PDA

View Full Version : Vịnh Xuân Quyền



ngochai
18-05-2012, 06:12 PM
Lời bạt

Võ học vốn mênh mông như biển cả, “núi cao còn có núi cao hơn”, các môn các phái nhiều không kể xiết, trong đó Vịnh Xuân Quyền có những bản sắc riêng. Quả thật, những ai yêu thích điện ảnh-võ thuật hành động đều hâm mộ ngôi sao Lý Tiểu Long, vốn xuất thân từ Vịnh Xuân Quyền. Tuy nhiên, chỉ thông qua điện ảnh, chúng ta không thể hiểu rõ được những điểm tinh hoa của môn võ này.

Bên cạnh đó, phải nhìn nhận rõ ràng rằng, Vịnh Xuân có những kỹ thuật chiến đấu-cận chiến thực dụng và hiệu quả. Hiện nay có nhiều nhìn nhận khác nhau về môn phái này, ngochai qua sưu tầm và tìm hiểu, nhận thấy những nội dung được chia sẻ dưới đây có nhiều điểm bổ ích (mang tính chuyên môn) nên tổng hợp và đưa lên diễn đàn. Mong rằng những thông tin này sẽ là nguồn tham khảo hữu ích cho những người yêu võ thuật. Cũng xin lưu ý rằng, các thông tin dưới đây được tổng hợp từ nhiều nguồn và chỉ mang tính tham khảo nhất định.

Trân trọng.

ngochai

--------------------------------------------------

Vịnh Xuân quyền (詠春拳, Wing Chun, ving tsun, Wing Tsun, Wing Chun kuen, Wingchun-kuen) còn được biết đến dưới tên gọi là Vĩnh Xuân quyền (永春拳), Vịnh Xuân Công Phu (詠春功夫) hay Vịnh Xuân phái (詠春派), là một môn võ thuật có nguồn gốc từ Nam Thiếu Lâm tại tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Bên cạnh thiểu số cho rằng rất có thể môn phái đã có lịch sử không dưới 400 năm, hầu hết đều khẳng định nguyên khởi Vịnh Xuân quyền từ phong trào Phản Thanh phục Minh cách đây chừng 2 thế kỷ. Môn phái đã du nhập đến các quốc gia lân cận và phương Tây trong thời hiện đại, sau khi sự thành đạt của Lý Tiểu Long trên màn ảnh những thập niên 70 đã giúp phát dương quang đại hình ảnh môn phái khắp thế giới, đưa Vịnh Xuân quyền từ chỗ chỉ được truyền dạy âm thầm trong các gia tộc trở thành một trong những phái võ thuật được nhiều người biết đến và say mê luyện tập nhất, với hàng triệu đệ tử và hàng chục hệ phái trên toàn thế giới.

Lịch sử và tên gọi của môn phái

Cho đến nay, những cứ liệu lịch sử chính xác về quá trình hình thành, phát triển của môn phái vẫn còn chìm trong mây mù của thời gian. Hầu hết thông tin lịch sử môn phái đều được truyền miệng giữa các đời truyền nhân nên có nhiều khác biệt giữa thực tế và giai thoại mang tính truyền thuyết.

Một trong những thuyết phổ biến nhất do Đại tôn sư Vịnh Xuân Diệp Vấn truyền lại là danh xưng môn phái bắt nguồn từ tên của vị tổ sư môn phái là Nghiêm Vịnh Xuân, con gái của Nghiêm Nhị, học trò của Ngũ Mai lão sư thái. Sau đó Nghiêm Vịnh Xuân truyền lại cho chồng là Lương Bác Trù. Lương Bác Trù sau đó phát triển môn võ và đặt tên là Vịnh Xuân Quyền.

Nhưng có một điểm hầu hết các thuyết đều thống nhất, đó là thời gian ra đời của môn phái nằm trong khoảng giai đoạn phong trào phản Thanh phục Minh ở Hoa lục, cách ngày nay trên dưới 200 năm, đang phát triển rầm rộ. Chi tiết hơn về niên đại, Vương Thái trong Sổ tay Võ thuật còn viết: "Võ phái Vịnh Xuân ra đời gần 2 thế kỷ, vào năm Gia Khánh đời Thanh (1810), thuộc Nam Phái Thiếu Lâm".

Một số học thuyết về lịch sử môn phái đã nhấn mạnh vai trò sáng tổ của các nhân vật có liên quan đến phong trào khởi nghĩa dưới ngọn cờ khôi phục Minh triều thông qua việc chiết tự tên môn phái. Theo đó, chữ Xuân 春 được hiểu bao gồm 3 chữ Đại (大), Thiên (天) và Nhật (日) (ánh sáng bao la khắp gầm trời) ngầm ý chỉ nhà Minh (明), và chữ Vĩnh (永) với ý nghĩa mãi mãi, hoặc chữ Vịnh (詠) có ý nghĩa ca ngợi.

Một thuyết nữa cho rằng môn phái Vĩnh Xuân bắt nguồn từ một cao tăng của chùa Thiếu Lâm là Chí Thiện. Sau khi chùa bị nhà Thanh đốt phá, ông đã trốn xuống phía nam và ở ẩn trong đoàn Hồng Thuyền. Về sau, ông phát triển một kỹ thuật chiến đấu cận chiến đặc biệt, đặt trọng tâm vào tốc độ, xung lực và mượn lực, gần giống Thái Cực Quyền, vận động theo các vòng xoáy và cuốn, nhưng với biên độ nhỏ hơn rất nhiều để tăng cường tốc độ. Hệ thống kỹ thuật mới này được ông gọi là Vĩnh Xuân, theo tên của tòa Vĩnh Xuân điện trong chùa Thiếu Lâm.

Một thuyết khác lại cho rằng, Vịnh Xuân Quyền bắt nguồn từ một người hát kịch và giỏi võ thuật dưới triều Hoàng Đế Ung Chính (1723-1736) tên là Trương Ngũ, tự Than Thủ Ngũ ở Hồ Nam đến Phật Sơn truyền lại môn võ này và rồi truyền từ Than Thủ Ngũ tới Hoàng Hoa Bảo, Lương Nhị Để và Đại Hoa Diện Cẩm (A Cẩm).

Đặc điểm

Bàn về hệ thống kỹ thuật của Vịnh Xuân quyền, trên sự quan sát bề nổi của nhiều người, đó là cảm nhận về một hệ thống khá đơn giản với vài ba bài quyền, một bài côn, một bài đao và một bài mộc nhân thung. Thật hiếm có một võ phái nào khác chỉ dựa trên nền tảng một vài bài quyền và bài binh khí như vậy. Tuy nhiên, Vịnh Xuân quyền không nhấn mạnh vào tính hình thức và do đó rất khó khăn để trở thành một hệ thống để biểu diễn. Các bài quyền không phản ánh tính chất quy ước cho các chiêu thức, phân thế cụ thể từng chiêu tấn công hay phòng thủ (chẳng hạn như một số võ phái dạy đòn thế theo kiểu khi đối phương đấm thì ta đỡ thế nào và phản công ra sao), mà là những nguyên lý tấn công và phòng thủ rất cần sự sáng tạo của môn sinh khi ứng dụng thực chiến.

Theo những võ sư Vịnh Xuân lão luyện, yếu lĩnh tự nhiên tính được đề cao hàng đầu, vì vậy những người cố gắng theo đuổi vẻ đe dọa bên ngoài của động tác sẽ không bao giờ phát triển được trong môn võ này. Kỹ thuật các dòng Vịnh Xuân quyền trên thế giới cho thấy tính chất "đại đồng tiểu dị" với những điểm giống nhau là căn bản, bao gồm trong nó những nguyên lý xuyên suốt khi luyện tập các bài quyền; khái niệm "xả kỷ tòng nhân" (quên mình theo người), "thính kình" (nghe lực), "tâm ứng thủ” (khi đầu óc nghĩ đến một đòn đánh là chân tay thực hiện thành công); hệ thống đòn chân không có đá xoay người hay đá bay; hệ thống thủ pháp nhu nhuyễn nhưng nhanh và mạnh như roi quất; tấn pháp kiềm dương mã tự, xước mã (đạp bộ); công phu niêm thủ, niêm cước, trao đổi thân, niêm côn và đao; và các bài luyện tập trên mộc nhân trang.

ngochai
18-05-2012, 06:16 PM
Quyền pháp

Hệ thống quyền của môn phái theo truyền thống khá đơn giản với ba bài quyền ứng với trình độ môn sinh từ sơ cấp, trung cấp đến cao cấp gồm: Tiểu Niệm Đầu, Tầm kiều và Tiêu chỉ. Khác với chi phái tại Hồng Kông, tại Quảng Đông bài Tiêu chỉ được dạy trước bài Tầm kiều. Nhiều dòng phái Vịnh Xuân hiện nay có chương trình quyền pháp khá khác biệt, với những bài như Thập nhị thức, hệ thống Ngũ hình quyền, Vĩnh xuân quyền (bài quyền), Khí công quyền (còn gọi là Vịnh xuân khí công, Bối khí quy chi), Hạc hình thủ bộ, Tiểu mai hoa, Đại mai hoa v.v. và có thể không có hai bài Tầm kiều, Tiêu chỉ. Tuy nhiên, những bài tập rời với những nguyên lý, kỹ pháp của Tầm kiều, Tiêu chỉ vẫn được truyền dạy như cơ bản công và cơ bản kỹ thuật trong suốt những năm tháng môn sinh đến với Vịnh Xuân quyền.

Kiều thủ - Kỹ pháp đặc trưng

Hệ thống quyền pháp của Vịnh Xuân quyền xuất phát từ Nam Thiếu Lâm tại tỉnh Phúc Kiến mà kỹ pháp đặc trưng của nó là hệ thống Kiều thủ (phát âm theo âm Quảng Đông là Kìu Sẩu) là đoạn xương cánh tay trước từ cổ tay đến cùi chỏ dịch nghĩa sang tiếng Anh là the Bridge Hand Techniques hay the Bridge Arm Techniques.

Hầu hết các võ phái tại miền Nam Trung Hoa bắt đầu từ bờ phía Nam sông Trường giang (Dương Tử Giang) trở xuống, tức là bao gồm các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam, ... đều có nguồn gốc từ ngôi chùa Nam Thiếu Lâm tại tỉnh Phúc Kiến, do vậy các hệ thống kỹ thuật đòn tay đều dùng chữ Kiều và bộ tấn dùng chữ Mã bộ ám chỉ bộ chân di chuyển và gọi tắt là Kiều Mã (Kiều phải chắc chắn, Mã phải vững vàng) do vùng miền Nam Trung Hoa sông nước nhiều và thường đánh nhau trên ghe, thuyền nên phải trụ bộ một chỗ đánh.

Trong Thiếu Lâm Hồng gia thường có câu : Ổn Mã Ngạnh Kiều 穩馬硬橋, Trường Kiều Đại Mã 长橋大馬, Đoản Kiều Tiểu Mã 短橋小馬, tạm dịch là Ngựa Vững Cầu Cứng, Ngựa Lớn Cầu Dài, Ngựa Nhỏ Cầu Ngắn, nghĩa là bộ tấn vững chãi đòn tay rắn chắc, đòn tay dài với bộ tấn rộng thấp, đòn tay ngắn với bộ tấn nhỏ hẹp và cao (Cao Mã).

Về chiến đấu pháp trong Thiếu Lâm Hồng gia lại có câu: Xuyên Kiều Tranh Mã Xích Thân Trửu 穿橋爭馬尺身肘, nghĩa là chủ về lối đánh trụ bộ (một chỗ) cận chiến và nhập nội nhiều hơn, Xuyên Kiều nghĩa là xuyên tay và len tay vượt trên tay đối phương, Tranh Mã nghĩa là phải dùng chân nêm chặt bộ vị (thế tấn) của đối phương, Xích Thân Trửu nghĩa là Thân và Cùi Chỏ (Trửu) phải luôn áp sát đối phương.

Trong Bạch Mi quyền lại có câu chiến đấu pháp: Hữu Kiều – Kiều thượng quá, Mậu Kiều – tự chế Kiều 有橋 – 橋上過 (过), 瞀橋 – 自製橋 nghĩa là có Kiều - (Hữu Kiều) - (gặp Kiều thủ đối phương bắc cầu) thì phải leo lên cầu mà vào nghĩa là gặp tay địch nhân thì phải dùng tay của mình chặn ở trên mà tiến vào mình đối phương (Kiều thượng quá), nếu không có Kiều rõ ràng (2 bên có khoảng cách chưa bên nào ra tay trước) - (Mậu Kiều) - thì phải đưa tay bắc cầu mà vào (tự chế Kiều).

Các bộ quyền của Nam Thiếu Lâm (hay Nam Quyền) thường dùng 2 thế tấn căn bản trong các bài quyền là Tứ Bình Bát Phân (Sei Ping Baat Fahn 四平八分) còn gọi là Tứ Bình Mã (Sei Ping Ma 四平馬) tức là Trung Bình Tấn, và thế tấn thứ hai là Nhị Tự Kiềm Dương Mã (Yee Gee Kim Yeung Ma – Yih Jih Kìhm Yèuhng Máh 二字鈐羊馬 – 二字鈐陽馬) gồm Đại Kiềm Dương Mã 大鈐羊馬 và Tiểu Kiềm Dương Mã 小鈐羊馬.

Trong Nam Quyền (Hồng Gia quyền, Bạch Mi quyền, Vịnh Xuân quyền, Bạch Hạc quyền) thường dùng chữ Kiều Mã 橋馬 để nhấn mạnh tầm quan trọng của Kiều Thủ và Mã Bộ khi giao thủ với đối phương không cho đối phương Niêm Kiều, Triệt Kiều, Phá Mã.

Ba bài đầu tiên (Tiểu Niệm Đầu, Tầm Kiều, Tiêu Chỉ) là những giai trình luyện tập các động tác Kiều thủ căn bản để tiến vào bài Mộc Nhân Trang thi triển hiệu quả các động tác Kiều thủ.

Hệ thống quyền pháp

Về căn bản, Vịnh Xuân có 4 bài quyền cốt lõi.

Ba bài quyền đầu tiên: Tiểu Niệm Đầu, Tầm Kiều, Tiêu Chỉ (Phiêu Chỉ) là những bước căn bản chuẩn bị cho bài Mộc Nhân Trang.

Bài Tiểu Niệm Đầu đưa ra các thế tay (Kiều thủ) căn bản và khái niệm Trung Tâm Tuyến cho nên cũng được coi là bài tập cho môn sinh phép phòng thủ căn bản.

Bài Tầm Kiều đưa ra các thế tay phản công và các đòn chân (Thoái pháp, Cước pháp) và cách thức di chuyển bộ vị khi giao chiến.

Bài Tiêu Chỉ là kỹ thuật nâng cao và chỉ được truyền dạy cho đệ tử trong môn để làm nền tảng cho bài Mộc Nhân Trang.

Ngoài 4 bài quyền, còn có phép luyện tay nghe lực còn gọi là phép thính kình hay phép du đẩy đối phương tựa như phép Thôi Thủ trong Thái Cực quyền, phương pháp này trong các chi lưu Vịnh Xuân Việt Nam thường gọi là Niêm Thủ nhưng hầu hết các chi lưu Vịnh Xuân trên thế giới và tại Trung Quốc, Hong Kong gọi là Li Thủ. Li Thủ gồm có Đơn Li Thủ và Song Li Thủ.

ngochai
18-05-2012, 06:19 PM
Tiểu niệm đầu (Siu Nim Tao 小念頭 )

Khác với các võ phái dựa trên cơ sở căn bản là phải luyện tập vững vàng mã bộ (tấn pháp) và ngoại lực trước khi bắt đầu được truyền dạy những bài quyền đầu tiên, ngay từ những ngày đầu nhập môn Vịnh Xuân quyền, môn đồ đã được truyền dạy Tiểu niệm đầu. Bài quyền này (còn có những tên gọi khác như Tiểu luyện đầu, Tiểu hình ý, Tam bái phật), là căn bản để môn sinh thành thạo những thủ pháp đặc trưng của Vịnh Xuân như than thủ, bàng thủ, cổn thủ, nhật tự xung quyền, khuyên thủ, tán thủ, phục thủ, phách thủ, đấm tam tinh còn gọi là tam xung chùy là thực hiện đấm liên tiếp 3 cái trong một nhịp tấn công v.v. trên một tấn pháp duy nhất từ đầu đến cuối bài là Kiềm dương mã tự, hay nhị tự kiềm dương mã áp dụng ở tư thế chính diện, chính thân, nên còn được gọi là chính thân nhị tự kiềm dương mã. Việc làm quen tấn pháp này với sự kết hợp thủ pháp (các chiêu thức của bài đều xuất phát từ trung tuyến), cho phép môn sinh rút ngắn được thời gian luyện tập bởi ngay từ những ngày đầu đến với môn phái đã được rèn luyện không chỉ mã bộ mà cả các chiêu thức nền tảng.

Lời thiệu (Ca Quyết 歌訣) bài Tiểu niệm đầu theo Diệp Chuẩn và Lương Đĩnh: Cần lưu ý rằng Lương Đĩnh(Lueng Ting)-quyền chưởng môn Lưu phái Vịnh xuân Hồng Công đã có 1 số cải biên về hệ thống quyền pháp của Vịnh Xuân, có thể thấy rõ trong Tiểu Niệm Đầu và Tầm Kiều.

Tầm kiều (Chum Kiu 尋橋 )

Như tên gọi của bài, tầm kiều (tìm cầu) chỉ rõ mục đích bài là tìm cây cầu nối giữa công và thủ, hoặc, tiếp được tay đối phương để từ đó phát hiện sơ hở tấn công. Bài chú trọng luyện chuyển bộ theo bộ pháp xước mã đặc biệt của môn phái với thế tấn trắc thân kiềm dương. Lúc tiến theo thế "đạp bộ" hay còn gọi là "leo núi", chân trước bước kéo chân sau theo, trọng tâm thân thể luôn đặt tại chân sau. Lúc địch thủ tấn công, thế "chuyển mã" dời trung tâm tuyến và dẫn đòn đối thủ vào khoảng không. Đây là lý thuyết "dùng bộ pháp tìm tay (tầm kiều) đối thủ", "dùng eo xoay phá giải đòn công của địch". Bài có ba thế cước: đề thoái, trực đăng thoái và trắc sanh thoái, dùng chân trước để đá, chân vừa đá liền tiến một bước tới để nhập nội liên hoàn đả kích đối thủ. Những đòn tay mới được giới thiệu trong bài là chánh thân vấn thủ, phê tranh, xuyên kiều, trắc thân án thủ, trừu chàng quyền, đàn kiều xung quyền.

Tiêu chỉ (Biu Tze 標指 )

Tiêu chỉ hay Phiêu chỉ (phóng ngón tay) cho thấy tinh thần của bài. Đây là cấp độ tột cùng để chiến đấu tự do, với các ngón tay duỗi thẳng xỉa dẫn đạo linh hoạt thay vì một nắm đấm có tính chất cương mãnh. Bài áp dụng nguyên lý "dĩ công vi thủ" (lấy công làm thủ) và "dĩ đả vi tiêu" (lấy đánh làm hóa giải), "dùng eo phát lực" và "lực quán chỉ". Những kĩ thuật mới là quải tranh, trắc thân vấn thủ, thượng hạ sạn thủ, khuyên cát thủ, thượng hạ canh thủ và bộ pháp khấu bộ. Riêng thế đánh chỏ, chi phái Hồng Kông chỉ có một đòn (chỏ đánh chéo từ trên xuống), sau Diệp Chuẩn thêm hai thế khác: phê trửu (chỏ đánh ngang) và cập chửu (chỏ đánh chéo từ dưới lên) bổ sung từ chi phái Quảng Đông, cho bài một sắc thái đặc biệt linh hoạt.

Mộc Nhân Trang Quyền Pháp (Muk Yan Chon Kuen Faat 木人桩 拳 法)

Ở Việt Nam, đa số các chi lưu Vịnh Xuân đều dịch tên bài quyền này là Mộc Nhân Thung (木人舂). Thật ra tên gọi đúng phải là Mộc Nhân Trang (木人桩), phát âm theo tiếng Quảng Đông là Mụk Yàn Chón, Trang có nghĩa là bày ra, sắp xếp ra mà ý nghĩa của Mộc Nhân là bày sắp ra các Chi (tay chân) trên dưới để tiện cho việc luyện tập, trong khi Thung có nghĩa là cọc gỗ hay trụ gỗ được chôn xuống đất.

Mộc Nhân Thung (木人舂) cũng có tác dụng như Mộc Nhân Trang (木人桩) dùng để luyện tập quyền cước (các món binh khí của tay chân mà võ thuật Trung Hoa gọi là các Thủ Hình), nhưng Mộc Nhân Thung thì không có các phần tay chân (Chi) lắp vào mà đó chỉ là các trụ gỗ chôn xuống đất có bó rơm trên 3 vùng Thượng (trên) - Trung (giữa) - Hạ (dưới) được dùng để luyện tay chân va chạm công phá mà các võ phái miền Nam Trung Hoa và các chi lưu Karate tại Okinawa và Nhật Bản xuất phát từ các võ phái miền Nam Trung Hoa rất ưa chuộng trong các bài tập hàng ngày.

Nếu Mộc Nhân Thung là đặc điểm của võ thuật Trung Hoa tập luyện đánh tay trên các trụ gỗ (Thung) như các trường phái Karate tại Okinawa, thì Mộc Nhân Trang pháp (bài tập với những kỹ pháp đánh trên Mộc Nhân) lại là đặc điểm riêng của một số ít ỏi dòng phái trên lãnh thổ Trung Hoa. Huyền thoại về điều kiện phải chiến thắng 108 mộc nhân để chứng tích võ công trước khi được hạ sơn của các cao tăng Thiếu Lâm tự rất nổi tiếng, các nhà nghiên cứu vẫn không tìm thấy dấu tích của mộc nhân tại Tung Sơn, và mộc nhân trang pháp vẫn là đặc thù của các võ phái Thái Lý Phật, Hắc Hổ Môn ở Hồng Kông, và Vịnh Xuân quyền.

Mộc nhân có cấu tạo đơn giản, là một khúc gỗ đường kính khoảng 30cm-40cm, dài cỡ 1m60 tùy theo chiều cao mỗi người nếu đặt trên giá đỡ (loại sống, động), nếu chôn xuống đất hoặc đặt trên nền đất (loại chết, bất động) thì phần thân ở trên mặt đất của mộc nhân có độ dài tương đương cao độ của người luyện tập. Trên thân có bốn khúc gỗ nhỏ hơn: hai cánh tay trên nằm ngang vai người tập và đưa chéo sang hai bên, cánh tay dưới nằm trên trung tuyến và đưa thẳng ngang bụng. Mộc nhân có một chân bẻ cong, thiết kế nằm ở giữa và ngang đầu gối. Thông thường loại sống được sử dụng nhiều hơn do tính linh hoạt khi chịu lực. Thân của loại sống được treo lên bởi hai thanh ván xỏ xuyên qua trên và dưới hai bên hông của thân. Hai miếng ván đó chịu lực trên hai cây cột trụ chôn hoặc đặt vững trãi trên nền đất hai bên mộc nhân. Khi thân mộc nhân bị đánh, hai miếng ván nêu trên kéo thân trở lại phía trước sau khi thân dội về phía sau và vì vậy, tạo cho thân tính đàn hồi. Một số chi phái Vịnh Xuân, như Triệt Quyền Đạo, đã cải cách mộc nhân theo hướng không sử dụng hai miếng ván và cột trụ nhằm tạo tính động cho mộc nhân mà, thay vào đó, sử dụng lò xo dưới chân.

Bài Mộc Nhân Trang có thể coi là một bài quyền cao cấp của môn phái, chỉ dạy cho các học trò cao cấp. Theo từng dòng phái, các bài Mộc Nhân Thung cũng có ít nhiều sự khác biệt. Bài của các dòng Vịnh Xuân Quyền Việt Nam bao gồm 108 động tác, ngoài số ít các động tác chính thân tách bài thành 5 phần, bài bao gồm phần lớn các động tác lặp lại ở hai bên, có 6 thế cước và 8 thế đánh gối. Bài của chi phái Quảng Đông chia thành 2 phần với hơn 160 động tác, có 5 thế đá (Câu cước, Dịch đăng cước, Nguyệt ảnh cước, Hổ vĩ cước) và 1 thế đánh gối (Tất chàng phúc). Bài của chi phái Diệp Vấn tại Hồng Kông chia thành 10 đoạn với 140 động tác khi được truyền dạy ở Phật Sơn, nhưng khi tới Hồng Kông ông rút xuống còn 108 động tác sau khi bỏ đi một số chiêu thức quá sát thủ, vài năm sau ông lại nâng lên thành 116 động tác chia thành 8 đoạn. Bài có bao gồm tám thế cước (Trực đăng thoái, Hoành sanh thoái, Tà đà tất thoái, Thập tự thoái, Tiệt tảo thoái, Khấu đàn thoái, Tà đà cước thoái, Hoành đà tất thoái). Hiện nay bài Mộc Nhân Trang của Diệp Vấn, tuy hết sức phổ biến trong nhiều chi phái Vịnh Xuân trên toàn thế giới, đã hầu như thất truyền những tuyệt chiêu mà tổ sư đã không truyền dạy.

Nếu mộc nhân là dụng cụ hỗ trợ để môn sinh tập lực, phát kình, tháo lỏng, du đẩy và phá du đẩy thì bài Mộc Nhân Thung giúp môn sinh thực hiện toàn diện chiến lược công thủ phản biến. Trừ một số ít đòn thế áp dụng khi đứng tấn chính thân kiềm dương, hầu hết các chiêu thức của bài được triển khai khi môn sinh chiếm giữ trung tuyến, dùng "tam giác bộ" (bộ pháp tam giác với đỉnh là vị trí của người tập lúc khởi chiêu) di chuyển từ nội môn (phần thân nằm trong hai cánh tay trên) qua ngoại môn (phần ngoài hai cánh tay), tưởng tượng tránh đòn của đối thủ, sau đó tấn công vào bên hông mộc nhân.

ngochai
18-05-2012, 06:22 PM
Hệ thống ngũ hình quyền (Vịnh Xuân Việt Nam)

Hệ thống ngũ hình quyền với 5 con linh thú (Long, Hổ, Báo, Xà, Hạc) nằm trong chương trình luyện tập của một số dòng phái Vịnh Xuân quyền tại Hà Nội, Việt Nam như Vĩnh Xuân Nội gia quyền, Vĩnh Xuân Ngô gia Hoàng pháp và hiện cũng đã được tập luyện tại Thành phố Hồ Chí Minh. Không ai biết chính xác hệ thống này bắt đầu từ khi nào, nhưng chắc chắn nó có nguồn gốc từ Thiếu Lâm Tự. Rất có thể phát xuất từ Bạch Ngọc Phong đời nhà Nguyên Trung Hoa, khi ông nương theo bài La Hán Thập Bát Thủ gồm 18 thế tay của vị phật A La Hán của Thiếu Lâm để chế ra Ngũ Hình quyền gồm các bài quyền dựa theo những con thú nói trên và một bài tổng hợp của 5 con thú.

Sau này, trải qua một tiến trình lịch sử dằng dặc, hệ thống ngũ hình đã được trau truốt, tinh lọc, sửa đổi rất nhiều. Đáng chú ý là sự bổ sung của hệ thống này vào kỹ pháp các dòng phái Vịnh Xuân quyền Việt Nam. Khi nghiên cứu 6 bài quyền (Ngũ hình quyền tổng hợp, Long hình quyền, Hổ hình quyền, Báo hình quyền, Xà hình quyền, Hạc hình quyền), mặc dù đã ít nhiều có sự hòa hợp của hệ thống này so với các công phu Vịnh Xuân quyền truyền thống, người tập vẫn dễ dàng nhận ra một số khác biệt: tính đơn thế và tính chất trường quyền. Lý giải về sự có mặt của ngũ hình quyền pháp trong Vịnh Xuân quyền Việt Nam không ngoài câu trả lời: sư tổ Tế Công là người am hiểu nhiều dòng phái võ thuật Trung Hoa, khi giảng dạy cho các môn sinh tại Việt Nam, dù vẫn nhấn mạnh công phu Vịnh Xuân, ông cũng có sự kết hợp với các dòng phái khác cho phù hợp với thể chất và năng khiếu của mỗi môn đồ. Lý giải điều đó cũng giúp ta nhận ra tại sao các dòng Vịnh Xuân tại Thành phố Hồ Chí Minh có một hệ thống bài quyền khác biệt với miền Bắc, và nhiều võ sư Vịnh Xuân quyền Việt Nam đã phát triển môn phái theo các hướng khác nhau, dù cùng xuất xứ từ tổ sư.

Theo lưu phái Vịnh Xuân quyền tại Phật Sơn, Quảng Đông và Vịnh Xuân quyền từ Diệp Vấn ở Hong Kong thì Vịnh Xuân quyền chỉ có 4 bài quyền gồm: Tiểu Niệm Đầu, Tầm Kiều, Tiêu Chỉ, và Mộc Nhân Trang có 116 chiêu thức trong đó 1/2 bài là lập lại thành ra chỉ có 58 chiêu thức trên thực tế, khác với bài Mộc Nhân Trang của Vịnh Xuân quyền Hà Nội có 108 chiêu thức.

Tương truyền rằng Nguyễn Tế Công đã du nhập hệ thống Ngũ Hình quyền từ Thiếu Lâm vào Vịnh Xuân vì Nguyễn Tế Công đã từng học qua Thiếu Lâm quyền truyền thống, nhưng trong hệ thống Ngũ Hình quyền này từ Nguyễn Tế Công cho thấy không giống Ngũ Hình quyền của Thiếu Lâm. Ngũ Hình quyền là một hệ thống quyền pháp nổi tiếng tại chùa Thiếu Lâm (Tung Sơn, Hà Nam) và tại chùa Nam Thiếu Lâm (Phúc Kiến).
Hệ thống Ngũ Hình quyền tại chùa Nam Thiếu Lâm ở Phúc Kiến còn tồn tại sót lại trong hệ thống quyền pháp của Thiếu Lâm Hồng gia và Bạch Mi quyền rất rõ nét của Thiếu Lâm quyền còn vương lại nhưng cũng không giống hoàn toàn với Ngũ Hình quyền của Thiếu Lâm (Tung Sơn, Hà Nam).

Hệ thống ngũ hình quyền của các dòng phái Vịnh Xuân Quyền Việt Nam bao gồm 6 bài:

1. Ngũ hình quyền tổng hợp: bài được chia thành 5 phần tách biệt ứng với 5 con thú thiêng, bắt đầu từ các chiêu thức tay xà, tiến tới tay long, hổ, báo và kết thúc là tay hạc. Các thế tấn và bộ pháp trong bài hỗ trợ cho thủ pháp. Đây là bài quyền đặc biệt phong phú về chiêu thức, động tác. Phong thái kết hợp cả nhu nhuyễn, chậm rãi đến tốc lực, dương cương.

2. Long hình quyền: Long quyền thuộc thổ, lấy tỳ làm chủ, luyện thần. đặc trưng bởi những thế chộp, vồ (cầm nã thủ), sử dụng bàn tay với các ngón tay xòe mở rộng trong những chiêu thức nhấn mạnh nguyên lý vòng tròn, các chiêu thức thường được diễn thế lặp lại 3 lần.

3. Hổ hình quyền: Hổ quyền thuộc kim, chủ phế, dùng để luyện cơ bắp. Bài không có đòn chân (cước pháp). Chủ luyện đòn đấm thẳng dẫn đạo (tay hổ), đòn đánh bằng lưng bàn tay kết hợp với bật chỏ ngang. Các đòn thế thường đi theo đường thẳng, với tốc độ cao và uy lực cương mãnh không thích hợp cho nữ giới.

4. Báo hình quyền: Báo quyền hành mộc, chủ can, luyện gân. Bài sử dụng tấn pháp linh hoạt, nhanh nhẹn phối hợp với những đòn tấn công chớp nhoáng bằng các khớp xương giữa của đốt ngón tay gọi là Báo Chùy (tay báo) dùng để chặn đòn đối phương hay đánh bật vào huyệt thái dương, thường sử dụng hai tay tấn công đồng thời kết hợp với cước pháp.

5. Xà hình quyền: Xà quyền thuộc hành thủy, chủ thận, luyện khí (tiên thiên). Rắn không chân nên bài Xà quyền không có đòn cước. Bài chủ luyện sự nhu nhuyễn, linh hoạt của những ngón tay (tay xà) uốn éo với nguyên tắc dùng eo xoay để phát lực, thường áp dụng những thế tấn rất thấp và có những thế đánh dạng hồi mã thương rất độc thủ. Bài còn được luyện quỳ ngồi nằm trên mặt đất để trở thành bài Xà địa quyền.

6. Hạc hình quyền: Hạc quyền thuộc hành hỏa, chủ tâm, dùng để luyện tinh. Bài sử dụng những đòn đánh bằng cạnh tay (tay hạc) và cổ tay gọi là Hạc Đỉnh thủ và Hạc Câu thủ hoặc mỏ hạc gọi là Hạc Trủy thủ trong những tư thế dang mở rộng cánh với những đòn đánh chỏ kết hợp với tấn chéo, tấn một chân (hạc tấn). Nhiều môn đồ Vịnh Xuân quyền đánh giá đây là bài quyền có phong cách hào sảng và đẹp nhất trong các bài ngũ hình quyền

Khí công quyền (Vịnh Xuân Việt Nam)

Bài Khí công quyền, một số dòng Vĩnh Xuân gọi là Bối khí quy chi sử dụng các nguyên lý và chiêu thức như Ngũ cầm hí của danh y Hoa Đà, chủ luyện khí và lực, rất thích hợp cho dưỡng sinh. Thủ pháp của bài được luyện trên bộ pháp kiềm dương tấn. Bài phân chia rõ rệt thành nhiều phần bằng việc chuyển vị từ chính thân kiềm dương sang trắc thân kiềm dương bên phải và bên trái.

ngochai
18-05-2012, 06:25 PM
Cước pháp

Hệ thống đòn tay Vĩnh Xuân được đánh giá là vô cùng linh hoạt và hữu hiệu, nhưng nhiều người không biết rằng môn phái còn có những đòn chân rất độc đáo. Có ý kiến cho rằng cước pháp của Vịnh Xuân quyền chỉ có 16 đòn (chính xác là 8 đòn cho mỗi bên chân), có lẽ dựa trên hệ thống luyện tập(thấy rõ trong bài tập Mộc nhân) của dòng Vịnh Xuân Diệp Vấn tại Hồng Kông . Thực tế cước pháp Vịnh Xuân phong phú hơn nhiều, bao gồm cả những chiêu thức dùng chân ở tầm cực thấp với những đòn chấn khớp có uy lực khủng khiếp và những chiêu thức đánh vào sự thăng bằng của đối thủ. Tuy nhiên, do nguyên tắc "túc bất ly địa" (chân không rời khỏi mặt đất) của Vịnh Xuân, cước pháp Vịnh Xuân chỉ truyền dạy cho học trò cao cấp sau khi môn sinh đã luyện tập tốt sự thăng bằng và có sự phối hợp với thủ pháp nhuần nhuyễn. Vịnh Xuân quyền truyền thống không đề cao những đòn đá xoay người, đá bay và cũng rất hiếm hoi những đòn đá quá tầm trung đẳng. Công phu cước là niêm cước, một hình thức tập luyện dính chân tương tự niêm thủ.

Vịnh xuân Hồng Kông thường dùng nhiều Triệt cước trong thực chiến cũng như luyện Niêm cước, ngoài ra có thể kể thêm: Bàng cước, Than cước, Trất cước, Trảm cước, Đỉnh cước, Hoành cước, Thúc gối... Tảo cước ít dùng để quét thấp như các võ phái cổ truyền Việt Nam. Trong Niêm thủ khi 'biến chiêu' tấn công, Lương Đĩnh có chỉ dạy 1 thế cước cao chân của Vịnh Xuân Hồng Công là đá thốc gót thẳng lên cổ đối phương, nó như Đỉnh cước nhưng dùng đá cao.

Lục điểm bán côn

Bài Lục điểm bán côn sử dụng cây côn (gậy) rất dài, thường bằng cao độ của người luyện tập cộng thêm phần cánh tay giơ cao (khoảng 2 thước rưỡi), có lẽ xuất xứ ban đầu cây sào chống thuyền của các môn đồ Hồng Kông.

Bát trảm đao

Tùy chi phái, cây đao sử dụng trong bài còn được gọi là Song tô, Trủy thủ hay Dao quai, và bài còn có tên gọi là Hồ điệp đao, Hồ điệp song đao hay Nhị tự song đao. Bài sử dụng loại đao ngắn cỡ trung bình, khoảng bằng độ dài cẳng tay người tập cộng với một bàn tay xòe thẳng (chuôi đao có thể nằm gọn trong lòng bàn tay, và lưỡi đao chập theo cẳng tay trong một số động tác của bài. Chuôi đao có một vòng thép tạo thành quai, ngoài chức năng bảo vệ tay cầm đao còn giúp loan đao linh hoạt.

Bài Bát trảm đao chia làm 8 đoạn (bát trảm) với mỗi đoạn là một thế đao chính. Theo Diệp Vấn, tám đoạn của bài là:

1. Đao thức
2. Lập trảm đao
3. Than trảm đao
4. Song canh đao
5. Cổn bàng đao
6. Nhất tự đao
7. Vấn đao
8. Quải đao

Tương tự côn pháp, đao pháp áp dụng nguyên tắc kiềm chế hay đánh rơi binh khí đối phương để nhập nội an toàn kết thúc trận đấu. Tương truyền, Diệp Vấn chỉ dạy bài Bát trảm đao cho bốn đệ tử. Tuy nhiên hiện nay nhiều bài đao khác nhau mang tên Bát trảm đao nên khó phân biết được bài nào được chân truyền từ Diệp Vấn.

Các binh khí khác

Các binh khí khác ít phổ biến hơn và chỉ đuợc tập luyện hạn chế tại một số dòng phái gồm phi tiêu, trường kiếm, liễu diệp kiếm, tề mi côn, thậm chí có cả đao.

ngochai
18-05-2012, 06:28 PM
HỆ THỐNG CÔNG PHU

Niêm thủ (Li thủ)

Phương pháp niêm thủ (tay dính nhau) phát triển phản xạ đôi tay, môn sinh nhập nội vừa tiếp tay đối phương là tìm được sơ hở, tức thì tấn công. Chủ đích là đạt tới trình độ hai tay đánh đỡ không cần suy nghĩ (tâm ứng thủ). Niêm thủ bao gồm trong đó cả các động tác quay tay, các nguyên lý du đẩy và phá du đẩy cùng những thế đặc trưng của Vịnh Xuân như than thủ, bàng thủ v.v. và được tập luyện cùng đồng môn trong suốt tiến trình võ sinh theo học.

Đơn niêm thủ (Đơn Li thủ)

Đơn niêm thủ (tập niêm thủ một tay) được dạy kết hợp cùng bài Tiểu niệm đầu và hầu hết lấy các chiêu thức trong bài ra để song đối. Đơn niêm thủ kết hợp theo một chu kì những thế than thủ, phục thủ, chánh chưởng, chẩm thủ, nhật tự xung quyền, bàng thủ, và chú trọng sự chuyển biến giữa hai thế than thủ và bàng thủ.

Song niêm thủ (Song Li thủ)

Song niêm thủ (dính hai tay) bắt đầu với bàng thủ và tiếp với phương pháp "nhất phục nhị" để cuối cùng tới niêm thủ tự do, áp dụng nguyên lý "bất truy thủ", "tá lực xảo đả", "tiêu đả đồng thời", "tá lực phản đàn, khiêu kiều độ giang", "án đầu ngật vĩ", "lại lưu khứ tống", "súy thủ trực xung" v.v. Ở các chi phái Vịnh Xuân quyền Việt Nam, song niêm thủ bắt đầu bằng những động tác quay tay và được tập ngay từ ngày đầu tiên đến với môn phái.

Song niêm thủ bịt mắt (Phong Nhãn Song Li thủ)

Là cấp độ cao nhất của linh giác để tiến tới song đấu tự do với ly thủ (rời tay), võ sinh bịt mắt bằng dải băng đen và chỉ còn đặt niềm tin vào khả năng cảm nhận thông qua tiếp xúc với đối phương của bản thân để tránh đòn hay phản công.

Niêm cước (Li cước)

Niêm cước được luyện tập nhằm phát triển khả năng cảm ứng, nghe lực và sự thăng bằng của của chân. Hai người đứng trên một chân dùng chân kia chạm nhau, tạo sơ hở bằng những đòn móc chân (khấu thoái) rồi tấn công bằng những thế đá của môn phái.

Niêm thân (Li thân)

Niêm thân (dính thân), trong các chi phái Vịnh Xuân quyền tại Việt Nam còn gọi là Trao thân hay Tráo đổi thân, là cấp độ cao nhất của sự tiếp xúc giữa hai đối thủ nhằm hướng đến mục tiêu phát triển sự cảm ứng nhanh nhạy của toàn bộ cơ thể trước tác động lực từ phía đối phương. Đòn đánh của địch thủ vừa tiếp xúc với thân mình của môn đồ Vịnh Xuân quyền, dựa trên cơ sở thụ cảm tác động lực, môn đồ Vịnh Xuân lập tức hóa giải bằng các động tác xoay thân, triệt tiêu lực, đưa cơ thể vượt thoát ra khỏi không gian nguy hiểm do đòn tấn công của đối phương gây ra và tạo góc độ ra đòn thuận lợi để phản công.

Du đẩy (Phép Thính Kình)

Du đẩy hay còn gọi là phép Thính Kình tức là các phương pháp tập giao thủ (chạm tay), tiếp thủ (đón tay) của đối phương và nghe (cảm nhận) phương hướng chuyển động của lực tay đối phương mà tùy theo đó để triệt kình (phá lực) của đối phương theo nguyên lý lực ly tâm nghĩa là dùng vòng tròn hóa giải lực chuyển động đường thẳng, đây là phương pháp rất thịnh hành trong các môn võ thuật Trung Hoa bắt đầu thời nhà Minh có một loại quyền pháp xuất hiện gọi là Miên Quyền (棉拳) - được người Trung Hoa dịch nghĩa sang tiếng Anh là Cotton Fist (quyền mềm như bông), còn gọi là Nhu Quyền (緜拳 - 綿拳).

Nghiên cứu lịch sử quyền pháp Trung Hoa, ta cũng nhận thấy Thái Cực Quyền Trần Gia do Trần Vương Đình xuất phát tại làng Trần Gia Câu trong tỉnh Hà Nam cũng ra đời vào giữa cuối triều nhà Minh nghĩa là sau khi Nhu Quyền Trung Quốc ra đời. Trong Thái Cực Quyền có phép Thôi Thủ dùng phương pháp Thính Kình (nghe lực đối phương) cũng tựa hệt như phép Du đẩy trong Vịnh Xuân quyền, do vậy trong Thái Cực quyền phổ của Vương Tông Nhạc có câu: "Tứ lượng bát thiên cân, dẫn tiến lạc không hợp tức xuất" nghĩa là dùng 4 lạng (lấy yếu - dĩ nhu) mà chống đỡ ngàn cân (trị mạnh bạo - chế cương) tương tự như Cầm Nã Thuật của Thiếu Lâm quyền, làm cho đối phương mất thăng bằng và mất phương hướng (dẫn tiến lạc không) rồi sau đó xuất thủ (ra tay) mãnh liệt (hợp tức xuất).

Đây là các bài tập thiên về dùng sức nhằm phát triển nội lực và cảm ứng lực, người tập đứng chính thân kiềm dương hoặc trắc thân kiềm dương lồng tay vào nhau và tiến hành tác động đến đối phương bằng các động tác ép, chặn nghịch chiều. Những bài tập du đẩy thể hiện tính chất đối kháng lực rất nặng với phương pháp hầu như tương phản với những nguyên tắc niêm thủ nói trên thường thiên về nhu hòa, hóa giải lực.

Du đẩy và phá du đẩy có thể còn được thực hiện với những động tác ép, điểm, chặn, đả lên thân (vùng ngực, bụng, vai, lưng v.v.) đối phương nhằm tăng cường khả năng cảm ứng lực và chịu lực của từng phần cơ thể.

ngochai
18-05-2012, 06:31 PM
Một số dòng phái

Hiện nay Vịnh Xuân là một trong số những môn võ phát triển quy mô bậc nhất thế giới, trải rộng trên 140 quốc gia với rất nhiều hệ phái, trong đó có 3 hệ phái chủ đạo do Hiệp hội Vịnh Xuân quyền Thế giới phân loại là Hệ phái Vịnh Xuân quyền Hồng Kông của Đại sư Diệp Vấn (Yip Man); Hệ phái Vịnh Xuân quyền của Đại sư Nguyễn Kỳ Sơn (Yuen Kay San) và Hệ phái Vịnh Xuân Việt Nam được truyền bá tại Hà Nội. Từ năm 1939 đến 1954,ở Hàng Buồm, Hà Nội, thu nhận học trò và truyền dạy Vịnh Xuân khởi phát từ Nguyễn Tế Công. Tuy nhiên, trong Vịnh Xuân quyền toàn tập, Robert Chu, Réne Ritchie, Y. Wu đã hệ thống Vịnh Xuân quyền thế giới thành các chi phái sau:

Lưu ý, trong tên Hán tự của các hệ phái, một số hệ phái ghi rõ ràng Vĩnh Xuân quyền, thay vì Vịnh Xuân quyền.

Các chi phái chính

1. Diệp Vấn Vịnh Xuân quyền (Yip Man Wing Chun kwen), phát triển mạnh tại Hồng Kông và nhiều nước phương Tây.
2. Nguyễn Kỳ Sơn Vịnh Xuân quyền (Yuen Kay San Wing Chun kwen)
3. Cổ Lao Vịnh Xuân quyền (Gu Lao Wing Chun kwen): phát xuất từ ngôi làng cùng tên.
4. Nam Dương Vịnh Xuân quyền (Nanyang Wing Chun kwen)
5. Bành Nam Vĩnh Xuân quyền (Pannam Wing Chun kwen)
6. Bào Hoa Liên Vĩnh Xuân quyền (Pao Fa Lien Wing Chun kwen)
7. Hồng thuyền Vĩnh Xuân quyền (Hung Suen Wing Chun kwen)
8. Chí Thiện Vĩnh Xuân quyền (Jee Shim Wing Chun kwen)

Các chi phái khác

1. Phật Sơn Vịnh Xuân Quyền (Fujian Wing Chun kwen)
2. Hồng thuyền hí ban Vĩnh Xuân Quyền (Hung Sue Hay Ban Wing Chun kwen)
3. Vịnh Xuân quyền Malaysia (Malaysian Wing Chun kwen): dòng phái phát triển tại Malaysia do công của Diệp Kiên (Yip Kin) từ năm 1930
4. Thiên thân Vịnh Xuân quyền (Pien San Wing Chun kwen) có gốc khởi từ lương y Lương Tán tại làng Cổ Lao
5. Vĩnh Xuân quyền Việt Nam (Vietnamese Wing Chun) do Tế Công truyền vào từ những năm trước 1945, xin xem thêm Vĩnh Xuân Quyền (Việt Nam)
6. Diêu Kỳ Vịnh Xuân quyền (Yiu Kai Wing Chun kwen)

ngochai
18-05-2012, 06:42 PM
Trửu pháp (肘法) - Phép đánh cùi chỏ

Đây là phép đánh cùi chỏ trong Bạch Mi quyền và Vịnh Xuân quyền.

Trong phép đánh cùi chỏ, Thiếu Lâm quyền không cho phép đánh cùi chỏ cao quá vai, do vậy cùi chỏ luôn kẹp nách sau khi tung đòn. Bạch Mi và Vịnh Xuân xuất phát từ Thiếu Lâm quyền cũng không đi ra ngoại lệ. Bảy kỹ thuật cùi chỏ nằm rải rác trong cả ba quyền sáo căn bản của môn phái Vịnh Xuân, chẳng hạn các kỹ thuật Bình Trửu, Hậu Trửu nằm trong quyền sáo sơ cấp Tiểu Niệm Đầu, kỹ thuật Lan Thủ nằm trong quyền sáo trung cấp Tầm Kiều và những kỹ thuật khác nằm trong quyền sáo cao cấp Tiêu Chỉ.

Cát Trửu ( Ge Jarn 割肘 ) (cắm chỏ) dùng cùi chỏ đánh từ trên đầu xuống. Cát Trửu là một đòn cùi chỏ đánh xuống từ một tư thế cao, cắt thẳng vào mục tiêu thường là đầu của đối thủ.

Cát Trửu còn được gọi là Đỉnh Trửu (Ding Jarn 頂肘 ) (cắm chỏ).

Quải Trửu (Guai Jarn 枴肘 ) (gánh chỏ) tư thế giống Bãi Trửu (Đáng Trửu) giống như đang gánh một vật trên vai, cũng có thể là đòn cùi chỏ thúc ngang gọi là Bình Trửu hay Bách Trửu. Quải Trửu là một đòn cùi chỏ đánh theo đường chéo và cong, bắt đầu từ mặt suốt xuống phần giữa thân người đối thủ mà chém xả xuống hoặc đánh chéo từ dưới lên như một nhát dao. Mục tiêu của đòn này rất rộng, gồm trán, mặt, cổ, xương cổ, vùng ngực đối thủ. Hiệu lực của Quải Trửu cao về cả công lẫn thủ, có thể giúp hóa giải dễ dàng một đòn chẹn cổ từ trước mặt.

Quải Trửu đánh ở vị trí thấp cắt ngang ngực và hông tạt vào là Giác Trửu (Gok Jarn 角肘 ) (cắt chỏ ngang).

Bãi Trửu (Baai Jarn 掰肘 ) dùng cùi chỏ đánh xéo. Bãi Trửu nhắm dùng cùi chỏ chặt ngang vào mặt đối thủ. Đòn này rất đắc dụng để chống một đối thủ muốn ôm chầm lấy bạn trong một khoảng trống hẹp. Đòn có thể tung ra bằng cả hai tay như một đòn kép. Khi tung đòn, cánh tay trước ở thế gập thẳng góc với cánh tay trên và dùng một động tác vặn hông để đưa cùi chỏ vào tầm trung đòn. Nếu mục tiêu là một bên đầu đối thủ có thể sử dụng tay kia nắm đầu đối thủ lại khi đòn cùi chỏ tung ra từ phía ngang hông.

Trong Bạch Mi quyền, Bãi Trửu của Vịnh Xuân được gọi bằng tên Đáng Trửu (Dang Jarn 當肘 ) (gánh chỏ) giống như tư thế đang quải (gánh) một vật trên vai.

Lan Thủ (Laan Sau 攔手/拦手) gập gắp cùi chỏ để đánh bằng cánh tay trước. Lan Thủ tuy là xếp vào kỹ thuật đánh cùi chỏ nhưng chỉ sử dụng cánh tay trước để đập mạnh bàn tay vào đầu, cổ ngực hay đối thủ. Khi tung đòn này, cùi chỏ được gập gắt lại cùng với động tác vặn hông cực gắt để tạo ra một lực xoắn lớn.

Cách đánh cùi chỏ trong kỹ thuật Lan Thủ gọi là Phê Trửu (Pie Jarn 批肘 ) (tát chỏ từ ngoài vào nằm ngang vị trí đầu, cổ), có thể dùng kỹ thuật này niêm chỏ đối phương.

Bình Trửu (Ping Jarn 坪肘 ) dùng cùi chỏ tạt ngang, thúc ngang vào bụng, ngực khi thân và vai đánh áp sát (Bích Đả 迫打) đối phương. Bình Trửu được phóng ra khi cánh tay ở vị thế ngang nhắm vào những phần mềm như yết hầu, ngực, bụng. Đòn này được coi là một đòn cùi chỏ hiểm hóc.

Còn gọi là Bách Trửu (Bik Jarn 迫肘 ) trong Bạch Mi quyền.

Hậu Trửu (Hau Jarn 後肘 ) đòn cùi chỏ đánh về phía sau. Hậu Trửu cũng được coi là một đòn cùi chỏ hiểm hóc và ác liệt không thua Bình Trửu. Hậu Trửu nhắm vào một đối thủ ở phía sau và dùng mút cùi chỏ làm khí giới trong khi nắm đấm xoay lên trên (đánh thốc ra phía sau lưng từ dưới lên).

Trực Lạc Trửu (Zik Lok Jarn 直落肘 ) đánh bằng cùi chỏ cắm thẳng đứng thốc xuống hơi giống Cát Trửu. Trực Lạc Trửu là một đòn đánh ở tầm cực gần hoặc trong tình thế khẩn cấp tương tự như lúc đối thủ liều lĩnh lao thẳng vào mình. Trực Lạc Trửu đánh thốc xuống từ tư thế cùi chỏ thẳng đứng nhắm vào đỉnh cột sống đối thủ và sử dụng mút cùi chỏ.

Trực Lạc Trửu đánh cắm xuống ra phía sau là Áp Trửu (Ngat Jarn 壓肘 ) (đè chỏ) hay Sừ Trửu (Chu Jarn 耡肘 ) (bửa chỏ).

ngochai
18-05-2012, 06:44 PM
Một số kỹ thuật Kiều Thủ phổ biến trong Vịnh Xuân quyền

Lưu ý: có nhiều lưu phái Vịnh Xuân quyền có các cách diễn giải khác nhau đối với cùng một thao tác kỹ pháp, ví dụ như:

1. động tác đè tay hay ấn tay được diễn giải thành 6 tên khác nhau là Trất thủ, Khấm thủ, Nại thủ, Án thủ, Chẩm thủ, Trầm thủ;

2. động tác dùng cạnh bàn tay chém gạt mạnh hay thọc thẳng vào mục tiêu được diễn giải thành 2 tên khác nhau là Quát thủ, Sạn thủ và cùng được dịch nghĩa sang tiếng Anh là Shaving-hand hay Scraping-hand;

3. động tác dùng lưng cổ tay ngoài nâng lên đỡ gạt được diễn giải thành Đề thủ, Đỉnh thủ (Hạc Đỉnh thủ)

4. động tác dùng cạnh bàn tay chém mạnh vào yết hầu (cổ họng) được diễn giải thành Tỏa Hầu thủ, Tiêu thủ (Phiêu thủ), Sát Cảnh Thủ.

5. động tác xoay tròn cổ tay hay cùi chỏ tay được diễn giải thành Khuyên thủ, Quyển thủ, trong chữ Hán âm Khuyên và Quyển đọc giống nhau là quān/ quán 圈 theo âm Quan Thoại (nếu phiên ra theo âm của chữ Latin đọc là Chian), đọc theo âm Quảng Đông được Latin hóa là Huen hay Huyn.

6. động tác đỡ chặn tay đối phương được diễn giải thành Phong thủ, Lan thủ đều có ý nghĩa giống nhau.

7. động tác dùng tay kéo cổ đối phương được diễn giải thành Trì Cảnh thủ, Phan Cảnh thủ đều là một nghĩa.

8. động tác phẩy hay ve vẩy cánh tay và cổ tay khi tấn công vào đối phương được diễn giải thành Sủy thủ, Đoái thủ, Phất thủ(thấy rỗ nhất trong Sil Nim tau dòng Diệp Vấn).

9. động tác đưa tay ra thăm dò nội kình của đối phương được diễn giải thành Tầm Kiều, Lao thủ, Vấn thủ.

10. động tác Cổn thủ, Khổn thủ và Bàn thủ có điểm giống nhau khi thực hành động tác vì đều xoay khớp cùi chỏ.

11. động tác dùng tay ngăn chặn đòn tay của đối phương được diễn giải thành Lan thủ, Phong thủ.

12. Vấn thủ: tay đưa tới trước tiếp xúc với đòn địch để hất qua bên, thường dùng hóa giải những thế từ trên đánh xuống, trong bài Mộc Nhân(Dòng Diệp Vấn), tay chém vào nách địch là Vấn thủ, trong thực tế là chém vào cổ địch.

13. Sạn thủ: thế giống như Hoành Chưởng, nhưng đánh bằng cạnh bàn tay.

14. Tỏa Hầu thủ: có chi nhánh Vịnh Xuân có thế này là bóp cổ địch nhân.

15. Quát thủ: là đỡ xuống dưới và ra ngoài, tên khác là Cảnh thủ.

16. Cổn thủ: tay trên là Than thủ, tay dưới là Hạ Bàng thủ, gọi là Khổn thủ là sai, vì Khổn là trói, trong danh từ võ thuật, Khổn chỉ những thế dùng để trói tay địch nhân khi nhập nội.

17. Thoát thủ: còn gọi là Đoái thủ, tay mình bị chụp, tay kia dùng hất ra, mấy thế cuối của mấy bài Vịnh Xuân có thế chót trước khi Khuyên thủ, là Thoát thủ (chém 2 tay ra liên tục).

18. Trầm thủ, Trất thủ, Khấm thủ đều là thế ấn tay địch xuống nhưng mỗi thế có công dụng đặc biệt.

19. Tiêu chỉ, Tiêu thủ: xỉa đầu ngón tay tới nhắm vào cổ họng, mắt.

20. Tầm kiều: thăm dò kình lực địch nhân bằng cách đưa tay tìm tay địch (danh từ miền Bắc là Tiếp thủ), còn Lao thủ đưa 2 tay nâng lên, giống như Thác thủ trong bài Mộc Nhân.

21. Bàn thủ: khi mới bắt tay vào Song Li thủ (Niêm thủ, Khuyên thủ), 2 tay mình liền dính với 2 tay địch, chuyển động từ Phục thủ-Than thủ qua Phục thủ-Bàng thủ thì gọi là Bàn thủ (quay cánh tay).

22. Sát Cảnh thủ: chém sấp cạnh bàn tay vào cổ địch nhân.

23. Bão Bài Chưởng: giống Phá Bài Chưởng của Hồng gia, còn gọi là Hồ Điệp Chưởng.

Chú giải: Danh từ Kiều Thủ trong ngôn ngữ Trung Hoa được dịch thành 2 thuật ngữ: Bridge Hand và Bridge Arm. Thật ra dịch là Bridge Arm thì đúng hơn vì Kiều Thủ đây là ám chỉ chủ yếu từ khớp xương cùi chỏ đến cổ tay nên phải dịch là Arm nghĩa là phần Cẳng tay, trong khi Hand trong tiếng Anh tương đương tiếng Trung Hoa là Chưởng nghĩa là bàn tay, nếu dịch Bridge Hand thì phải gọi là Kiều Chưởng mới đúng, nhưng Thủ trong tiếng Trung Hoa lại vừa có nghĩa là cẳng tay và cả bàn tay.

ngochai
22-05-2012, 06:40 PM
Trận này đấu hơi lộn xộn.


http://www.youtube.com/watch?v=PmD55PLKI1w&feature=related


Video này là Vịnh Xuân Nam Anh tham gia thì phải. Người mang đai có hình Bát Quái có vẻ hơi "thiếu chững chạc" khi giao đấu.


http://www.youtube.com/watch?v=psj0ft-jmmE&feature=relmfu


Đấu thủ áo đen khá "cao cơ" hơn đối thủ. Đòn cuối kết hợp tốt đòn chân và đòn tay.


http://www.youtube.com/watch?v=EbzZMkv5E0E

ngochai
22-05-2012, 07:29 PM
Đây là bộ phim khá hay về Vịnh Xuân Quyền. Trên góc độ điện ảnh, nhiều động tác và góc quay, kỹ xảo mang tính "hư cấu" so với thực tế một chút. Tuy vậy cũng có thể tham khảo phần nào.



http://www.youtube.com/watch?v=Eo5XoHAquyA&feature=related



http://www.youtube.com/watch?v=tE6XZMnDG58&feature=related

ngochai
22-05-2012, 07:48 PM
http://www.youtube.com/watch?v=jUr10LZAzh0


Lưu ý: đây chỉ tham khảo chủ yếu về Hình, thực tế luyện tập Kungfu họ không luyện nhanh và mạnh như vậy.

ngochai
22-05-2012, 07:57 PM
http://www.youtube.com/watch?v=I0YuTPetzIU&feature=related

ngochai
22-05-2012, 08:01 PM
http://www.youtube.com/watch?v=fyDazcYunBo&feature=channel&list=UL

ngochai
22-05-2012, 08:03 PM
http://www.youtube.com/watch?v=B9-cJdG_fr4&feature=related

ngochai
22-05-2012, 08:17 PM
http://www.youtube.com/watch?v=6LJiu5UxGOA

thanh_long
28-05-2012, 04:00 PM
[COLOR="Blue"]Đấu thủ áo đen khá "cao cơ" hơn đối thủ. Đòn cuối kết hợp tốt đòn chân và đòn tay.


http://www.youtube.com/watch?v=EbzZMkv5E0E

Sao không thấy giống Vịnh xuân tí nào nhỉ?
Xưa nay mình cứ nghĩ đánh phải như Lý, như Chung Tử chứ sao lại như đám cầu muối thế này... khác nhiều quá, thất vọng quá đi !

CafeBMT
27-06-2012, 10:31 AM
Nếu bạn muốn thất vọng toàn tập, tui chỉ cho bạn Thanhlong một cách nữa nhé ^^. Nếu tìm được các cảnh quay hậu trường của Lý, của Chung Tử mà xem chắc chắn tập hai là thất vọng vì bị hoang tưởng hihi.

thanh_long
28-06-2012, 11:57 AM
Nếu bạn muốn thất vọng toàn tập, tui chỉ cho bạn Thanhlong một cách nữa nhé ^^. Nếu tìm được các cảnh quay hậu trường của Lý, của Chung Tử mà xem chắc chắn tập hai là thất vọng vì bị hoang tưởng hihi.
Cảm ơn bạn! Tôi đã cố gắng tìm để xem nhưng không được bạn ạ. Bạn có thể nào post lên cho mọi người khảo cứu được không?
Trân trọng.

CafeBMT
28-06-2012, 12:21 PM
^^ Cảnh hậu trường sẽ cho thấy rõ hơn cái cách mà võ thuật lên phim nếu xem rồi thì ta đâu còn ngưỡng mộ tài nghệ của họ như siu nhân bay nhảy như chim nữa đâu hehe. Tuy nhiên, nếu nói dùng kỹ xảo dùng trong điện ảnh để tạo hiệu ứng đẹp cho phim thì ngày nay sử dụng phổ biến thì trái lại mình dám chắc là chúng ta không thể phủ nhận những phim của Lý Tiểu Long làm là khá chân thật.
Còn về đề nghị của bạn thanhlong thì xin lỗi mình tìm cũng không thấy các cảnh hậu trường nào hihi, tuy nhiên xem phim của Thành Long thì cuối phim luôn có vài đoạn.

P/s: Hum nay đọc lại comment trước của mình thấy có j đó nghe hơi ngứa tai hehe, chắc dùng từ chưa chính xác, có gì bạn thông cảm cho nhé ^^.

CafeBMT
28-06-2012, 02:28 PM
http://www.youtube.com/watch?v=HAEex7-EK38&hd=1
^^ Chung Tử đây ^^. Cuối phim có một đoạn đây.

bach_ho
29-06-2012, 04:47 AM
Trận này đấu hơi lộn xộn.


http://www.youtube.com/watch?v=PmD55PLKI1w&feature=related


Video này là Vịnh Xuân Nam Anh tham gia thì phải. Người mang đai có hình Bát Quái có vẻ hơi "thiếu chững chạc" khi giao đấu.


http://www.youtube.com/watch?v=psj0ft-jmmE&feature=relmfu

Đấu thủ áo đen khá "cao cơ" hơn đối thủ. Đòn cuối kết hợp tốt đòn chân và đòn tay.


http://www.youtube.com/watch?v=EbzZMkv5E0E

Phải nói thế này: Nếu như người post bài không có chào hàng, quảng cáo trước thì người xem căng mắt căng tai cũng chẳng thể biết đâu là Kỹ thuật Vịnh Xuân quyền, đâu là võ linh tinh lang tang quyền chứ đừng nói chi đến chuyện phân biệt được võ sinh của Vịnh Xuân Hà nội, đâu là Vịnh Xuân của Sai gòn
Tóm lại, do được nói trước nên tôi mới biết đây là kỹ thuật giao thủ của phái Vịnh Xuân. Do là thách đấu của Vinh Xuân Sài Gòn nên mới có trận đấu như thế này ... và vì thách đấu cho nên, về nguyên tắc thì mỗi bên sẽ phải tìm bằng được một con "gà" nòi, con gà "chiến" nhất, cực "hảo" nhất để đại diện cho võ đường hay bộ mặt của mình.
Và như vậy, qua mấy clip mà các bạn vừa được "mục kích sở thị" trên rõ ràng chúng ta có thể thấy "cũng rứa cả thôi", tức cũng bát nháo như nhau. Vịnh Xuân Sài Gòn hay Vịnh Xuân Nam Anh, Vinh Xuân Tế Công hay Vịnh Xuân chi chi nữa cũng chỉ đến thế mà thôi, cũng chả ra cái giống gì, chỉ tổ giỏi khoe khoang khác lác... Ai nói Vịnh Xuân hay, Vịnh Xuân lợi hại thì tôi nghĩ chắc cũng đến cỡ như mấy đứa này là cùng (vì đây là đám gà tuyển mà) vậy tôi đề nghị mọi người nên về nhà khép cửa luyện công đi, đừng có mộng mơ ảo tưởng. Riêng đám Vịnh Xuân công nên ngậm cái mồn cho kín chứ đánh đấm cái kiểu này ra đường gặp đám "thằng Luyện"(tức anh Luyện, anh Lê Văn Luyện), thằng "Nghĩa" thì nó tọng cho bể cái mồm, cho câm cái họng, đánh cho tắt tiếng luôn đừng có đứng đó mà mà huênh hoang nhá !?
Em nghe thiên hạ đồn kungfu của Vịnh Xuân hay lắm nên mới ra đây xem. Trung thực mà nói thì trình độ kungfu của em cũng cỡ mấy thằng này, tức xem ra còn con nớt lắm, chẳng ra gì ! Vậy em về luyện công đây. Chào các bác nhá!

CafeBMT
29-06-2012, 12:09 PM
Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một thử. Ở đời có cái vừa được nghe, được thấy mà chưa thử thì không thể nào khẳng định hoàn toàn đâu bạn bach_ho ah. Nếu rảnh bạn xem các trận đấu pk của các môn võ khác cũng thế, đánh đối kháng đừng mơ tưởng bay nhảy như trong xinê nhé. Và xin nói thêm với bạn, hàng tốt không phải lúc nào cũng mang ra khoe đâu, hữu xạ tự nhiên hương, mấy ông cao thủ đi khám bệnh phát thuốc chứ chả rảnh ra công viên post clip cho thiên hạ xem đâu.
Về phần những clip pk như trên tôi có xem qua, thành thật mà nói không nên post clip lên youtube cho thiên hạ cười chê.^^.
P/s: Nghe thiên hạ đồn Vĩnh Xuân có ở 140 quốc gia trên thế giới mà ở Việt Nam mình cứ như là hàng hiếm ấy nhỉ...đến bao giờ mới có anh võ sư leo lên núi rừng tây nguyên mở lớp đây^^.
À bạn bach_ho ơi hum nào luyện công có tiến bộ đến vài võ đường Vĩnh Xuân khiêu chiến với đại đệ tử của võ đường họ đi. Pk xem thế nào, thắng được thì Vĩnh Xuân cũng nên đóng võ quán ra đi khỏi làng võ sau 200 tồn tại luôn nhỉ.

minhnhat
30-06-2012, 11:21 AM
Trận này đấu hơi lộn xộn.


http://www.youtube.com/watch?v=PmD55PLKI1w&feature=related


Đấu thủ áo đen từ khi bị gục do dính đòn móc của đối thủ xuống sức hẳn nhỉ...

bach_ho
30-06-2012, 12:20 PM
À bạn bach_ho ơi hum nào luyện công có tiến bộ đến vài võ đường Vĩnh Xuân khiêu chiến với đại đệ tử của võ đường họ đi. Pk xem thế nào, thắng được thì Vĩnh Xuân cũng nên đóng võ quán ra đi khỏi làng võ sau 200 tồn tại luôn nhỉ.
Ôi giời ơi... ! CafeBMT lại khích đểu tại hạ rồi ! Tại hạ đâu có khoái cái món này lắm đâu, chẳng qua là chém tí gió cho nó vui cửa vui nhà í mà ... :) các bạn đừng chấp nhá.
Bạn Ngochai thân mến! Cứ như bạn giới thiệu thì đây là trận đả lôi ... tại công viên :) Nhìn thì tôi cũng có thể biết ai là Vịnh Xuân phái thuộc Phật Sơn và ai là Vịnh Xuân phái của Diệp Vấn ở Hồng Kông nhưng tôi không thể biết được ai là người ở Vịnh Xuân Hà Nội và ai là người thuộc Vịnh Xuân Sài gòn (bạn vui lòng chỉ giáo cho biết nhe!). Xét về mặt phong cách, nhìn người mặc đồ đen tôi có thể đoán chắc chắn anh ấy đến từ Phật Sơn (vì trông anh ấy hiền hiền... hihi), còn cái anh áo trắng thì chắc chắn là cao thủ đến từ Hồng Kông vì nhìn anh này hơi có cái gì đó giống với xã hội đen... :) Đặc biệt nhìn cái ky của anh ấy đeo mới ngạo nghễ theo đúng cái nghĩa... của "cái ky" ! Hihi. Không biết nhận xét của tôi có đúng không ?

taothao
04-09-2012, 09:16 PM
Lên youtube thấy video clip này. Thấy nhan đề là Nam Anh Kungfu, họ đang đối luyện thì phải. Nội dung của clip như phần mở đầu-chắc để làm marketing.



http://www.youtube.com/watch?feature=player_detailpage&v=RKr3swM-xzQ

nha_que
04-09-2012, 09:26 PM
Hay quá đi, đánh rất đẹp, rất hoa mỹ, đúng là Vịnh Xuân (???!!!!).

taothao
04-09-2012, 09:44 PM
Hay quá đi, đánh rất đẹp, rất hoa mỹ, đúng là Vịnh Xuân (???!!!!).


Không những có Hoa đẹp mà còn có Lá, có Cành nữa. "Hoa-Lá-Cành" đó mà.

we00037890
01-10-2012, 02:58 PM
các bác trong clip bơi khỏe quá :D