước xong, Điền thị muốn bỡn chồng, bèn tới nắm tay chồng, lôi đến căn phòng mới dọn, mở cửa phòng, rồi lên tiếng hỏi đùa:"Cô dâu đã tới đó ư? Còn chờ gì mà không ra dắt chú rể vào ngủ?" Nói xong, Điền thị rũ ra cười. Chợt thấy ngọn đèn trong phòng loé sáng, Điền thị kinh ngạc, tắt hẳn tiếng cười. Rồi thấy có người từ trên giường tụt xuống, xỏ chân vào giày, chạy ra cửa, Điền thị chú mục nhìn thì thấy một nữ lang xinh đẹp, điểm trang sang trọng như cô dâu ngày cưới. Nữ lang vái chào Điền thị. Điền thị gật đầu đáp lễ rồi hỏi:"Em tới từ hồi nào?" Nữ lang đáp:"Thiếp vừa mới tới!" Điền thị bèn chỉ Kế Trường mà nói:"Bây giờ em cứ giữ chàng ở lại đây, để chị đi lấy rượu vào cho 2 người làm l*ễ hợp cẩn!" Nói xong, Điền thị bước ra khỏi phòng. Nhận ra nữ lang là Cô Bảy đêm qua, Kế Trường mừng lắm còn Cô Bảy thì chỉ che miệng cười. Lát sau, Điền thị đem rượu vào phòng cho 2 người, rồi trở ra. Kế Trường bèn ở lại với Cô Bảy.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/xun%20cung%20.jpg

Sáng sau, Cô Bảy dậy sớm, tự ý lau chùi dọn dẹp nhà cửa. Khi ngủ dậy, thấy nhà cửa sạch sẽ tươm tất, Điền thị thích lắm, không ngớt lời khen. Từ đó, 3 vợ chồng chung sống hòa thuận, vui vẻ trong một nhà.

Tháng sau. Một sáng, đột nhiên Cô Bảy nói với Kế Trường:"Tối nay, 6 chị của thiếp muốn tới đây ăn uống để xem nhà cửa của chàng ra sao" Kế Trường nói:"Nhà ta nghèo lắm, biết lấy chi mà đãi khách?" Cô Bảy đáp: "Chàng khỏi lo! Vì biết nhà chàng nghèo nên các chị thiếp sẽ cho người đem thức ăn tới. Chỉ nhờ chàng nói với Chị Cả tối nay hâm nóng thức ăn giùm thiếp mà thôi!" Kế Trường bèn ra nói với vợ. Điền thị vui vẻ nhận lời.

Trưa ấy, quả có người gánh 2 thúng đầy rượu thịt vào đặt ở giữa sân, rồi bỏ đi. Điền thị liền ra lấy, đem vào bếp.

Tối ấy, khi thấy 6 chị tới, Cô Bảy chạy ra mời vào phòng mình mà giới thiệu từng người với Kế Trường. Kế Trường thấy Cô Cả cũng chỉ chừng 40 trở lại, còn cô Sáu thì chỉ chừng 18, vóc người thon nhỏ, mảnh mai yểu điệu, dáng vẻ vui tươi, ăn nói dí dỏm, chỉ mặc một bộ đồ trắng chứ không trang điểm gì, vì Cô mới góa chồng. Điền thị vào bếp hâm nóng thức ăn. Cô Bảy xuống bếp mời Điền thị cùng lên dự tiệc. Điền thị từ chối, nói đã ăn rồi. Cô Bảy bèn bưng thức ăn lên phòng.

Mọi người nhập tiệc, chuyện trò vui vẻ. Trong tiệc, Kế Trường ưa nói chuyện với Cô Sáu nhất. Lát sau, mọi người cùng say sưa, cười nói ầm î. Thấy tiếng ồn ào trên phòng Cô Bảy, Điền thị vội chạy lên dòm qua cửa sổ để coi xem có bao nhiêu người thì thấy chỉ có chồng mình với cô Bảy, nhưng Điền thị vẫn nghe thấy tiếng nhiều người cười nói. Cả bọn ngồi dự tiệc tới gần sáng mới đứng dậy cáo biệt. Cô Bảy bèn ti*ễn 6 chị ra về.

Điền thị vào phòng Cô Bảy nói chuyện với chồng. Thấy bát đĩa trên bàn nhẵn nhụi, Điền thị cười mà hỏi:"Lû nhỏ đói lắm phải không?" Kế Trường hỏi lại:"Tại sao nàng biết?" Điền thị cười mà đáp:"Vì bát đĩa nào cũng sạch trơn như chó liếm!" Rồi Điền thị dọn bát đĩa, đem xuống bếp rửa.

Ti*ễn khách về rồi, Cô Bảy trở vào phòng thì thấy bát đĩa đã được dọn, bèn hỏi Kế Trường:"Ai dọn bát đĩa thế?" Kế Trường đáp:"Chị Cả dọn, đem xuống bếp rửa rồi!" Cô Bảy vội chạy xuống bếp, giằng lấy bát đĩa trong tay Điền thị mà rửa, giục Điền thị lên nhà đi nghỉ.

Điền thị lên phòng Cô Bảy, nói với chồng:"Chàng mời khách tới nhà dự tiệc mà lại để cho khách phải đem thức ăn tới thì kỳ cục quá, thế nào rồi họ cũng cười cho! Hôm nào chàng gắng kiếm chút tiền để thiếp làm tiệc cho mà đãi khách!" Kế Trường trầm ngâm, không đáp. Lát sau, Điền thị nói: "Tối nay chàng cứ ở lại đây mà ngủ!" rồi về phòng riêng.

Còn nữa...

fangzi
03-01-2015, 08:58 AM
TIÊU THẤT

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/m%20nam%204.jpg

Tiếp theo trang trước.

Tháng sau.

Một sáng, Kế Trường đưa tiền cho vợ làm tiệc, rồi bảo Cô Bảy về nhà mời 6 chị tới dự.

Đến tối, Điền thị làm tiệc xong, bày hết lên bàn trong phòng Cô Bảy. Lát sau, khi khách tới, Kế Trường bảo Cô Bảy mời khách vào phòng nhập tiệc. Khách ngồi vào bàn, ăn uống tự nhiên, chẳng khách sáo, nhưng chừa lại 4 bát thức ăn, không đụng đũa tới. Kế Trường lấy làm lạ mà hỏi:"Sao Các Chị không dùng mấy món này?" Khách nhìn nhau mỉm cười mà đáp:"Bữa trước phu nhân nói chúng tôi ăn uống thô tục, bát đĩa sạch trơn như chó liếm, nên hôm nay chúng tôi phải chừa lại 4 món, để phần nhà bếp!"

Trong tiệc, Cô Sáu cứ buông lời chọc ghẹo Kế Trường khiến Kế Trường đỏ mặt. Thấy thế, bọn chị em bèn đặt ra một luật chơi, gọi là tửu lệnh, hẹn rằng h*ễ ai nói câu gì chọc ghẹo Kế Trường thì bị phạt một chén rượu. Mỗi cô đều bị phạt một vài chén, riêng Cô Sáu thì bị phạt tới 12 chén. Vì thế, Cô Sáu say lảo đảo, mặt đỏ gay, phải giả vờ đi rửa mặt rồi xuống bếp kiếm chỗ ngả lưng.

Chờ mãi không thấy cô Sáu trở lại bàn tiệc, Kế Trường bèn thắp đèn đi tìm. Xuống bếp, thấy Cô Sáu nằm ngủ ở xó bếp, tay nắm chặt chiếc khăn lụa mỏng, Kế Trường vội cúi xuống gỡ trộm chiếc khăn, cất vào túi, rồi trở lên bàn tiệc mà nói:"Chị Sáu say quá, đang nằm ngủ ở dưới bếp, xin cứ để yên cho chị ấy ngủ!"

Đêm ấy, bữa tiệc kéo dài đến gần sáng. Lúc tiệc tan, thấy 5 chị lớn đã sửa soạn ra về mà Chị Sáu vẫn chưa trở lên phòng tiệc, Cô Bảy chạy xuống bếp đánh thức. Cô Sáu dụi mắt, uể oải vươn vai, nhưng vẫn còn nằm ngái ngủ, chưa chịu dậy. Cô Bảy phải giục mãi, cô Sáu mới chịu dậy để lên nhà trên, cùng 5 chị lớn ra về. Lần này, cô Bảy bảo Kế Trường đi ti*ễn khách. Được lời, Kế Trường liền đi tiễn một quãng thực xa.

Khi trở về, Kế Trường cứ ngẩn ngơ như kẻ mất hồn. Lát sau, Kế Trường lẻn ra vườn sau, móc túi lấy khăn ra coi. Thấy khăn đã mất, Kế Trường vừa kinh hãi vừa tiếc rẻ. Nghĩ mình đánh rớt khăn ở dọc đường. Kế Trường vội thắp đèn đi tìm, nhưng tìm mãi không thấy, đành trở về phòng, mặt mũi buồn so. Thấy Kế Trường buồn, Cô Bảy mỉm cười mà hỏi:"Đi đâu về vậy?" Kế Trường đáp:"Đi đóng cổng!" Hỏi:"Đi đóng cổng thì việc gì mà phải buồn thế?" Đáp:"Có buồn chi đâu?" Nói:"Chối làm chi nữa! Khăn của người ta thì người ta lấy lại rồi, tìm làm chi cho mất công!" Kinh hãi quá, Kế Trường đành thú thực:"Ta mê Chị Sáu lắm!" Cô Bảy nói:"Thiếp biết chứ! Thế nhưng, chị Sáu với chàng hết duyên nợ rồi!" Hỏi:"Sao nàng biết?" Đáp: "Kiếp trước, chàng là nho sinh còn Chị Sáu là con gái nhà nông. Chàng gặp Chị thì mê nhưng cha mẹ chàng không cho chàng cưới. Vì thế, chàng ốm tương tư, nằm liệt giường, phải nhờ người đi báo tin cho Chị hay, xin Chị tới thăm và cho chàng nắm tay một lần để lỡ chàng có thác thì cũng đã toại nguyện. Chị ưng thuận nhưng cứ chần chờ. Đến tối, khi Chị tới thăm chàng thì chàng đã thác. Vì thế, Chị chỉ nợ chàng có một cái nắm tay thôi. Hôm nay chàng đã được nắm tay Chị để gỡ trộm khăn thì Chị hết nợ chàng rồi, 2 người khó lòng mà tiến xa hơn được!"


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/ma14.jpg

Tháng sau, Kế Trường lại đưa tiền cho vợ làm tiệc đãi các chị của Cô Bảy, nhưng lần này, chỉ có 5 cô tới dự còn Cô Sáu không tới. Nghi là Cô Bảy ghen, không cho Cô Sáu tới, Kế Trường rất oán hận. Cô Bảy phân trần: "Thấy Chị Sáu không tới, chàng nghi là thiếp ghen, không cho Chị ấy tới. Thực ra thì tại Chị ấy không muốn tới chứ đâu có phải tại thiếp ghen?" Kế Trường vẫn không tin. Cô Bảy bèn tìm đủ mọi cách cho Kế Trường gặp lại Cô Sáu, nhưng Cô Sáu nhất định không chịu gặp lại Kế Trường. Lúc đó Kế Trường mới bớt nghi cô Bảy.

Tám năm sau.

Một sáng, đột nhiên Cô Bảy nói với Kế Trường: "Chiều nay, thiếp xin vĩnh biệt chàng!" Kế Trường kinh hãi, hỏi:"Sao lại vĩnh biệt?" Đáp:"Vì duyên nợ với chàng đã hết nên thiếp phải về ở với cha mẹ!" Hỏi:"Nàng không thể ở lại đây được nữa hay sao?" Đáp:"Không! Nhưng trước khi vĩnh biệt, thiếp muốn giúp chàng một việc!" Hỏi:"Việc gì?" Đáp:"Việc gặp lại Chị Sáu! Trong 8 năm qua lúc nào chàng cũng nhớ tới Chị Sáu và oán hận thiếp! Bây giờ, thiếp muốn giúp chàng gặp lại Chị Sáu để chàng toại nguyện. Chị Sáu góa chồng, về ở với cha mẹ. Chàng mời Chị ấy tới đây dự tiệc thì Chị ấy có quyền từ chối, nhưng nếu chàng theo thiếp về thăm cha mẹ thiếp thì Chị ấy đâu có quyền cấm cản chàng? Bây giờ chàng cứ đi theo thiếp, biết đâu Chị ấy chẳng đổi ý, chịu ra gặp chàng thì sao? Xưa nay, nhân định thắng thiên cûng nhiều!"

Mừng quá, Kế Trường thuận đi theo Cô Bảy.

Chiều ấy, Cô Bảy vào chào vĩnh biệt Điền thị rồi cùng Kế Trường ra cổng. Cô Bảy vừa nắm tay Kế Trường thì cả 2 cùng bay bổng lên không.

Lát sau, khi đáp xuống cổng nhà Tiêu lão, Kế Trường thấy ngôi nhà vẫn nguyên như cũ. Thấy Tiêu lão cùng phu nhân đứng ở cổng, Kế Trường vội chắp tay vái chào. Nhị vị khẽ gật đầu đáp l*ễ rồi bảo Cô Bảy dẫn Kế Trường vào phòng khách.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Ma/h%20ly%2010.jpg

Sau khi an tọa, phu nhân gọi tì nữ pha trà rồi quay nói với Kế Trường: "Lão thân cám ơn thiếu lang đã cho Con Bảy nhà lão thân được hưởng hạnh phúc với thiếu lang trong 8 năm qua. Vì già yếu, lão thân không tới nhà thiếu lang được lần nào, mong thiếu lang hiểu cho!" Rồi phu nhân quay bảo gia nhân:"Tối nay, bày tiệc rượu cho 5 thực khách!" Gia nhân vâng dạ.

Tối ấy, khi gia nhân bày tiệc xong, phu nhân sai tì nữ thắp đèn rồi mời Tiêu lão, Kế Trường với Cô Bảy nhập tiệc. Cô Bảy hỏi mẹ:"Các chị con đâu? Sao không thấy ai ra dự tiệc?" Phu nhân đáp:"Hôm qua chúng nó kéo nhau về đây đông đủ cả nhưng sáng nay đứa nào cũng theo chồng về rồi! Chỉ còn Con Sáu ở lại đây thôi!"

Rồi phu nhân sai tì nữ vào nhà trong mời Cô Sáu ra dự tiệc. Kế Trường hồi hộp chờ Cô Sáu ra nhưng chờ mãi cũng chẳng thấy đâu! Cô Bảy bèn đứng dậy, chạy vào nhà trong lôi chị ra, kéo ghế ép ngồi, rót rượu ép uống. Đưa mắt nhìn, Kế Trường thấy nét mặt Cô Sáu có vẻ trầm ngâm chứ không được vui như những lần trước.

Rượu được vài tuần, Tiêu lão với phu nhân cùng đứng dậy, nói lời cáo từ rồi vào nhà trong. Còn lại 3 người ở bàn tiệc, Cô Bảy lên tiếng:"Chị cứ khủng khỉnh làm cao để người ta nghi oan cho em mà oán hận em!" Cô Sáu mỉm cười mà nói:"Em thử nghĩ coi! Con người khinh bạc, gỡ trộm khăn tay, thì gần gũi làm chi?" Nghe thấy thế, Kế Trường mới tin là mình đã nghi oan cho Cô Bảy. Đột nhiên cô Bảy đứng dậy, gỡ 2 chén rượu ở tay 2 người, đổi lẫn cho nhau, rồi ép 2 người cạn chén. Thấy 2 người còn e dè, Cô Bảy nói: "Cạn chén đi chứ! Còn ngượng ngập nỗi gì?" Hai người bèn cùng nâng chén, uống cạn. Cô Bảy bèn đứng dậy, đi vào nhà trong.

Thấy trong phòng chỉ còn có Cô Sáu với mình, Kế Trường vội xô ghế đứng dậy, chạy tới nắm lấy cổ tay Cô Sáu.

Đột nhiên, ở phía ngoài phòng có tiếng la hét ầm ĩ rồi có ánh đèn chiếu vào cửa phòng.

Cô Sáu hoảng hốt giựt tay lại, la lên:"Chết rồi! Tai họa tới bất thần, biết làm sao bây giờ?"

Đang luống cuống, chợt Kế Trường thấy Cô Sáu biến đâu mất. Buồn bã, Kế Trường ngồi bệt xuống sàn thì thấy nhà cửa, lầu gác, đèn nến đều biến mất, mình đang ngồi giữa bãi tha ma, chung quanh toàn là đồng ruộng, trên đầu là bầu trời đầy sao.

Chợt Kế Trường thấy từ xa có ánh đèn rọi sáng rồi có một bọn thợ săn chừng hơn chục người, lưng đeo cung, tay cầm đao, ầm ầm chạy tới.

Nhìn thấy Kế Trường, bọn thợ kinh hãi, hỏi:"Anh là ai? Sao đêm khuya lại tới đây mà ngồi?" Kế Trường đáp:"Tôi là một chủ bạ ở Lâm Chuy! Sáng qua tới nhà bạn dự tiệc, đến tối ra về, tôi bị lạc đường nên phải ngồi xuống đây nghỉ chân!" Bọn thợ hỏi:"Tụi tôi đang theo dõi một con chồn. Nó vừa chạy qua đây, anh có nhìn thấy nó không?" Kế Trường đáp:"Tôi không thấy chi cả!"


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/dng%20do%20c.jpg

Đưa mắt nhìn quanh, Kế Trường chợt nhận ra mình đang ngồi cạnh một cổ mộ của gia đình họ Vu. Thấy bọn thợ ra về, Kế Trường cũng đứng dậy, theo về.

Tới nhà, Kế Trường thuật chuyện cho vợ nghe. Điền thị cũng rất kinh ngạc.

Kế Trường thầm mong Cô Bảy trở lại một lần nhưng trước sau Cô Bảy vẫn tuyệt vô âm tín./.

Fangzi sưu tầm theo Ninh-hoa.com

thieugia
02-02-2015, 05:35 PM
Vạn Thạch Sợ Vợ

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0021.jpg

Huyện Đại Danh, tỉnh Hà Bắc, có hai anh em nho sinh họ Dương. Người anh là Dương Vạn Thạch, ngưòi em là Dương Vạn Chung, đều đã có gia đình, và cùng ở chung với cha là Dương ông.

Vạn Thạch 42 tuổi, có vợ họ Duẩn, không có con. Vạn Thạch thì nhu nhược mà Duẩn thị thì hung ác. Thấy chồng làm điều gì trái ý mình là Duẩn thị lấy roi ra đánh, chẳng ai dám can ngăn. Vì không có con, Duẩn thị phải để cho chồng cưới vợ lẽ, người họ Vương. Tuy nhiên, hàng ngày, Vạn Thạch và Vương thị chỉ dám nhìn nhau chứ chẳng dám nói với nhau một lời. Vạn Chung 40 tuổi, có vợ họ Trương và một trai tên Hỉ Nhi, mới lên 7.

Dương ông tuổi ngoại lục tuần, goá vợ, tính hiền lành, bị con dâu trưởng là Duẩn thị coi như lão bộc, hàng ngày bị Duẩn thị bắt làm đủ thứ việc. Dương ông mà làm điều gì trái ý Duẩn thị là bị Duẩn thị phạt, bắt phải nhịn ăn. May là mỗi khi bị phạt, Dương ông còn được Vạn Chung lén lấy cơm cho ăn. Chẳng những thế, Dương ông còn bị Duẩn thị bắt phải mặc quần áo rách. Vì vậy, mỗi khi nhà có khách, Vạn Thạch không dám để cho cha ra tiếp, e bị khách chê cười.

Năm ấy, sắp đến ngày thi, hai anh em lên tỉnh ứng thí. Vào quán trọ thuê phòng, gặp một nho sinh trẻ tuổi, mặt mũi sáng sủa, y phục chỉnh tề, hai anh em liền tới làm quen. Vạn Thạch hỏi:"Xin túc hạ cho biết quý danh!" Nho sinh đáp: "Đệ họ Mã, tên Giới Phủ" Hỏi:"Xin túc hạ cho biết quý niên tuế!" Đáp:"Đệ 30!" Hỏi:"Chắc túc hạ cũng lên đây ứng thí?" Đáp:"Không! Đệ lên đây có việc, chứ không phải là ứng thí!" Rồi Giới Phủ cũng hỏi tên tuổi, quê quán của hai anh em.
Thấy hai anh em hiền lành, Giới Phủ xin kết nghĩa. Hai anh em ưng thuận. Ba người bèn tới miếu, thắp hương thề nguyền. Vạn Thạch lớn tuổi làm anh cả, Vạn Chung làm anh hai, còn Giới Phủ làm em út.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Nhan_Van_Hieu_Le/bt%20bi.jpg

Hôm hai anh em thi xong, Giới Phủ sang chơi. Lát sau, Giới Phủ nói:"Đệ có việc bận, phải tạm biệt hai huynh! Sáu tháng nữa, đệ sẽ tới nhà thăm hai huynh!" Rồi từ biệt mà đi. Hai anh em ở lại quán trọ chờ ngày yết bảng. Đến ngày yết bảng, không thấy tên mình, hai anh em bèn trả phòng, về quê.

Sáu tháng sau, đúng hẹn, Giới Phủ tới thăm. Thấy ở cổng có một ông lão cởi trần, ngồi lần gấu áo bắt rận, Giới Phủ tới gần, nói:"Tiểu sinh họ Mã, tên Giới Phủ, có kết nghîa với hai nho sinh họ Dương trong nhà này. Nhờ lão ông vào nói giùm là có tiểu sinh tới thăm!" Dương ông liền đứng dậy, ôm chiếc áo, lững thững vào nhà. Chợt thấy một người hàng xóm chạy sang cổng nói chuyện với mình, Giới Phủ hỏi thăm xem ông lão vừa ngồi ở cổng là ai? Được biết ông lão đó chính là thân phụ của hai anh em họ Dương, Giới Phủ giật mình kinh ngạc.

Thấy cha vào nói là có Giới Phủ tới thăm, hai anh em họ Dương mừng lắm, chẳng kịp chít khăn đội mũ, cứ để đầu trần chạy ra đón khách. Sau khi vào nhà, Giới Phủ nói:"Xin hai huynh cho đệ được vào thăm lão bá!" Vạn Thạch vội gạt đi, nói:"Gia phụ bị bệnh, đang nằm trong phòng, rất sợ người vào thăm, xin hiền đệ mi*ễn cho!" Ba người bèn ngồi đàm đạo, từ sáng đến chiều. Khi nhìn ra sân, thấy trời đã tối, Vạn Thạch bèn gọi tì nữ dọn cơm mời khách. Hơn một giờ sau, mới có một tì nữ cầm một bình rượu với ba cái chén vào phòng. Vạn Thạch rót rượu mời khách. Mới rót được lưng chén đã thấy bình hết rượu, Vạn Thạch ngượng quá, biết là vợ cố tình hạ nhục mình. Chờ mãi chẳng thấy ai bưng cơm lên, Vạn Thạch nóng ruột lắm, chạy xuống bếp giục, rồi lại chạy lên phòng khách, mồ hôi ướt đẫm. Lại hơn một giờ sau, mới có một tì nữ bưng cơm canh vào phòng. Vạn Thạch vội mời Giới Phủ dùng cơm. Đang đói, Giới Phủ ngồi vào ăn ngay, nhưng vì cơm hẩm canh sống, Giới Phủ chẳng sao nuốt nổi. Vạn Thạch ngượng lắm, lại vào nhà trong. Thấy thế, Vạn Chung đành phải ngồi lại tiếp khách rồi đi lấy chăn gối đem ra cho khách nằm nói chuyện với mình.

Giới Phủ trách Vạn Chung:"Trước kia khi mới gặp, đệ cứ nghî hai huynh là người cao nghĩa nên mới xin kết làm anh em. Nào ngờ hai huynh đối xử với lão bá chẳng ra gì, đệ thấy xấu hổ quá!" Vạn Chung ứa nước mắt, nói:"Xin hiền đệ chớ hiểu lầm là chúng huynh bất hiếu! Đáng lẽ ngu huynh phải giấu kín câu chuyện xấu xa trong gia đình, nhưng vì hiền đệ là chỗ thân tình nên ngu huynh xin nói thực! Nhà ngu huynh vô phước lắm! Gia huynh thì nhu nhược, sợ vợ, mà gia tẩu lại hung ác, bắt nạt chồng. Gia huynh để vợ nắm hết quyền uy trong nhà, rồi khi thấy vợ ngược đãi cha, cũng chẳng dám nói lấy một lời!" Giới Phủ nói:"Đại huynh sợ vợ đã đành nhưng còn huynh, sao huynh cũng hèn thế?" Vạn Chung xấu hổ, chẳng biết trả lời ra sao. Giới Phủ giận lắm, nói:"Đáng lẽ đệ định sáng mai sẽ xin cáo biệt nhưng nay được biết chuyện này thì đệ lại đổi ý, muốn xin ở lại để xem vợ đại huynh hung ác tới mức độ nào? Xin quý huynh cho đệ ở lại thêm ít ngày, đệ tự lo lấy cơm nước, chẳng dám làm phiền quý huynh đâu!" Vạn Chung nói:"Được hiền đệ ở lại chơi, ngu huynh mừng lắm! Sáng mai, ngu huynh sẽ xin dọn phòng riêng để hiền đệ ở tạm!" Thầm nghĩ hồi chiều Giới Phủ chỉ được ăn có một chén cơm nên chắc còn đói, Vạn Chung bèn đứng dậy xuống bếp, lén lấy cơm và thức ăn đem lên mời Giới Phủ, nhưng trong lòng vẫn sợ chị dâu biết. Giới Phủ đoán Vạn Chung sợ hãi nên từ chối, bảo đem cơm và thức ăn xuống bếp trả lại.

Sáng sau, Vạn Chung dọn một phòng riêng, mời Giới Phủ vào ở. Giới Phủ bèn đi chợ, mua thực phẩm và vải vóc đem về phòng nấu ăn và may quần áo. Đến trưa, Giới Phủ ra cổng mời Dương ông vào ăn cơm với mình rồi biếu Dương ông hai bộ quần áo mới. Cảm động, Dương ông ứa nước mắt mà cám ơn. Biết chuyện, hai anh em bật khóc vì xấu hổ. Đến tối, Giới Phủ mời Dương ông vào ngủ ở phòng mình. Vì Hỉ Nhi quen ngủ với ông nên Giới Phủ cũng cho vào ở. Xem tướng Hỉ Nhi, Giới Phủ nói với Dương ông:"Thằng nhỏ này khá hơn cha nó, song nó sớm mồ côi cha và thiếu thời rất vất vả!". Nghe nói Dương ông được ấm no, Duẩn thị tức giận lắm, lên tiếng chửi Giới Phủ là khách lạ, tự nhiên tới nhà người ta, xen vào chuyện gia đình người ta! Thoạt tiên, Duẩn thị còn kiêng nể, chỉ lén chửi Giới Phủ trong phòng mình, nhưng sau thấy Giới Phủ chẳng nói chi nên được thể, tới đứng ở ngoài cửa phòng Giới Phủ mà mắng chửi, cố ý cho Giới Phủ nghe thấy. Hai anh em sợ toát mồ hôi, nhưng chẳng ai dám chạy ra can, còn Giới Phủ thì cứ thản nhiên như chẳng nghe thấy gì.

Hôm sau, biết Vương thị đã có thai được 5 tháng, Duẩn thị nổi cơn ghen, vào phòng tra hỏi, rồi lột truồng Vương thị ra mà đánh, khiến Vương thị phải lăn lộn dưới đất. Duẩn thị lại gọi chồng vào, bắt phải quỳ xuống cạnh giường, lấy khăn yếm của Vương thị mà mặc vào người, giả làm đàn bà. Sợ vợ quá, Vạn Thạch phải mặc khăn yếm của Vương thị. Sẵn roi trong tay, Duẩn thị lại quất túi bụi lên người chồng, rồi đuổi ra đường. Sợ vợ quá, Vạn Thạch phải đứng dậy, chạy ra cổng. Tới cổng, thấy Giới Phủ đang đứng ở ngoài đường, Vạn Thạch ngượng quá, chẳng dám ra. Duẩn thị đuổi theo, thấy chồng chưa ra đường, lại giơ roi quất túi bụi. Bất đắc dî, Vạn Thạch phải chạy ra đường. Đang cơn ghen, Duẩn thị lại đuổi theo, khoa tay dậm chân mà chửi rủa.

Thấy chuyện ồn ào, khách qua đường dừng chân đứng coi, đông như kiến. Mắt thấy cảnh tượng này, Giới Phủ tức giận lắm, rảo bước tới gần Duẩn thị, đưa tay chỉ vào mặt mà quát:"Cút vào nhà ngay!" Đột nhiên Duẩn thị khựng lại, im bặt tiếng chửi, mặt mũi tái xanh. rồi quay phắt người, chạy vụt vào nhà, áo quần xốc xếch, tuột cả giày dép. Bị vấp phải đá, Duẩn thị ngã sấp xuống đất. Mặt xám như tro, Duẩn thị lật đật đứng dậy, lết vào phòng, đóng chặt cửa. Lát sau, Duẩn thị mới dám lên tiếng gọi lũ tì nữ đem áo quần, giày dép mới vào phòng cho mình thay. Đột nhiên, Duẩn thị ngồi xuống giường, bưng mặt khóc. Thấy vậy, lũ tì nữ cũng chỉ đứng nhìn chứ chẳng ai dám hỏi nguyên do.

Giới Phủ dắt Vạn Thạch về phòng mình, đưa tay cởi khăn yếm ra cho nhưng Vạn Thạch co dúm người lại, chẳng chịu cho cởi. Giới Phủ nói:"Sao huynh hèn thế? Sợ vợ, chịu mặc khăn yếm đàn bà đã là hèn! Mặc khăn yếm rồi mà vẫn còn sợ, chịu chạy ra đường cho thiên hạ nhìn thấy thì lại hèn hơn! Đã khuất mặt vợ, mà vẫn còn sợ, chịu mặc nguyên khăn yếm thì hèn quá lắm!" Xấu hổ quá, Vạn Thạch đành tự tay cởi khăn yếm ra nhưng trong lòng vẫn còn nơm nớp, chỉ sợ nếu vợ biết được thì tội nặng thêm. Chờ một lúc lâu, Vạn Thạch mới dám xuống bếp hỏi lũ tì nữ xem vợ mình đang làm chi ở trên phòng. Thấy lũ tì nữ nói bà chủ đang khóc, Vạn Thạch vội bảo chúng lên coi xem vợ mình đã nín chưa. Lũ tì nữ lên coi rồi xuống nói là bà chủ đã nín, đang nằm trên giường. Vạn Thạch bèn dón dén lên phòng, nhưng chẳng dám lên tiếng, sợ lại bị vợ chửi rủa về tội dám tự tiện cởi bỏ khăn yếm, rồi lại bị đánh đập. Chẳng ngờ thấy vợ làm ngơ, chẳng chửi rủa đánh đập mình, chỉ quay mặt vào tường mà ngủ, Vạn Thạch mừng quá, vội chạy ra ngoài, khẽ khép cửa lại, rồi thuật chuyện cho mọi người nghe.


Còn nữa...

thieugia
03-02-2015, 11:17 AM
Vạn Thạch Sợ Vợ

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0018.jpg

Tiếp theo.

Lũ gia nhân thấy Giới Phủ đã khiến Duẩn thị phải thay đổi thái độ đối với chồng, đều lấy làm lạ, xúm nhau bàn tán.

Lát sau, Duẩn thị ngủ dậy. Xuống bếp, thấy lũ gia nhân đang túm năm tụm ba, Duẩn thị đoán rằng chúng đang bàn tán về mình, nên nổi giận, lấy roi vụt chúng túi bụi. Chúng bỏ chạy tán loạn. Đang cơn giận, Duẩn thị gọi Vương thị ra trình diện. Vì bị đánh trọng thương, Vương thị nằm liệt trên giường, chẳng sao ngồi dậy để ra trình diện nên bị Duẩn thị chạy vào phòng, lấy roi quất túi bụi lên người cho đến lúc truỵ thai. Nghe tin, Vạn Thạch thương xót lắm, song chẳng dám chạy vào can, chỉ tới phòng Giới Phủ than thở. Giới Phủ lắc đầu chán ngán, nói: "Huynh đã hèn đến mức độ này thì đâu còn phải là con người nữa?" Nói xong, Giới Phủ lại thương hại Vạn Thạch, nên lấy cơm ra cho ăn, nhưng không cho về phòng. Tới tối, Vạn Thạch xin được về phòng thì Giới Phủ không nghe, bắt phải ngủ lại ở phòng mình. Thấy Vạn Thạch buồn rầu, Giới Phủ cũng thương hại, bèn lấy đàn ra gảy, cất tiếng hát cho nghe.

Nằm trong phòng, thấy trời đã tối mà chẳng thấy chồng đâu, Duẩn thị hận lắm, nên ngồi dậy, ra mở cửa phòng để xuống bếp sai lũ tì nữ đi gọi Vạn Thạch về. Vừa mở cửa phòng, Duẩn thị giật mình vì thấy một khổng lồ, mặt mũi dữ tợn, đứng sững trước cửa. Nghĩ là kẻ cướp, Duẩn thị cực kỳ kinh khiếp, la lên cầu cứu. Khổng lồ liền bước tới gần, rút dao dí vào cổ mà nói:"Mi mà la thêm một tiếng là ta sẽ giết chết mi ngay!" Duẩn thị nín bặt. Rồi chắp tay van lạy:"Xin ông tha mạng cho con! Con xin biếu ông tất cả của cải trong nhà này!" Khổng lồ nói:"Ta đâu có phải là kẻ cướp? Ta là sứ giả của Diêm Vương! Diêm Vương nói mi hung ác, chẳng biết tim mi ra sao, nên sai ta lên đây mổ ngực mi, lấy tim đem xuống âm phủ để trình Diêm Vương coi!" Nghe xong, Duẩn thị co dúm thân hình, xám ngắt mặt mày, xiêu lạc hồn phách. Khổng lồ bèn kể tội Duẩn thị. Cứ kể xong một tội, khổng lồ lại lấy dao rạch vào ngực Duẩn thị một vạch. Kể xong 30 tội, rạch đủ 30 vạch. Rồi Duẩn thị thấy có bốn đàn ông lực lượng, cũng cầm dao, bước vào phòng. Khổng lồ nói:"Tội lớn nhất của mi là tội đánh vợ lẽ của chồng cho đến truỵ thai. Con của Vương thị cũng là con của mi, nối dõi tông đường cho chồng mi, sao mi nỡ giết thai nhi còn trong bụng mẹ? Tội này chẳng thể nào tha thứ được!" Nói xong, khổng lồ quay qua nói với bốn đàn ông:"Hãy giữ chặt lấy chân tay con mụ này để ta mổ ngực nó, lấy tim ra coi xem hình thù ra sao mà nó hung ác đến thế?" Kinh khiếp quá, Duẩn thị lạy lục:"Con biết tội đã nhiều, nay con xin hối cải! Xin Diêm Vương tha mạng cho con!" Bỗng có một giọng nói uy nghiêm từ ngoài cửa vọng vào phòng, tựa hồ như ra lệnh:"Con mụ này đã xin hối cải thì hãy tạm tha mạng cho nó!" Năm người lập tức tuân lệnh, bước ra khỏi phòng. Duẩn thị mừng vô tả, đứng dậy đi tìm vải để bó vết thương trên ngực rồi lên giường nằm.

Lát sau, Giới Phủ nói với Vạn Thạch:"Bây giờ huynh có thể về phòng mà ngủ!" Vạn Thạch mừng quá, vội về phòng. Thấy vợ nằm trên giường, máu đẫm cả đoạn vải bó ngực, Vạn Thạch kinh hãi, hỏi nguyên do. Duẩn thị bèn thuật lại chuyện khổng lồ. Vạn Thạch thầm nghĩ chắc chuyện này là do Giới Phủ làm ra.

Sáng sau, muốn biết điều mình nghî có đúng hay không, Vạn Thạch tới phòng Giới Phủ thuật chuyện. Thấy Giới Phủ cũng tỏ vẻ kinh hãi, Vạn Thạch lại nghĩ là mình đã nghi oan cho Giới Phủ. Từ đó, Duẩn thị không còn hung ác như trước nữa. Giới Phủ cũng mừng cho hai anh em.

Tuần sau, Giới Phủ gọi Vạn Thạch ra chỗ vắng, nói:"Hôm nay đệ phải dời nhà này. Trước khi đi, đệ muốn nói với huynh một chuyện, nhưng huynh phải hứa là sẽ chẳng được tiết lộ với ai! Nếu huynh không giữ được lời hứa thì gia đình này sẽ bị khốn đốn mà huynh thì chẳng còn là con người nữa!" Vạn Thạch vội nói: "Ngu huynh xin hứa là sẽ chẳng bao giờ dám tiết lộ với ai cả!" Giới Phủ bèn nói: "Thú thực với huynh, cái cảnh khổng lồ rạch ngực vợ huynh là do đệ dùng pháp thuật tạo ra, cốt để cho vợ huynh kinh khiếp mà thay tâm đổi tính. Nay vợ huynh đã hối cải thì đệ cũng mừng cho cả gia đình này!" Nói xong, Giới Phủ vào phòng sửa soạn hành trang, rồi ra chào từ biệt mà đi, hẹn sáu tháng sau sẽ trở lại.

Giới Phủ đi rồi, quả nhiên Duẩn thị thay tâm đổi tính. Ban ngày thì nói cười vui vẻ, hoà nhã với mọi người, ban đêm thì dịu dàng âu yếm, l*ễ phép với Vạn Thạch. Vì từ ngày cưới vợ đến nay, chưa bao giờ Vạn Thạch được hưởng cái cảnh hạnh phúc êm đềm như thế nên bây giờ Vạn Thạch xúc động lắm, cứ nhấp nhổm toan tiết lộ với vợ câu chuyện khổng lồ, nhưng vì nhớ tới lời hứa với Giới Phủ nên Vạn Thạch lại cố gắng tự kìm hãm.

Một tối, hai vợ chồng vào phòng ngủ. Đang nằm trên giường, đột nhiên Duẩn thị co dúm người lại, run lên cầm cập, rên lên hừ hừ. Sợ hãi quá, Vạn Thạch hỏi:"Nàng làm sao thế?" Duẩn thị đáp:"Thiếp kinh khiếp quá!" Hỏi:"Vì sao mà kinh khiếp?" Đáp:"Vì thiếp chợt nhớ tới cảnh tượng khổng lồ vào căn phòng này rạch ngực thiếp!" Thương xót vợ, Vạn Thạch quên cả lời hứa với Giới Phủ, bèn tiết lộ cho vợ nghe câu chuyện khổng lồ. Nghe xong, đột nhiên Duẩn thị lại trở nên hung bạo như trước, vùng dậy chửi mắng Vạn Thạch và Giới Phủ ầm ĩ. Biết mình lỡ lời, Vạn Thạch vội quỳ xuống chân giường năn nỉ, xin vợ tha tội cho. Duẩn thị tiếp tục chửi mắng. Tới khuya, khi chửi mắng đã chán miệng, Duẩn thị mới quay đầu nhìn Vạn Thạch quỳ ở chân giường mà nói:"Nếu mi muốn tao tha tội cho mi thì mi phải tự tay cầm dao rạch vào ngực mi đủ 30 vạch như tao đã bị rạch bữa trước! Có thế, cái hận của tao mới tiêu đi cho!" Nói xong, Duẩn thị chạy xuống bếp xách lên một con dao. Nhìn thấy dao, Vạn Thạch cực kỳ kinh hãi, nên vội vùng dậy, vụt chạy khỏi phòng, nhào xuống dưới sân. Duẩn thị cầm dao đuổi theo, khiến chó sủa ầm nhà, gà bay xáo xác, cục ta cục tác, huyên náo một vùng.
Lũ gia nhân vội dậy thắp đèn, đem ra sân coi. Vạn Chung và Dương ông cũng chạy ra coi. Thấy chị dâu đuổi chém anh mình, Vạn Chung chạy xen vào giữa hai người. Bị Vạn Chung cản đường, Duẩn thị đành dừng lại. Đảo mắt nhìn quanh, thấy Dương ông áo quần lành lặn, cơn giận lại bùng lên như lửa gặp dầu, Duẩn thị bèn quăng dao xuống đất, chạy tới tát Dương ông túi bụi. Tát chán tay, Duẩn thị quay ra túm lấy mớ râu cằm Dương ông mà xoắn, rồi giật mạnh cho Dương ông ngã chúi xuống đất. Duẩn thị liền cúi xuống theo, xé rách bộ quần áo Dương ông đang mặc trên người.

Nhìn thấy thế, Vạn Chung uất ức lắm, nên nhặt một viên đá ở sân, ném vào đầu Duẩn thị. Trúng đá, Duẩn thị ngã lăn xuống đất, nằm bất tỉnh. Ngỡ là Duẩn thị đã chết, Vạn Chung nói:"Mỗ giết chết chị dâu thì sẽ bị quan tể kết án tử hình, nhưng mỗ chết để cho cha với anh được sống yên ổn thì mỗ cũng mãn nguyện rồi, chẳng còn ân hận chi nữa!" Nói xong, Vạn Chung lững thững đi ra vườn sau.

Khi cảnh huyên náo đã tạm yên, lũ gia nhân không thấy Vạn Chung đâu, bèn bảo nhau đi tìm. Ra vườn sau cũng chẳng thấy Vạn Chung, chúng kinh ngạc lắm. Chúng bèn chia nhau đi tìm ở khắp mọi nơi trong nhà nhưng vẫn chẳng thấy.
Tình cờ một gia nhân ra vườn sau gánh nước, ngó đầu nhìn xuống giếng, thấy Vạn Chung nằm ở đáy giếng, bèn hô hoán ầm lên. Mọi người cùng đổ xô ra giếng coi. Lũ gia nhân bèn xuống giếng vớt Vạn Chung lên, thì thấy Vạn Chung đã tắt thở. Chúng bèn khiêng xác Vạn Chung vào đặt nằm ở giữa sân.

Được hung tin, Trương thị và Hỷ Nhi cùng ra sân ôm lấy xác Vạn Chung mà gào khóc thảm thiết. Lát sau, Duẩn thị tỉnh dậy. Thấy Vạn Chung đã chết, cơn giận của Duẩn thị cũng nguôi đi. Vạn Thạch bèn sai lũ gia nhân phụ giúp Trương thị để lo việc tống táng cho chồng. Chôn cất cho chồng xong, Trương thị thương Hỷ Nhi, thề chẳng tái giá, ở vậy nuôi con. Thế nhưng Duẩn thị không cho, đem Trương thị đi bán cho một phú ông ở trong huyện làm nàng hầu. Mồ côi cha rồi mất mẹ, suốt ngày Hỉ Nhi bị Duẩn thị đánh đập, hành hạ như kẻ thù. Hỉ Nhi phải làm lụng vất vả, mỗi bữa phải chờ lũ gia nhân ăn xong mới được ăn cơm thừa. Sau 5 tháng, thân hình gày đét, chỉ còn da bọc xương, hơi thở thoi thóp như kẻ hấp hối. Tuy biết thế, song Vạn Thạch cũng chẳng dám xin vợ nhẹ tay cho đứa cháu.

Còn nữa...

thieugia
28-02-2015, 12:05 PM
Vạn Thạch Sợ Vợ

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Trung_hoa/Hoi_hoa/0018.jpg

Tiếp theo.

Đúng nửa năm sau. Một sáng, Giới Phủ lại tới nhà Vạn Thạch. Được lũ gia nhân chạy vào báo, Vạn Thạch vội dặn chúng không được nói cho Duẩn thị biết, rồi ra đón Giới Phủ vào ở trong căn phòng bữa trước.

Nghe nói có Giới Phủ tới chơi, Dương ông vội đến chào. Nhìn thấy Dương ông lại ăn mặc rách rưới, Giới Phủ kinh ngạc quá, hỏi:"Sao lão bá lại lam lũ thế này?" Dương ông bèn thuật hết mọi chuyện đã xảy ra trong sáu tháng vừa qua. Nghe đến chuyện Vạn Chung tự tử chết, Giới Phủ dậm chân kêu:"Trời ơi! Sao nhị huynh lại bạc phước quá thế!" Nghe nói có Giới Phủ tới chơi, Hỉ Nhi cũng chạy đến chào. Chẳng nhận ra Hỉ Nhi là ai, Giới Phủ hỏi:"Ai đây?" Hỉ Nhi đáp:"Chú chẳng nhận ra cháu hay sao? Hỉ Nhi đây mà!" Kinh ngạc quá, Giới Phủ hỏi:"Cháu đó ư? Sao tiều tụy thế?" Hỉ Nhi chưa kịp đáp thì Dương ông đã thuật chuyện Duẩn thị đối xử tàn tệ với Hỉ Nhi.

Dương ông vừa thuật chuyện xong thì Vạn Thạch bước vào phòng. Giới Phủ tức giận, quay nói với Vạn Thạch:"Trước kia đệ có nói rằng huynh chẳng phải là con người, nay quả đúng như thế! Vợ đã hung ác tới mức đó thì phải giết chết ngay đi, chẳng việc chi mà phải sợ! Sao huynh hèn nhát thế? Huynh cam tâm để cho vợ đối xử với cha và cháu tàn tệ tới mức này sao?" Vạn Thạch chẳng đáp được lời nào, chỉ cúi đầu ôm mặt khóc. Duẩn thị rất tinh ý. Thấy chồng vắng mặt, Duẩn thị bèn lấy roi đánh lũ gia nhân để tra hỏi. Chúng đành khai thực là Vạn Thạch tới phòng Giới Phủ. Vì vẫn còn sợ Giới Phủ, Duẩn thị chẳng dám đích thân ra đuổi khách, chỉ sai lũ tì nữ đi gọi chồng về. Vừa về tới phòng, Vạn Thạch liền bị Duẩn thị chạy đến tát túi bụi, bắt phải ra đuổi Giới Phủ đi ngay. Vết tát còn hằn trên má, Vạn Thạch cũng phải nuốt nước mắt mà trở lại phòng Giới Phủ. Giới Phủ hỏi:"Ai tát huynh?" Vạn Thạch đáp:"Nội nhân! Nàng bắt ngu huynh phải tới đây đuổi hiền đệ đi!" Giới Phủ hỏi:"Thế huynh có muốn đuổi đệ đi không?" Vạn Thạch mếu máo, lắc đầu. Giới Phủ nói:"Là gia chủ mà huynh chẳng có chút uy quyền nào, cam tâm nhìn vợ tác yêu tác quái, đánh cha mình, giết em mình, bán em dâu, đày đọa cháu! Thế mà huynh cũng chịu được thì thực là quái đản! Huynh đâu còn phải là con người?" Nghe Giới Phủ nói, Vạn Thạch tỏ vẻ xúc động. Giới Phủ bèn nói tiếp:"Vợ mà hung ác đến thế thì phải đuổi ra khỏi nhà ngay! Nếu chẳng chịu đi thì phải lấy dao mà giết! Đừng có sợ! Đệ chơi thân với quan tể huyện này! Đệ còn chơi thân với cả bốn vị thượng quan ở trên quan tể nữa! Toàn là những quan to, có quyền sinh sát ở trong tay! Đệ bảo đảm với huynh rằng nếu huynh có giết chết vợ thì cũng sẽ chẳng bị tội gì!" Nghe Giới Phủ nói khích, đột nhiên Vạn Thạch hùng hổ chạy về phòng.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thieugia_thivan/So_Vo/21.png

Thấy chồng hùng hổ chạy về, Duẩn thị ngạc nhiên lắm, quát:"Mi làm chi thế?" Nhìn thấy vợ, Vạn Thạch lại run cầm cập, mặt mũi xanh xám, đáp:"Giới Phủ sai ta về đuổi nàng ra khỏi nhà!" Duẩn thị nổi giận nói:"Thằng này giỏi thực! Mi dám nghe lời thằng em kết nghîa, về đây đuổi tao ư? Tao phải đánh cho mi một trận mới được!" Nói xong, Duẩn thị đi tìm roi. Vạn Thạch sợ quá, lại bỏ chạy tới phòng Giới Phủ. Thấy Vạn Thạch mặt mũi xanh xám, người run cầm cập, Giới Phủ giận lắm, nói:"Hèn quá lắm, chẳng còn biết phải trái là gì thì làm sao mà thuyết phục được?" Nói xong, Giới Phủ mở túi hành trang, lấy ra một gói thuốc, hòa vào một chén trà, đưa cho Vạn Thạch, nói:"Đây là thuốc Trượng Phu Tái Tạo! Trước kia đệ chẳng muốn cho huynh uống vì sợ tuy thuốc hay nhưng lại độc, có thể hại tới sức khoẻ của người uống! Thế nhưng, nay thấy huynh hèn nhát quá, đệ chẳng còn cách chi khác, đành phải cho huynh uống thuốc này! Vậy huynh hãy uống ngay đi!" Vạn Thạch bèn đón lấy chén thuốc từ tay Giới Phủ mà uống một hơi.

Lát sau, thuốc ngấm, Vạn Thạch thấy ngực mình nóng ran như lửa đốt. Đột nhiên, Vạn Thạch thấy hận thù vợ vô tả, nên chạy xuống bếp lấy một con dao giắt vào người rồi hùng hục chạy lên phòng vợ. Mắt đỏ ngầu, miệng la hét, Vạn Thạch mắng chửi vợ là mụ đàn bà hung ác. Duẩn thị lấy làm lạ, chưa kịp lên tiếng thì đã bị Vạn Thạch chồm tới vồ như hổ vồ mồi. Duẩn thị vừa né tránh thì bị Vạn Thạch nhanh chân nhảy tới, nắm chặt lấy cánh tay mà đấm vào người như mưa. Tuy thân thể bị bầm tím nhưng Duẩn thị vẫn mắng chửi chồng. Chẳng nói chẳng rằng, Vạn Thạch thò tay vào túi, rút con dao ra. Tuy nhìn thấy dao, nhưng Duẩn thị vẫn tin là chồng chẳng dám giết mình, nên lớn tiếng hỏi:"Mi dám rút dao ra trước mặt tao nhưng mi có dám giết tao không?"Chẳng nói chẳng rằng, Vạn Thạch cầm dao xẻo một miếng thịt đùi Duẩn thị, to bằng bàn tay mà ném xuống đất. Đau đớn quá, Duẩn thị thét lên một tiếng thất thanh, hết sức kinh ngạc về thái độ hung hãn của chồng. Vạn Thạch toan cầm dao xẻo nữa thì Duẩn thị la ầm lên, xin chồng tha cho. Vạn Thạch chẳng nghe, cứ xẻo thêm một miếng. Đau điếng người, Duẩn thị lại thét lên một tiếng thất thanh. Nghe tiếng thét, lũ gia nhân vội chạy lên coi. Thấy dao vấy máu, chúng vội hò nhau ôm lấy Vạn Thạch, lôi ra khỏi phòng. Nghe tiếng thét, Giới Phủ cũng tới coi. Thấy lũ gia nhân lôi Vạn Thạch ra khỏi phòng, Giới Phủ nắm lấy tay Vạn Thạch mà kéo về phòng mình. Đang say máu, Vạn Thạch nói:"Để ngu huynh giết thị đi đã!!" Giới Phủ nói:"Thế là đủ rồi! Giết làm chi?"


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thieugia_thivan/So_Vo/1.jpg

Tới phòng Giới Phủ, Vạn Thạch mệt quá, ngồi phịch xuống ghế, ngủ gà ngủ gật. Đến chiều, hơi thuốc vừa tan, Vạn Thạch tỉnh giấc. Nhớ lại việc làm hồi sáng, Vạn Thạch đâm ra hoảng sợ, mặt mày ủ rũ, mếu máo, nói với Giới Phủ:"Ngu huynh chỉ sợ nội nhân thù ghét thì ngu huynh chết mất!" Giới Phủ lắc đầu chán ngán, nói:"Đừng có hèn nhát như thế! Có uy với vợ hay không là ở cái dịp này đây! Muốn làm cho vợ sợ mình, chẳng phải là chuyện một sớm một chiều! Mỗi ngày, phải cố gắng một chút! Hôm qua, đệ thấy huynh như một con người đã chết, nhưng hôm nay, đệ lại thấy huynh như một xác chết hồi sinh! Từ nay, huynh phải thu hết can đảm mà bỏ cái thói sợ vợ đi! Nếu vẫn còn hèn nhát, chẳng bỏ được thì chẳng có thuốc chi chữa nổi đâu! Bây giờ huynh hãy trở về phòng xem hai vết thương của vợ ra sao và xem vợ đối xử với mình như thế nào! Rồi trở lại đây nói cho đệ biết!" Trở về phòng, Vạn Thạch thấy lũ tì nữ đang săn sóc vết thương cho bà chủ. Thấy chồng trở về, Duẩn thị kinh hãi lắm, lên tiếng trước:"Thiếp xin lỗi chàng về những việc làm hung ác trước kia!" Vạn Thạch vội xua tay, nói:"Chẳng cần phải xin lỗi, cứ nằm yên mà nghỉ!" Vạn Thạch lại tới phòng Giới Phủ mà thuật chuyện. Dương ông và Giới Phủ cùng mừng thầm cho Vạn Thạch.

Ở chơi thêm một tuần, Giới Phủ từ biệt mà đi. Vạn Thạch giữ lại, nói:"Xin hiền đệ ở lại chơi với gia đình ngu huynh thêm ít lâu nữa!" Giới Phủ lắc đầu, nói: "Nay đệ có việc gấp, chẳng thể ở chơi thêm được! Kỳ này, sở dĩ đệ tới đây chơi là vì nhà huynh nằm ngay trên con đường đệ đi Đông Hải! Đệ đã đi sớm hai tuần để ghé vào đây thăm lão bá và hai huynh! Chẳng may nhị huynh đã mất nên đệ không được gặp. Bây giờ gia đạo nhà này đã tạm ổn, đệ mừng cho huynh! Sang năm, trên đường từ Đông Hải về nhà, thế nào đệ cũng sẽ ghé vào đây thăm lão bá và huynh!" Nói xong, Giới Phủ sửa soạn hành trang rồi từ biệt.

Còn nữa...

thieugia
28-02-2015, 12:17 PM
Vạn Thạch Sơn Vợ

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thieugia_thivan/So_Vo/c%20i%20nhn.jpg


Tiếp theo và hết.

Từ hôm Giới Phủ ra đi, Duẩn thị thay đổi hẳn tính nết, vui vẻ hòa nhã với mọi người, âu yếm lễ phép với Vạn Thạch. Bị hai vết thương ở đùi, Duẩn thị phải nằm liệt giường mất hơn một tháng. Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau, Vạn Thạch lại tỏ vẻ sợ vợ. Thấy thế, Duẩn thị lại bắt đầu khinh thường, rồi chế nhạo, mắng chửi chồng. Chẳng bao lâu, Duẩn thị lại hung ác với mọi người như cũ. Vì bị Duẩn thị hành hạ thái quá, Dương ông không chịu nổi, đành bỏ nhà trốn theo một đạo sĩ. Sợ vợ, Vạn Thạch chẳng dám đi tìm cha về. Thấy thế, người làng đều khinh bỉ Vạn Thạch, chẳng ai thèm giao du với.

Hơn một năm sau.Trên đường từ Đông Hải về nhà, Giới Phủ lại ghé thăm Dương ông và Vạn Thạch. Khi biết chuyện Vạn Thạch nhu nhược, lại để cho vợ tác yêu tác quái như cũ, khiến cha phải bỏ nhà trốn đi, Giới Phủ nói với Vạn Thạch:"Vì huynh hèn nhát thái quá nên đệ cũng bó tay, chẳng còn cách chi chữa cho huynh trở lại thành con người được nữa! Đệ chỉ còn có thể giúp huynh một việc là dắt thằng cháu của huynh đi để nuôi nấng dậy dỗ y cho y nên người mà thôi!" Nói xong, Giới Phủ gọi Hỉ Nhi tới, nhấc lên lưng ngựa mà phóng đi.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thieugia_thivan/So_Vo/7.jpg

Năm ấy, vì sợ vợ, suốt ngày chỉ lo bị vợ mắng chửi, Vạn Thạch chẳng học hành chi được, văn chương mỗi ngày một kém. Tuy nhiên, đến mùa thu, khi triều đình mở khoa thi ở Hà Bắc, Vạn Thạch vẫn cứ lên tỉnh ứng thí. Chẳng những bị hỏng thi, Vạn Thạch còn bị quan trường cấm không được ứng thí nữa. Năm năm sau. Vì bất cẩn, không đề phòng củi lửa, ngôi nhà của Vạn Thạch bị cháy thành tro. Lửa cháy lan sang hàng xóm, thiêu rụi mất cả chục ngôi nhà chung quanh. Hàng xóm đi kiện. Quan tể bắt Vạn Thạch phải bồi thường. Vì thế Vạn Thạch phải bán hết ruộng vườn để lấy tiền bồi thường. Gia sản khánh tận, chẳng còn nhà ở, chẳng còn tiền tiêu, Vạn Thạch phải bán hết lũ gia nhân rồi dắt hai vợ tới nhà mấy người quen cũ xin ở nhờ ít lâu, song họ đều từ chối. Duẩn thị bèn bắt Vạn Thạch phải bán nốt Vương thị đi. Vạn Thạch phải vâng lời, bán Vương thị cho một nhà giàu ở trong vùng. Duẩn thị bèn dắt chồng tới nhà mấy người anh em ruột của mình để xin ở nhờ ít lâu song ai cũng từ chối vì ai cũng ghét Duẩn thị. Vạn Thạch bèn dắt Duẩn thị xuống Hà Nam mưu sinh. Tới ranh giới Hà Bắc-Hà Nam, Vạn Thạch cạn tiền. Duẩn thị bèn nói:"Mi đã hết tiền thì tao cũng chẳng muốn làm vợ mi nữa! Mi dắt tao đi như thế này là cốt để cho tao bị chết đói phải không? Hãy đem bán tao ngay cho kẻ có tiền để tao được no ấm mà mi cũng có tiền sinh sống!" Vừa lúc ấy, có một gã đồ tể đi qua. Nghe thấy Duẩn thị nói thế, gã bèn hỏi Vạn Thạch:”Có chịu bán vợ không?” Vạn Thạch gật đầu, nói:”500 quan!” Gã trả giá 300 quan. Vạn Thạch còn đang lưỡng lự thì Duẩn thị đã lên tiếng:”300 quan được rồi! Bán tao đi!” Gã đồ tể bèn mở bọc lấy tiền, đếm 300 quan trả cho Vạn Thạch, rồi dắt Duẩn thị về nhà mình ở gần chùa Phổ Đà.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thieugia_thivan/So_Vo/c%20nhn%202.jpg

Nửa năm sau. Một hôm, Duẩn thị cãi nhau với gã đồ tể. Gã nổi giận, lấy dao mổ trâu khoét thủng đùi Duẩn thị, xuyên dây thép qua, treo ngược lên xà nhà, rồi gánh thịt trâu ra chợ bán. Đau quá, Duẩn thị la hét ầm ĩ. Nghe tiếng, hàng xóm chạy sang coi. Thấy cảnh tượng ấy, họ liền lấy kìm cắt đứt dây treo, đỡ Duẩn thị xuống, rút giây xuyên đùi ra cho. Duẩn thị đau điếng người, dẫy dụa, la hét thất thanh, khiến dây thép bị đứt, một khúc dây vẫn còn nằm ở trong đùi, chẳng sao lấy ra được. Mấy tháng sau, vết thương ở đùi mới lành. Tuy nhiên, khúc dây còn nằm trong đùi khiến Duẩn thị bị khập khi*ễng. Thỉnh thoảng trở trời, đùi lại đau ê ẩm. Từ đó, cứ mỗi lần thấy gã đồ tể về tới nhà là Duẩn thị lại kinh khiếp. Gã bắt Duẩn thị phải hầu hạ phục dịch gã suốt ngày đêm, hơi trễ* nải một chút là bị đòn vọt, chửi rủa. Gã có tật nghiện rượu. Cứ mỗi lần gã đi uống rượu về là gã lại chửi rủa đánh đập Duẩn thị tàn nhẫn. Bị hành hạ hết ngày này qua ngày khác, Duẩn thị gày gò ốm yếu, chỉ còn da bọc xương. Lúc đó Duẩn thị mới nghĩ trước kia mình hành hạ người khác thì chắc họ cũng cảm thấy bị khốn khổ như mình bây giờ.

Vạn Thạch dùng 300 quan tiền bán vợ làm tiền ăn dọc đường để tiếp tục đi sâu xuống Hà Nam. Chẳng bao lâu, số tiền này cũng hết. Tới đâu, Vạn Thạch cũng xin việc làm, nhưng chẳng được ai mướn, nên đành phải hành khất ở dọc đường. Một hôm, đang hành khất, tình cờ trông thấy cổng một dinh thự sang trọng, Vạn Thạch bèn tới xin cơm. Bị người canh cổng đuổi đi, Vạn Thạch toan đi, song vì đói quá, chẳng đi được nữa, đành phải ngồi lì ở ngoài cổng. Lát sau, thấy một vị quan từ trong cổng bước ra đường, Vạn Thạch liền lên tiếng:"Xin đại quan bố thí cho kẻ nghèo khó này một miếng cơm!" Nghe thấy tiếng quen quen, vị quan đứng lại nhìn, rồi hỏi:"Ông lão này tên họ là chi? Quê quán ở đâu?" Vạn Thạch đáp:"Thưa đại quan, kẻ nghèo khó này họ Dương, tên Vạn Thạch, quê ở huyện Đại Danh, tỉnh Hà Bắc!" Vị quan giật mình kinh hãi, nói: "Trời ơi! Bác đấy ư? Cháu là Hỉ Nhi đây! Tại sao bác lại bị cùng khốn đến thế này?" Nhận ra vị quan là Hỉ Nhi, Vạn Thạch bất giác oà lên khóc. Hỉ Nhi bèn cúi xuống nâng Vạn Thạch đứng dậy, dắt vào nhà. Tới phòng khách, thấy đồ đạc sang trọng, hoành phi câu đối đều dát vàng nạm ngọc, Vạn Thạch kinh ngạc quá. Hỉ Nhi mời Vạn Thạch ngồi, sai gia nhân pha trà mời uống rồi dọn cơm ruợu mời ăn. Hỉ Nhi ngồi tiếp bác ăn uống. Xong bữa, Hỉ Nhi đứng dậy, đi vào phòng trong. Lát sau, thấy một ông lão tóc bạc lưng còng, một tay vịn vai tiểu đồng, một tay chống gậy, bước ra phòng khách, Vạn Thạch nhận ra ngay ông lão là cha mình.

Hai cha con nhìn nhau nghẹn ngào, chẳng nói được lời nào. Lát sau, Dương ông mới hỏi Vạn Thạch vì đâu mà nên nỗi khốn khổ như thế? Vạn Thạch bèn kể lể cho cha nghe đầu đuôi sự tình, kể từ lúc nhà bị cháy cho tới bây giờ. Vạn Thạch vừa kể xong thì thấy Hỉ Nhi dẫn một nữ lang từ phòng trong bước ra phòng khách, mà nói với mình:”Nay cháu xin đem vợ cháu ra đây để chào bác!" Nữ lang cúi đầu chào Vạn Thạch. Vạn Thạch đáp lễ. Vạn Thạch hỏi Hỉ Nhi:”Làm thế nào mà cháu được vinh hiển như thế này?" Hỉ Nhi đáp:"Hôm chú Giới Phủ tới nhà bác chở cháu đi, chú ấy đưa cháu xuống đây, thuê nhà cho ở. Mấy hôm sau, chú ấy tìm ra chỗ ở của ông nội cháu, bèn đến đón ông về ở chung với cháu. Sau đó, chú ấy mời một thầy đồ về ở trong nhà để dạy cháu học. Học được một năm, cháu thi đậu vào trường huyện. Năm sau, cháu đi thi hương, đậu cử nhân, được triều đình bổ nhậm về đây làm quan. Cháu có trở về Hà Bắc tìm tới nhà phú ông để chuộc mẹ cháu ra nhưng mẹ cháu từ chối, nói rằng mẹ cháu đã quen cảnh sống ở nhà phú ông rồi, chẳng muốn thay đổi nữa. Mẹ cháu chỉ khuyên cháu nên ăn ở cho có phúc đức. Cháu được triều đình cho ở dinh thự này. Chú Giới Phủ mới tìm chỗ hỏi vợ cho cháu!" Vạn Thạch hỏi:”Bây giờ chú Giới Phủ ở đâu?" Hỉ Nhi đáp:"Thưa bác, cháu không được biết! Cưới vợ cho cháu xong, chú ấy từ biệt mà đi. Ông nội cháu và cháu giữ thế nào chú ấy cũng không chịu ở lại. Thấy cháu cứ năn nỉ mãi, chú ấy mới nói:"Thôi đừng năn nỉ nữa! Để chú nói thực cho mà nghe! Nguyên chú không phải là người mà là chồn đã thành tiên. Chú đã hẹn với bạn bè cùng nhau trở về tiên cảnh rồi!" Nói xong, chú ấy nhất định từ biệt mà đi!". Hỉ Nhi bèn gọi gia nhân lên, sai đi dọn một phòng riêng cho Vạn Thạch ở. Nghĩ tới bác gái Vương thị trước kia cũng bị Duẩn thị hành hạ khổ sở, Hỉ Nhi cảm thương, bèn sai người đi dò la tin tức. Khi tìm ra được chỗ ở của Vương thị, Hỉ Nhi sai gia nhân đem tiền bạc ngựa xe đến chuộc Vương thị về cho Vạn Thạch. Hơn một năm sau, Vương thị sanh được một bé trai.

Một hôm, vợ Hỉ Nhi cùng Vương thị đi l*ễ Phật ở chùa Phổ Đà, có một toán lính theo hầu. Toán lính đi lùa đám đàn bà con gái cư ngụ quanh vùng tới chùa để đón chào Vương thị và vợ Hỉ Nhi. Duẩn thị cũng bị lùa vào đám đó. Vương thị đi hỏi thăm từng người trong đám. Sắp đến lượt mình được hỏi thăm, Duẩn thị nhận ra Vương thị thì xấu hổ quá, giật lùi lại đằng sau, toan lẩn trốn. Thấy thế, toán lính quát thét Duẩn thị, bắt phải tiến lên rập đầu lạy Vương thị và vợ Hỉ Nhi. Nhận ra Duẩn thị, Vương thị mỉm cười, hỏi toán lính:"Người đàn bà này là ai?" Toán lính đáp:"Là vợ gã đồ tể ở gần chùa!". Vương thị cười, nói:"Vợ đồ tể thì thiếu chi thịt ăn, mà sao lại gầy thế?" Mọi người có mặt trong chùa đều bưng miệng cười.
Bị Vương thị làm nhục ở giữa chùa, Duẩn thị uất ức lắm, nên khi về tới nhà, Duẩn thị treo cổ lên xà nhà tự ải. Dây treo bị đứt, Duẩn thị rớt xuống sàn nhà, chỉ bị đau chứ không chết. Gã đồ tể biết chuyện, càng thù ghét, chửi rủa đánh đập Duẩn thị tàn nhẫn hơn. Năm sau, gã đồ tể bị bệnh nặng rồi chết. Sau khi chôn cất cho gã, Duẩn thị phải bán rẻ căn nhà của gã để lấy tiền ăn tiêu, lên ngủ nhờ ỏ hành lang nhà chùa. Ít lâu sau, tiêu hết tiền bán nhà, Duẩn thị lại phải theo đám hành khất trong vùng đi ăn xin.

Một hôm, gặp Vạn Thạch với đám gia nhân đi ở dọc đường, Duẩn thị rập đầu van lạy Vạn Thạch, nước mắt như mưa. Vì có mặt đám gia nhân, Vạn Thạch chỉ dám móc túi lấy tiền bố thí cho Duẩn thị, chứ chẳng dám đứng lại chuyện trò. Về nhà, Vạn Thạch nói với Hỉ Nhi cho Duẩn thị về cư ngụ với mình nhưng Hỉ Nhi nhất quyết chẳng nghe. Không làm sao được, Vạn Thạch đành chỉ lén lút lên hành làng chùa thăm hỏi và bố thí cho Duẩn thị. Biết chuyện, Hỉ Nhi liền sai lính ngầm cho tiền đám hành khất, bảo chúng phải làm nhục Duẩn thị, đuổi khỏi hành lang nhà chùa.

Duẩn thị đành phải bỏ chùa mà đi mất tích, chẳng ai biết là đi đâu.


Hết.

backieuphong
22-12-2015, 04:12 PM
Nhậu với quỷ!

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Nhau_Say/3.jpg

Tùng Lang có ngư phủ Lý Chánh, người chính trực, đạm bạc danh lợi, sống bằng nghề đánh cá qua ngày. Mỗi khi đánh được cá, thường hay mua rượu về tự nhắp. Một hôm đang đánh chén một mình, bỗng nhiên có một người xuất hiện đứng trước cửa. Lý Chánh lên tiếng:

- Các hạ là ai vậy?

Người kia đáp:

- Ta không phải là người mà là quỷ, chết ở dưới sông này đã năm năm, nay thấy ông uống rượu thiếu bạn nên muốn đến làm quen và xin một chén.

Lý Chánh đáp:

- Nếu có hứng thú thì mời các hạ ngồi chung cùng nhắp, làm bạn với rượu, người hay quỷ đều như nhau cả. Quỷ nhận lời mời của Lý Chánh, người và quỷ ngồi trên bàn rượu chè tạc với nhau. Khi rượu hết, quỷ bèn từ giã. Về sau quỷ thường đến uống rượu với Lý Chánh, mối tình nhân quỷ đã trở thành đôi bạn tri giao.

Một hôm quỷ đến gặp Lý Chánh, nói:

- Ngày mai sẽ có người chêt giữa sông, đệ sẽ được đi đầu thai, nay đến giã từ huynh, cầu chúc sức khỏe của huynh được dồi dào, bình an.

Vài ngày sau, Lý Chánh lại thấy người bạn quỷ đến thăm với bộ mặt buồn bã. Lý Chánh hỏi:

- Mấy ngày trước huynh đã nói là đi đầu thai cơ mà, sao hôm nay vẫn còn ở đây?

Quỷ đáp:

- Đúng ra hôm đó có người lái đò bị chết chìm, nhưng người đó mồ côi từ nhỏ, lại phải nuôi thêm một người em dại, thấy mà tội nghiệp, nên lòng đệ không nỡ thấy người chết để mình đi đầu thai. Cho nên hôm nay đến gặp huynh uống rượu giải sầu.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/liu%20trai%20ch%20d%203.jpg

Một tháng sau, người bạn quỷ lại đến từ giã Lý Chánh:

- Ngày mai có một thanh niên đến bơi lội và sẽ chết tại đây, đệ sẽ được đi đầu thai, nay đến từ giã huynh.

Lý Chánh:

- Đệ chúc mừng cho huynh vậy.

Qua vài ngày, trong lúc uống rượu, Lý Chánh lại thấy người bạn quỷ xuất hiện. Lý Chánh hỏi:

- Huynh vẫn chưa được đầu thai hay sao?

Quỷ đáp:

- Số của người đó đúng ra bị chết chìm vào hôm đó, nhưng đệ thấy người đó hãy còn mẹ già phải nuôi, nghĩ đến mà thương hại nên đệ cứu người thanh niên đó.

Lý Chánh:

- Huynh quả là có lòng nhân từ, có ngày sẽ được phúc báo. Huynh không đi đầu thai nhưng đến đây tạc chén cùng đệ cũng vui.

Quỷ nói:

- Ngày mai có một thiếu phụ đến nhảy sông tự tử, đệ sẽ được đi đầu thai, nên đến báo cho huynh hay.

Lý Chánh:

- Đệ cũng mừng cho huynh, mong huynh được đầu thai vào gia đình phú quý.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/liu%20trai%20ch%20d%206.jpg

Qua vài ngày, Lý Chánh lại thấy người bạn quỷ đến nên ngạc nhiên hỏi:

- Ủa, huynh vẫn chưa được đầu thai à?

Quỷ đáp:

- Thiếu phụ nhảy sông là người có chữa, đệ là nam nhi chết còn khổ như vậy, nếu là đàn bà phụ nữ thì lại càng khổ thêm, đệ lại nghĩ đến một mệnh mà chết đến hai người, lòng lại càng không nỡ, nên đệ bỏ ý định đi đầu thai, làm một người bạn quỷ vĩnh viễn cùng huynh.

Lý Chánh:

- Nếu huynh không chê đệ nghèo, bỏ chuyện đời ra ngoài, có rượu thì mình nhắp chung, thì làm người hay làm quỷ cũng không có gì khác biệt cả, huynh nghĩ có đúng không?

Đôi bạn nhân quỷ từ đó lại càng thắm thiết hơn. Một hôm Lý Chánh thấy người bạn quỷ mặc áo cẩm bào đến thăm mình, nên ngạc nhiên hỏi:

- Huynh làm gì mà hôm nay ăn mặc sang trọng đến thế?

Người bạn quỷ đáp:

- Hôm nay đệ đến đây để báo tin mừng và cũng để từ giã huynh. Mừng không phải là đệ được đi đầu thai làm kiếp người mà là làm Thần của sông này. Đức Ngọc Đế xét đệ có lòng nhân từ, chẳng những không nỡ hại người mà còn có lòng cứu người, vì lòng trắc ẩn này nên đệ được Đức Ngọc Đế phong làm Thần.

Backieuphong sưu tầm

trai_xu_doai
22-12-2015, 04:42 PM
Nhậu với quỷ!

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Nhau_Say/3.jpg

Tùng Lang có ngư phủ Lý Chánh, người chính trực, đạm bạc danh lợi, sống bằng nghề đánh cá qua ngày. Mỗi khi đánh được cá, thường hay mua rượu về tự nhắp. Một hôm đang đánh chén một mình, bỗng nhiên có một người xuất hiện đứng trước cửa. Lý Chánh lên tiếng:

- Các hạ là ai vậy?

Người kia đáp:

- Ta không phải là người mà là quỷ, chết ở dưới sông này đã năm năm, nay thấy ông uống rượu thiếu bạn nên muốn đến làm quen và xin một chén.

Lý Chánh đáp:

- Nếu có hứng thú thì mời các hạ ngồi chung cùng nhắp, làm bạn với rượu, người hay quỷ đều như nhau cả. Quỷ nhận lời mời của Lý Chánh, người và quỷ ngồi trên bàn rượu chè tạc với nhau. Khi rượu hết, quỷ bèn từ giã. Về sau quỷ thường đến uống rượu với Lý Chánh, mối tình nhân quỷ đã trở thành đôi bạn tri giao.

Một hôm quỷ đến gặp Lý Chánh, nói:

- Ngày mai sẽ có người chêt giữa sông, đệ sẽ được đi đầu thai, nay đến giã từ huynh, cầu chúc sức khỏe của huynh được dồi dào, bình an.

Vài ngày sau, Lý Chánh lại thấy người bạn quỷ đến thăm với bộ mặt buồn bã. Lý Chánh hỏi:

- Mấy ngày trước huynh đã nói là đi đầu thai cơ mà, sao hôm nay vẫn còn ở đây?

Quỷ đáp:

- Đúng ra hôm đó có người lái đò bị chết chìm, nhưng người đó mồ côi từ nhỏ, lại phải nuôi thêm một người em dại, thấy mà tội nghiệp, nên lòng đệ không nỡ thấy người chết để mình đi đầu thai. Cho nên hôm nay đến gặp huynh uống rượu giải sầu.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/liu%20trai%20ch%20d%203.jpg

Một tháng sau, người bạn quỷ lại đến từ giã Lý Chánh:

- Ngày mai có một thanh niên đến bơi lội và sẽ chết tại đây, đệ sẽ được đi đầu thai, nay đến từ giã huynh.

Lý Chánh:

- Đệ chúc mừng cho huynh vậy.

Qua vài ngày, trong lúc uống rượu, Lý Chánh lại thấy người bạn quỷ xuất hiện. Lý Chánh hỏi:

- Huynh vẫn chưa được đầu thai hay sao?

Quỷ đáp:

- Số của người đó đúng ra bị chết chìm vào hôm đó, nhưng đệ thấy người đó hãy còn mẹ già phải nuôi, nghĩ đến mà thương hại nên đệ cứu người thanh niên đó.

Lý Chánh:

- Huynh quả là có lòng nhân từ, có ngày sẽ được phúc báo. Huynh không đi đầu thai nhưng đến đây tạc chén cùng đệ cũng vui.

Quỷ nói:

- Ngày mai có một thiếu phụ đến nhảy sông tự tử, đệ sẽ được đi đầu thai, nên đến báo cho huynh hay.

Lý Chánh:

- Đệ cũng mừng cho huynh, mong huynh được đầu thai vào gia đình phú quý.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Thanh_Ngu_Co_Su/Lieu_trai/liu%20trai%20ch%20d%206.jpg

Qua vài ngày, Lý Chánh lại thấy người bạn quỷ đến nên ngạc nhiên hỏi:

- Ủa, huynh vẫn chưa được đầu thai à?

Quỷ đáp:

- Thiếu phụ nhảy sông là người có chữa, đệ là nam nhi chết còn khổ như vậy, nếu là đàn bà phụ nữ thì lại càng khổ thêm, đệ lại nghĩ đến một mệnh mà chết đến hai người, lòng lại càng không nỡ, nên đệ bỏ ý định đi đầu thai, làm một người bạn quỷ vĩnh viễn cùng huynh.

Lý Chánh:

- Nếu huynh không chê đệ nghèo, bỏ chuyện đời ra ngoài, có rượu thì mình nhắp chung, thì làm người hay làm quỷ cũng không có gì khác biệt cả, huynh nghĩ có đúng không?

Đôi bạn nhân quỷ từ đó lại càng thắm thiết hơn. Một hôm Lý Chánh thấy người bạn quỷ mặc áo cẩm bào đến thăm mình, nên ngạc nhiên hỏi:

- Huynh làm gì mà hôm nay ăn mặc sang trọng đến thế?

Người bạn quỷ đáp:

- Hôm nay đệ đến đây để báo tin mừng và cũng để từ giã huynh. Mừng không phải là đệ được đi đầu thai làm kiếp người mà là làm Thần của sông này. Đức Ngọc Đế xét đệ có lòng nhân từ, chẳng những không nỡ hại người mà còn có lòng cứu người, vì lòng trắc ẩn này nên đệ được Đức Ngọc Đế phong làm Thần.

Backieuphong sưu tầm

Câu chuyện thật hay về lòng tử tế

Shaolaojia
12-05-2017, 04:31 PM
KỂ CHUYỆN MƠ "PHƯỢT" DƯỚI HOÀNG TUYỀN !

http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Huyen_bi/ma_qui/hc%20bch%20v%20thng%202.jpg

Hôm trước ngủ mớ sao đi "phượt"
Dưới Hoàng tuyền sợ tướt mồ hôi
Khóc kêu... cho phép luân hồi
May sao nghe tiếng: Dậy thôi..., sáng rồi !

Vừa nhập mộng đang ngồi hóng mát
Thấy hai người vừa hát vừa đàn
Người đen mặt ngó rất gian
Trong khi người trắng giọng khàn rất ghê.

Hỏi "Nhị vị người quê đâu tá ?
Tiểu nhân quê rau má xứ Thanh"
Hai người nghe hỏi lanh chanh
Nói quê gần đấy tính danh VÔ THƯỜNG.

Rồi họ kể quê hương Thanh Hóa
Nhòm thế thôi xinh quá trời xinh
Quốc gia xứ ấy địa linh
Non xanh nước biếc hữu tình lắm ku !

Địa danh có sông Chu sông Mã
Cầu Hàm Rồng rồi cả... Tây Đô
Núi Nưa bà Triệu đánh Ngô
Dân ca nổi tiếng hò dzô... ta... hầy.

Xong lại nói "ta đây đi phượt
Các hạ đi một lượt cho vui !"
Còn đang tính kế thoái lui
Thất kinh khi thấy đã chui đường hầm.

Không chủ động nên tâm sầu muộn
Túi không tiền có muốn "phượt" đâu ?
Hoảng hồn gặp lão mặt trâu
Quay đầu Hắc - Bạch chạy đâu mất rồi.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Huyen_bi/ma_qui/qu%20mn%20quan%20ab.jpg

Ngó trước mặt ôi thôi khủng khiếp
"Quỷ môn quan"... hết kiếp thực rồi
Khóc gào nói "Đếch phải tôi
Các ngươi bắt lộn mẹ rồi... thả ra !".

Chợt có lão Diêm La Đại Đế
Quát "Ngậm mồm ! Im để tao tra"
Thưa: Vâng ! Con lạy gia gia
Xin người cứu xét điều tra tỏ tường !

Diêm vương bảo "Quê hương đâu tá ?"
Quýnh quáng thưa "Y Xá thưa ông !" *
Vặn thêm "Phải vợ tên Hồng ?"
Nói câu "Thưa phải... răng ông biết hè !".

Diêm La quát: Dze ! Dze**... biến... biến !
Quỷ mặt trâu nhất phiến mặt xanh
Giống y như thể luống hành
Gặp cơn bạo vũ tanh bành xác xơ.

Thấy sự lạ giả lơ bắt chuyện
Diêm la: "Đông không tiện nói đâu
Tổ cha mấy đứa mặt trâu
Trông hiền vậy chứ ngu lâu biết gì !?

Chúng đâu biết quê mi Thanh Hóa
Tuổi mi nào đà quá một trăm
Vậy mà vác mặt đến thăm
Bắt mi xuống địa phủ nằm... láo hây !".

"Gia ! Minh chứng con đây nào biết
Nãy hỏi thăm chúng tiết lộ đâu ?
Nhất là thằng quỷ mặt trâu
Quát con: Tao đập vỡ đầu... tin ko ?".


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Huyen_bi/ma_qui/qu.jpg

Nói: Số chết đừng hòng có cãi
Mới nghe qua con vãi cả hồn
Âm ty pháp luật thượng tôn
Nên con đâu dám làm ỒN gì đâu.

Diêm La bảo "Mày đầu xanh ngắt
Thấy phụ nhân máy mắt chết gì !
Biết không, sau Quỷ Môn ni
Hoàng tuyền đại lộ có đi không về !".

"Hoa bỉ ngạn đẹp mê hồn phách
Vọng hương đài ma khách dừng chân
Một lần bái vọng hương thân
Uống canh bà Mạnh dương trần lãng quên".

"Đúng... đúng... đúng... mày lên rồi hả ?"
Bẩu "Có đâu nghe tả vậy thôi..."
Diêm La chợt bảo: Mời ngồi !
Bỗng nghe mụ vợ: Dậy thôi, dậy nào !


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Huyen_bi/ma_qui/ma%202.jpg
...

Hôm trước ngủ mơ sao đi "phượt"
Dưới Hoàng tuyền sợ tướt mồ hôi
Khóc kêu... cho phép luân hồi
May sao nghe tiếng: Dậy thôi..., sáng rồi !

Tp.HCM, ngày 11.5.2017
Shaolaojia_Thiều Sơn​
_______________
* Y Xá, tên làng xưa. Nay là thôn Văn Bắc xã Đông Văn, quê hương của Shaolaojia.
** Tiếng miền Nam kêu "dze" tức là lui, lùi. Ý quát quỷ mặt trâu cút đấy... Hic híc.

Nguồn: Bài viết đã được đăng trên trang thơ của dòng họ Thiều VN, địa chỉ truy cập:

http://www.thieugiathivantuyentapluc.com/874-2/