PDA

View Full Version : Truyền thống thượng võ của dân tộc Việt



minh_anh
04-02-2014, 10:05 AM
Từ thuở dựng nước, dân tộc Việt quần cư trên vùng đất không rộng, thường xuyên gánh chịu nhiều thiên tai, lại ở bên cạnh nước láng giềng lớn hơn gấp nhiều lần, luôn tìm cách gây hấn, chèn ép, đe dọa và xâm lấn. Đứng trước sự tồn vong của mình, người Việt buộc phải chung lưng đấu cật, sẵn sàng đương đầu chống giặc ngoại xâm. Trong tư thế và tâm thế như vậy, dân tộc Việt đã sáng tạo một hệ thống chiến đấu đặc dị: lấy đoản binh thắng trường trận, lấy ít thắng nhiều, lấy yếu thắng mạnh.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/vo_thuat_thieu_gia/anh_2013/28.12.2013/dsc01158.jpg
Cơ bản Kiếm pháp của võ thuật Thiều gia

Nói đến truyền thống và tinh thần thượng võ, có không ít sự ngộ nhận. Chúng tôi nhớ có lần dự buổi tổng kết của một võ phái cổ truyền, có cả ngàn người tham dự, một vị giáo sư có tên tuổi lên phát biểu: Ông cha ta vốn trọng văn khinh võ, người Việt vốn không chuộng võ nghệ. Rồi ông dẫn chứng bằng câu: Quan văn cửu phẩm đã sang/Quan võ tứ phẩm còn mang gươm hầu. Lời phát biểu ấy đã gây nên một làn sóng giận dữ. Lý giải sự nhầm lẫn này, võ sư Lê Kim Hòa có ý kiến thật sâu sắc: Xưa nay việc trị nước thuộc văn ban, giữ nước thuộc võ ban. Nếu nước không còn thì lấy gì cai trị? “Mang gươm hầu” ở đây chính là bảo vệ sự an nguy của triều đình, cũng là giữ yên xã tắc.



http://thaicucthieugia.com/images/stories/vo_thuat_thieu_gia/anh_2013/28.12.2013/dsc01156.jpg

Tinh thần thượng võ được hiểu là chuộng nghiệp võ, nghề võ. Mở rộng ra trong ứng xử là thái độ và khí phách hào hiệp. Trong quá khứ, cha ông ta khi đánh thắng kẻ thù, không bao giờ bắt giết tù binh. Sử sách còn ghi chép bao lần tù binh giặc được “trải thảm” thả về để giữ sự hòa hiếu với lân bang. Điều ấy chỉ đúng một nửa, nửa còn lại chính vì dân tộc Việt có đức hiếu sinh, có văn hóa thượng võ không đánh người ngã ngựa. Như thời Lý Thái Tông khi bình Chiêm bắt về hơn 5.000 tù binh, đã ban cho ruộng đất lập thành phường ấp làm ăn. Tinh thần thượng võ ấy đi suốt chiều dài lịch sử của dân tộc.

Trọng việc võ, khuyến khích luyện võ chính là hun đúc dân khí, giữ gìn khí mạch dân tộc. Sách Võ cổ truyền Việt Nam viết: “Người xưa dạy rằng: Tập võ chi Đạo có thể được cường thân, mẫn trí. Một người tập võ thì được cường thân, một nhà tập võ thì được cường tộc. Đường lối võ thuật trước tiên là phải trọng võ đức, muốn có võ đức phải hiểu rõ công lý, muốn hiểu rõ công lý thì phải có học vấn”. Võ thuật không chỉ là loại hình văn hóa vận động mà còn là một hiện tượng văn hóa thần kỳ với những công phu đặc dị, công năng khí công tuyệt kỹ, một hệ thống triết học uyên thâm gắn liền với thuyết âm dương, ngũ hành và dịch lý.

Để hiểu rõ hơn ông cha ta từng chuộng võ, trọng võ như thế nào ta có thể đọc qua trích đoạn: “Kể từ đời tiền Lê (năm 986) nhà nước phong kiến đã chọn lựa những trai tráng khỏe mạnh, biết võ nghệ để bổ sung vào quân ngũ. Năm 1253 triều Trần cho lập Giảng võ đường, một trường rèn luyện võ cho hoàng thân quốc thích là các võ tướng. Nhờ dạy và học võ, thời Trần đã xuất hiện nhiều danh tướng như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Phạm Ngũ Lão… Chiến công của họ đã làm nên chiến thắng vẻ vang của dân tộc Việt trước quân Nguyên - Mông hung hãn một thời. Dưới thời vua Lê Dụ Tông (năm 1721), trường đào tạo võ đầu tiên cho quảng đại quần chúng gọi là Võ học sở được mở tại kinh thành Thăng Long. Tới thời vua Lê Đại Tông, chúa Trịnh Cương định ra các kỳ thi võ nhằm tuyển chọn nhân tài. Các tạo sĩ (tiến sĩ võ) luôn được trọng dụng. Thời hậu Lê, Võ Miếu cũng đã được xây dựng (năm 1740) để thờ những binh gia nổi tiếng. Đến triều Nguyễn, năm 1835 vua Minh Mạng chuẩn tấu theo kiến nghị của Bộ Lễ cho xây Võ Miếu thờ các danh tướng như Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật… Các tạo sĩ đậu trong các kỳ thi võ cũng được khắc tên lên bia tiến sĩ nhằm tôn vinh”. (Nguồn: Võ cổ truyền Việt Nam).


http://thaicucthieugia.com/images/stories/vo_thuat_thieu_gia/anh_2013/28.12.2013/dsc01189.jpg
Thiều gia Qui Linh sáo của võ phái Thiều gia (ảnh chụp tại công viên Gia Định, Tp. HCM)

Nếu nói võ học qua các đời được chú trọng như vậy tại sao bị mai một thất truyền? Lúc còn sống, PGS-TS Mai Văn Muôn có bài phân tích rất hay. Theo ông, kể từ khi xuất hiện hỏa khí (súng ống) của người phương Tây, bạch khí (gươm đao) đã bị đánh bại. Lại thêm dưới thời thuộc Pháp, nhà cầm quyền đã cấm võ, cấm truyền bá võ một cách ngặt nghèo. Việc sử dụng chữ Hán bị bãi bỏ, chuyển sang dùng chữ quốc ngữ cũng làm bao nhiêu kinh sách võ học bị thất tán. Nhưng võ dân tộc không mất hẳn, vẫn âm thầm chảy trong mạch sống của nhiều dòng tộc và được lưu giữ đến ngày hôm nay.

Sự phục hưng của võ cổ truyền mấy mươi năm qua chính là nhờ tinh thần thượng võ của biết bao người âm thầm cống hiến công sức, không màng lợi danh. Có thể kể như võ sư Lê Kim Hòa, một trong những “kiến trúc sư” chính hoạt động không mệt mỏi gầy dựng phong trào, xây dựng chương trình huấn luyện thống nhất. Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam Trương Quang Trung luôn “đứng mũi chịu sào” ở những thời điểm khó khăn nhất. Võ sư Trương Văn Bảo dù ở chốn “thâm sơn cùng cốc” vẫn tả xung hữu đột, có mặt kịp thời ở những nơi cam go nhất…


http://thaicucthieugia.com/images/stories/vo_thuat_thieu_gia/anh_2013/28.12.2013/dsc01137.jpg
Lớp thái cực Thiều gia tại công viên Gia Định, Tp. HCM

Khôi phục lại hoạt động của võ cổ truyền không chỉ là bảo lưu truyền thống, hoặc đưa ra các sân chơi thể thao quốc tế, dù đó cũng là mục tiêu. Cái chính là làm sống lại tinh thần thượng võ trong mọi tầng lớp, đặc biệt là giới trẻ. Có thể nói không ngoa rằng chính với tinh thần võ sĩ đạo, người Nhật đã ngoan cường đứng lên trong hoang tàn sau chiến tranh. Người Hàn Quốc, Trung Quốc luôn coi võ thuật dân tộc của họ là quốc bảo. “Một ngày nào đó võ cổ truyền có mặt ở học đường, phủ kín các sân trường đại học sẽ là ngày hạnh phúc nhất của những người theo đuổi nghiệp võ như chúng tôi”, đó là những lời nói chân tình, tâm huyết của làng võ cổ truyền mà võ sư Lê Kim Hòa đã thay mặt bộc bạch trong một ngày đầu năm mới.

Cao Thụ
----------------------------------
Minh_anh theo báo Thanh Niên Oline ngày 03/01/2012 00:49

minh_anh
04-02-2014, 10:28 AM
Về vấn đề Thượng Võ, xin được giới thiệu thêm với các bạn bài viết đăng trên diễn đàn Võ thuật.net. Đây là bài trả lời của ông Huỳnh Tuấn Kiệt, chưởng môn Nam Huỳnh Đạo khi có người bàn về việc Trọng Văn Khinh Võ...

Hỏi: Có không ít nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng Việt Nam có truyền thống “trọng văn khinh võ”. Ví dụ như trong dân gian có câu: “Quan văn cửu phẩm đã sang/Quan võ tứ phẩm còn mang gươm hầu” phản ánh một phần nào thực trạng đó. Ông có đồng ý với quan niệm này không?


http://thaicucthieugia.com/images/stories/Tat_ca/Vo_lam/Vo_viet/namhuynhdao2010-2.jpg
Võ sư Huỳnh Tuấn Kiệt

Trả lời : Suốt chiều dài hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt đã trải qua bao cuộc chiến khi thì chống ngoại xâm giữ gìn bờ cõi, khi thì giải phóng dân tộc khỏi ách cai trị của ngoại bang. Non sông qua bao thăng trầm còn lưu dấu biết bao võ công hiển hách, sử sách còn đó những chiến thắng oai hùng. Đấu tranh là phương thức tự vệ duy nhất của một dân tộc “đất không rộng, người không đông” khi phải đối phó với những kẻ thù lớn mạnh hơn mình cả chục lần. Nếu dân tộc ta không có một tinh thần thượng võ, và các triều đại không coi trọng nền võ bị, thì chúng ta đâu có một dải giang sơn gấm vóc như ngày hôm nay.

Hỏi: Vậy đâu là đặc trưng của nền võ học Việt Nam? Một môn võ thuần Việt phải có bản sắc như thế nào?

Trả lời: Muốn tìm về nguồn cội võ học dân tộc, phải xuất phát từ nền văn hóa nông nghiệp của nền văn minh lúa nước cổ xưa. Đó là nền văn hóa trọng tĩnh, trong tương quan ngũ hành nó thuộc mộc tính. Cư dân trồng lúa nước thường tính tình hiền hòa, phong tục thuần phác. Do thường xuyên quan sát trời đất, khí hậu để gieo trồng và bảo vệ mùa màng, người Việt cổ đã biết suy luận ra phạm trù âm dương, ngũ hành nhằm giải thích thế giới. Bạn có thể tham khảo “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của viện sĩ Trần Ngọc Thêm. Sự cuồng nộ của thiên nhiên, sự đe dọa của thú dữ và sự xung đột giữa các bộ tộc làm con người thời cổ xưa phải tìm ra các phương pháp chiến đấu để sinh tồn. Nền văn minh rực rỡ Đông Sơn đã để lại những công cụ, vũ khí như trống đồng, rìu đồng, mũi tên đồng… đã minh chứng cho điều đó. Xin dẫn thêm một cứ liệu trong Đại Việt sử ký toàn thư có ghi, việc Thượng hoàng Trần Nhân Tông ngự cung Trùng Quang, vua Anh Tông đến chầu. Thượng hoàng nói: Nhà ta vốn là người hạ bạc, đời đời chuộng dũng cảm, nếp nhà theo nghề võ, nên xăm rồng vào đùi để tỏ là không quên nguồn gốc. Trước đó một hoàng tộc triều Lý đã vượt biển sang Cao Ly, sát cánh cùng triều đình nước này chống quân Mông Cổ, lập nhiều chiến công hiển hách. Người đó chính là Hoa sơn tướng quân Lý Long Tường mà hậu duệ còn đến ngày hôm nay.

Như vậy trải qua các triều Đinh, Lê, Lý, Trần… vua tôi đều coi trọng việc võ. Võ công và văn trị luôn là hai mặt để trị quốc, giữ yên bờ cõi và an dân. Bản sắc của chiến trận và võ học Đại Việt đã được đúc kết thành nguyên lý: lấy đoản binh thắng trường trận, lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều…

Hỏi: Nhưng nền võ học chúng ta không có những trường phái võ thuật lớn như Thiếu Lâm, Võ Đang… của Trung Quốc hoặc tầng lớp võ sĩ đạo chuyên nghiệp như Nhật Bản.

Trả lời: Văn hóa phản ánh sinh hoạt, tinh thần và tư tưởng của một dân tộc. Nó chịu sự chi phối của phong tục, tập quán, địa dư và tâm thức. Truyền thống văn hóa nông nghiệp Việt Nam, trong đó văn hóa làng xã vừa gìn giữ, bảo lưu vừa câu thúc, kìm hãm sự phát triển. Võ học Việt Nam cũng không tránh khỏi quy luật đó. Tuy không có các trường phái võ thuật lớn nhưng ta vẫn có các dòng võ lưu truyền trong các dòng tộc. Việt Nam còn có những vùng đất võ rất đặc trưng như Tây Sơn-Bình Định, Tân Khánh- Bà Trà, võ Kinh ở cố đô Huế, võ Héc ở vùng Thanh Nghệ, vùng đất võ Hà Tây. Hội vật làng Sình, vật Liễu Đôi, đất vật Trà Lũ… là những bằng chứng sống động đời sống thượng võ vẫn còn đến ngày hôm nay. Trong quá khứ khi có chiến chinh, mọi người dân đều khoác áo lính (toàn dân vi binh). Khi dẹp tan giặc thù, người lính về lũy tre làng trở lại làm anh nông dân. Một xã hội thuần nông nghiệp như vậy làm sao sản sinh ra những tầng lớp võ sĩ, hiệp sĩ chuyên nghiệp như những nước khác. Đó cũng là đặc thù của văn hóa Việt Nam.

Hỏi: Tinh thần thượng võ dân tộc ngày nay cần được hiểu và vận dụng như thế nào?

Trả lời: Ngày xưa trong các trận kháng chiến chống Nguyên, Minh, Thanh... sau khi toàn thắng ông cha ta thường vỗ về, trao trả hàng binh. Làm như thế không phải vì ta sợ kẻ địch, mà vì dân tộc ta vốn có đức hiếu sinh, luôn biết “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”. Tinh thần thượng võ dân tộc ấy làm cho kẻ thù phải tâm phục, khẩu phục.

Ngày nay tinh thần thượng võ đặt trong bối cảnh hiện đại là lấy võ thuật làm phương tiện, rèn luyện thân tâm làm cứu cánh. Sự cân bằng và hợp nhất thân tâm của các cá thể trong xã hội sẽ tạo nên sinh lực to lớn cho văn hóa dân tộc. Việt Nam nên nhanh chóng đưa giáo dục võ thuật dân tộc vào học đường và các tổ chức xã hội. Bằng con đường võ thuật, chúng ta có thể thúc đẩy việc cải thiện thể chất nòi giống, nâng cao tinh thần dân tộc…

Xin cảm ơn võ sư.
Phước Thành (thực hiện)

minh_anh
08-02-2014, 08:05 PM
Hỏi: Tinh thần thượng võ dân tộc ngày nay cần được hiểu và vận dụng như thế nào?

Trả lời: Ngày xưa trong các trận kháng chiến chống Nguyên, Minh, Thanh... sau khi toàn thắng ông cha ta thường vỗ về, trao trả hàng binh. Làm như thế không phải vì ta sợ kẻ địch, mà vì dân tộc ta vốn có đức hiếu sinh, luôn biết “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”. Tinh thần thượng võ dân tộc ấy làm cho kẻ thù phải tâm phục, khẩu phục.

Ngày nay tinh thần thượng võ đặt trong bối cảnh hiện đại là lấy võ thuật làm phương tiện, rèn luyện thân tâm làm cứu cánh. Sự cân bằng và hợp nhất thân tâm của các cá thể trong xã hội sẽ tạo nên sinh lực to lớn cho văn hóa dân tộc.

Thầy Kiệt trả lời câu này nghe ra không thuyết phục lắm.