View Full Version : THƠ ĐƯỜNG - Bạch Cư Dị 白居易
ngochai
20-01-2015, 05:16 PM
BẠCH CƯ DỊ (http://thaicucthieugia.com/forum/tags.php?tag=b%E1%BA%A1ch+c%C6%B0+d%E1%BB%8B) 白居易 (http://thaicucthieugia.com/forum/tags.php?tag=%E7%99%BD%E5%B1%85%E6%98%93) (772-846) tự Lạc Thiên 樂天, hiệu Hương Sơn cư sĩ 香山居士 và Tuý ngâm tiên sinh 醉吟先生, người Hạ Khê (nay thuộc Thiểm Tây). Ông là thi nhân tiêu biểu nhất giai đoạn cuối đời Đường, là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Người ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch và Đỗ Phủ. Ông xuất thân trong một gia đình quan lại nhỏ, nhà nghèo nhưng rất thông minh, 9 tuổi đã hiểu âm vận, Mười lăm tuổi ông đã bắt đầu làm thơ, thuở nhỏ nhà nghèo, ở thôn quê, đã am tường nỗi vất vả của người lao động.
https://lysoblog.files.wordpress.com/2014/12/lysoblog_phongthuy-7.jpg
Năm Trinh Nguyên ông thi đậu tiến sĩ được bổ làm quan (https://lysoblog.wordpress.com/category/nho-hoc/) trong triều, giữ chức Tả thập di. Bởi mâu thuẫn với tể tướng Lý Lâm Phủ, ông chuyển sang làm Hộ tào tham quân ở Kinh Triệu rồi lại được triệu về kinh lo răn dạy thái tử. Năm Nguyên Hoà thứ 10 (Đường Hiến Tông), do hạch tội việc tể tướng Vũ Nguyên Hành bị hành thích và ngự sử Bùi Độ bị hành hung, đám quyền thần cho là ông vượt qua quyền hạn, đày làm Tư mã Giang Châu. Ông chủ trương đổi mới thơ ca. Cùng với Nguyên Chẩn, Trương Tịch, Vương Kiến, ông chủ trương thơ phải gắn bó với đời sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn chương hình thức.
Ông nói: "Làm văn phải vì thời thế mà làm... Làm thơ phải vì thực tại mà viết", mục đích của văn chương là phải xem xét chính trị mà bổ khuyết, diễn đạt cho được tình cảm của nhân dân. Thơ ông mang đậm tính hiện thực, lại hàm ý châm biếm nhẹ nhàng kín đáo. "Trường hận ca" để nói mối tình đẹp của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi, nhưng đọc kỹ thì những ý châm biếm, mỉa mai kín đáo đều có. Ông cùng Nguyên Chẩn đề xướng phong trào Tân Nhạc Phủ, nên trong thơ, ông luôn công kích đời sống xa hoa dâm dật của bọn quý tộc, bóc trần sự bóc lột của bọn quan lại, thông cảm với nỗi thống khổ của dân chúng ("Tần trung ngâm", "Tân nhạc phủ"). Thơ ông thấm nhuần tư tưởng nhân đạo, nhân văn. Ông hòa đồng cùng dân chúng, không coi việc làm quan của mình là gì, mà thấy mình cũng bị cuộc đời làm cho bảy nổi ba chìm chẳng khác gì người đời ("Tỳ bà hành"). Ông thông cảm với những thân gái chịu bao tập tục hủ bại và cảnh nghèo túng mặc dù sắc đẹp thì chẳng thua ai ("Nghị hôn").
Bạch Lạc Thiên chủ trương thơ ca phải giản dị để dân chúng đều hiểu được. Không những thế, tình cảm, tư tưởng phải giàu tính nhân dân, nói được nỗi lòng của mọi người trước thế sự. Thơ ông giàu tính trữ tình. Khi ông bị đi đày từ Tràng An đến Tây Giang, ba bốn ngàn dặm, dọc đường thấy trường học, chùa chiền, quán trọ... đều có đề thơ của mình, nên càng tự tin ở chủ trương của mình hơn. Riêng hai bài "Tỳ bà hành" và "Trường hận ca" đã đủ tỏ tài thơ của Bạch Cư Dị. Bằng lối kể chuyện miêu tả, với chủ đề khác nhau, hai bài thơ dài của ông, bài thì bay bướm, hình ảnh đẹp, lời bình trầm lắng, ý ngoài lời, ca tụng, mỉa mai đều kín đáo, bài thì hoà đồng vào cảnh ngộ cùng nhân vật, viết lên những tâm trạng gửi gắm của cả hai, người gẩy - người nghe, vào tiếng đàn trên bến Tầm Dương, bài thơ da diết, buồn thấm thía mà nỗi đời thì vời vợi mênh mang.
Ngoài ra ông còn làm một số bài thơ về thiên nhiên, nhàn tản. Lối nói u hoài, vương một nỗi buồn riêng kín đáo. Ông thích đàm đạo về thiền (https://lysoblog.wordpress.com/category/phat-hoc/), về Lão Trang (https://lysoblog.wordpress.com/category/lao-trang/), cũng như là biểu hiện trốn đời, sau khi đã quá ngán về nhân tình thế thái. Ông để lại hàng ngàn bài thơ. Thơ ông lời lẽ rất bình dị, tác phẩm của ông đầy đủ nhất là tập "Bạch thị trường khánh", gồm 71 quyển, trong đó có hơn 40 quyển là thơ.
ngochai
20-01-2015, 05:25 PM
.
.
Hán Tự
琵 琶 行
潯陽江頭夜送客,
楓葉荻花秋瑟瑟。
主人下馬客在船,
舉酒欲飲無管弦。
醉不成歡慘將別,
別時茫茫江浸月。
忽聞水上琵琶聲,
主人忘歸客不發。
尋聲暗問彈者誰,
琵琶聲停欲語遲。
移船相近邀相見,
添酒回燈重開宴。
千呼萬喚始出來,
猶抱琵琶半遮面。
轉軸撥弦三兩聲,
未成曲調先有情。
弦弦掩抑聲聲思,
似訴生平不得志。
低眉信手續續彈,
說盡心中無限事。
輕攏慢撚抹復挑,
初為霓裳後六么。
大弦嘈嘈如急雨,
小弦切切如私語。
嘈嘈切切錯雜彈,
大珠小珠落玉盤。
閒關鶯語花底滑,
幽咽流景水下灘。
水泉冷澀弦凝絕,
凝絕不通聲漸歇。
別有幽愁暗恨生,
此時無聲勝有聲。
銀瓶乍破水漿迸,
鐵騎突出刀鎗鳴。
曲終收撥當心畫,
四弦一聲如裂帛。
東船西舫悄無言,
惟見江心秋月白。
沈吟放撥插弦中,
整頓衣裳起斂容。
自言本是京城女,
家在蝦蟆陵下住。
十三學得琵琶成,
名屬教坊第一部。
曲罷曾教善才服,
妝成每被秋娘妒。
五陵年少爭纏頭,
一曲紅綃不知數。
鈿頭銀篦擊節碎,
血色羅裙翻酒污。
今年歡笑復明年,
秋月春風等閒度。
弟走從軍阿姨死,
暮去朝來顏色故。
門前冷落車馬稀,
老大嫁作商人婦。
商人重利輕別離,
前月浮梁買茶去。
去來江口守空船,
繞船明月江水寒。
夜深忽夢少年事,
夢啼妝淚紅闌干。
我聞琵琶已歎息,
又聞此語重唧唧。
同是天涯淪落人,
相逢何必曾相識。
我從去年辭帝京,
謫居臥病潯陽城。
潯陽地僻無音樂,
終歲不聞絲竹聲。
往近湓城地底濕,
黃蘆苦竹繞宅生。
其間旦暮聞何物,
杜鵑啼血猿哀鳴。
春江花朝秋月夜,
往往取酒還獨傾。
豈無山歌與村笛,
嘔啞嘲哳難為聽。
今夜聞君琵琶語,
如聽仙樂耳暫明。
莫辭更坐彈一曲,
為君翻作琵琶行。
感我此言良久立,
卻坐促弦弦轉急。
淒淒不似向前聲,
滿座重聞皆掩泣。
座中泣下誰最多,
江州司馬青衫濕。
ngochai
20-01-2015, 05:30 PM
.
.
Hán Việt
Tỳ Bà Hành
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt
Chủ nhân há mã khách tại thuyền
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền
Tuý bất thành hoan thảm tương biệt
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt
Hốt văn thuỷ thượng tỳ bà thanh
Chủ nhân vong quy khách bất phát
Tầm thanh âm vấn đàn giả thuỳ
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì
Di thuyền tương cận yêu tương kiến
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến
Thiên hô vạn hoán thuỷ xuất lai
Do bão tỳ bà bán già diện
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh
Vị thành khúc điệu tiên hữu tình
Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ
Tự tố bình sinh bất đắc chí
Đê mi tín thủ tực tực đàn
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự
Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu
Sơ vi Nghê thường hậu Lục yêu
Đại huyền tào tào như cấp vũ
Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ
Tào tào thiết thiết thác tạp đàn
Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt
U yết lưu cảnh thuỷ hạ than
Thuỷ tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt
Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết
Biệt hữu u sầu ám hận sinh
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh
Ngân bình sạ phá thuỷ tương bính
Thiết kỵ đột xuất đao thương minh
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch
Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch
Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch
Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung
Tự ngôn bản thị kinh thành nữ
Gia tại Hà Mô lăng hạ trú
Thập tam học đắc tỳ bà thành
Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ
Khúc bãi tằng giao thiện tài phục
Trang thành mỗi bị Thu Nương đố
Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu
Nhất khúc hồng tiêu bất tri số
Điền đầu ngân tì kích tiết toái
Huyết sắc la quần phiên tửu ố
Kim niên hoan tiếu phục minh niên
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ
Đệ tẩu tòng quân a di tử
Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố
Môn tiền lãnh lạc xa mã hy
Lão đại giá tác thương nhân phụ
Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly
Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ
Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền
Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thuỷ hàn
Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự
Mộng đề trang lệ hồng lan can
Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức
Hựu văn thử ngữ trùng tức tức
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân
Tương phùng hà tất tằng tương thức
Ngã tòng khứ niên từ đế kinh
Trích cư ngoạ bệnh Tầm Dương thành
Tầm Dương địa tích vô âm nhạc
Chung tuế bất văn ty trúc thanh
Trú cận Bồn giang địa thế thấp
Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh
Kỳ gian đán mộ văn hà vật
Đỗ quyên đề huyết viên ai minh
Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ
Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh
Khởi vô sơn ca dữ thôn địch
Âu á triều triết nan vi thính
Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ
Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh
Mạc từ cánh toạ đàn nhất khúc
Vị quân phiên tác Tỳ bà hành
Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập
Khước toạ xúc huyền huyền chuyển cấp
Thê thê bất tự hướng tiền thanh
Mãn toạ trùng văn giai yểm khấp
Toạ trung khấp hạ thuỳ tối đa
Giang Châu tư mã thanh sam thấp.
ngochai
20-01-2015, 05:33 PM
https://hantule.files.wordpress.com/2011/08/tybahanh1.jpg
Dịch Nghĩa
Tỳ Bà Hành
Ban đêm đưa tiễn khách ở đầu sông Tầm Dương
Gió thu thổi vào lá phong, hoa lau hiu hắt
Chủ nhân xuống ngựa, khách trong thuyền
Nâng chén rượu muốn uông (mà) không có đàn sáo
Say mà không vui vẻ gì (vì) biệt ly sầu thảm
Lúc chia tay lòng mang mang, sông đượm bóng trăng
Chợt nghe có tiếng tỳ bà trên mặt nước
Chủ nhân quyên về, khách cũng không khởi hành
Tìm theo tiếng để hỏi người đàn là ai
Tiếng tỳ bà im bặt, muốn nói mà còn (ngại ngùng) trì hoãn
Bèn dời thuyền lại xin được gặp mặt
Rót thêm rượu, khêu đèn lên, trùng tân tiệc rượu
Gọi đến ngàn lần vạn lần mới bước ra
Tay ôm tỳ bà che khuất nửa gương mặt
Vặn trục gảy dây hai ba tiếng (để thử)
Chưa có khúc điệu gì mà nghe đã hữu tình
Dây nào cũng nghẹn ngào, tiếng nào cũng có ý
Bày tỏ nỗi bất đắc chí trong cuộc đời
Hạ thấp lông mày cứ gảy cứ gảy mãi
Giãi bày hết tâm sự vô cùng hạn
Nhẹ nắn, chậm vuốt, rồi lại gảy tiếp
Thoạt đầu là khúc Nghê thường, sau đó là khúc Lục yêu
Dây lớn ào ào như mưa rào
Dây nhỏ nỉ non như tỉ tê chuyện riêng
(Rồi tiếp đến) tiếng rào rào lẫn tiếng nỉ non
(Nghe như) hạt châu lớn hạt châu nhỏ rắc vào trong mân ngọc
(Nghe như) tiếng chim oanh giọng (líu lo) qua lại trong hoa
Nhịp suối ngập ngừng, nước chảy xuống bãi
Suối nước bỗng lạnh đông, dây đàn ngưng bặt
Tiếng đàn ngưng bặt, không thuận, bấy giờ bỗng yên lặng
Tự có mối sầu u uất riêng, nỗi hận âm thầm phát sinh
Lúc này không có âm thanh mà nghe con hay hơn có
(Bỗng dưng nghe như) tiếng nước bắn tung ra khỏi thành bình bạc vị phá vỡ
(Nghe như) đoàn quân thiết kỵ ào ào đến, đao thương sáng ngời
Nàng dạo tay vào giữa bốn dây (và) chấm dứt ca khúc
Bốn dây vang lên một âm thanh như lụa xé
Thuyền mảng đông tây lặng im, không một tiếng nói
Chỉ thấy vầng trăng thu rọi sáng giữa sông
Nàng trầm ngâm gỡ phím, cài vào giữa các dây đàn
Sửa gọn xiêm áo lại, đứng dậy chỉnh vẻ mặt
Tâm sự rằng, nàng nguyên là con gái chốn kinh thành
Nhà ở lăng Hà Mô
Mười ba tuổi học được ngón đàn tỳ bà
Tên thuộc bộ thứ nhất của giáo phường
Mỗi gảy hết khúc đàn, từng khiến các nhà dạy đàn phục
Mỗi trang điểm xong là đến nàng Thu Nương cũng đố kỵ
Những chàng trai trẻ ở Ngũ Lăng tranh nhau tặng biếu
Một bài ca, thưởng không biết bao là tấm lụa đào
Vành lược bạc, cành trâm vàng đánh nhịp vỡ tan
Quần lụa màu huyết dụ để rượu đổ ra hoen ố
Năm này vui cười, năm sau cũng như vậy
Trăng thu gió xuân, trải một đời nhàn hạ
Em trai đi lính, rồi dì chết
Chiều qua, sớm lại, nhan sắc cũng lão đi
Trước cổng dần vắng tanh, thưa thớt đi ngựa xe
Cũng có tuổi rồi mới làm vợ người lái buôn
Người lái buôn chỉ tham lợi, coi thường biệt ly
Tháng trước đi Phù Lương mua trà
Từ đó đến giờ ở đầu sông một mình với con thuyền không
Quanh thuyền trăng sáng, nước sông lạnh lẽo
Đến khuya bỗng mộng thấy lại thời trẻ trung
Trong mộng thấy khóc nhoè má hồng phấn son
Tôi nghe tiếng tỳ bà đã thán tức
Giờ nghe thêm những lời tâm sự lại càng bùi ngùi
Cùng là kẻ luân lạc ở chốn chân trời
Gặp gỡ nhau đây hà tất đã từng quen biết
Năm ngoái tôi từ biệt kinh vua
Bị biếm đến thành Tầm Dương cho đến nay nằm bệnh
Tầm Dương xứ hẻo lánh không có âm nhạc
Cả năm chưa nghe được tiếng đàn sáo
Tôi ở gần sông Bồn, chỗ thấp và ẩm ướt
Lau vàng, trúc võ mọc quanh nhà
Ở nơi đây sáng chiều nghe được những gì
Có tiếng quốc khóc ra máu và tiếng vượn hú bi ai
Mùa xuân sáng hoa nở, mùa thu ban đêm có ánh trăng
Tôi thường thường đem rượu ra uống một mình
Có phải không có sơn ca thôn địch đâu
Khốn nỗi líu lo, líu liết, thật khó nghe
Đêm nay nghe được tiếng tỳ bà của nàng
Như nghe được tiếng nhạc tiên, tai tạm nghe rõ ràng
Xin ngồi lại đàn một khúc
Tôi sẽ vì nàng làm bài Tỳ Bà hành
Cảm động vì lời tôi nói, nàng đứng một lúc lâu
Rồi ngồi xuống gảy đàn, tiếng bỗng chuyển thành cấp xúc
Buồn thảm không giống như tiếng đàn vừa rồi
Hết những người trong tiệc nghe lại đều che mặt khóc
Trong những người ấy ai là người khóc nhiều nhất
Tư mã Giang Châu ướt đẫm vạt áo xanh
ngochai
20-01-2015, 05:36 PM
.
Việt Dịch
(Bản dịch của Phan Huy Thực)
Tỳ Bà Hành
Bến Tầm Dương, canh khuya đưa khách.
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu.
Người xuống ngựa, khách dừng chèo,
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty.
Say những luống ngại khi hầu rẽ,
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong.
Tiếng tỳ chợt vẳng trên sông,
Chủ khuây khoả lại, khách dùng dằng xuôi.
Lần tiếng sẽ hỏi ai đàn tá?
Lửng tiếng đàn, nấn ná làm thinh.
Dời thuyền theo hỏi thăm tình,
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui.
Mời mọc mãi thấy người bỡ ngỡ,
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.
Vặn đàn vài tiếng dạo qua,
Tuy chưa trọn khúc, tình đà thoảng hay.
Nghe não nuột mấy dây bứt rứt,
Dường than niềm tấm tức bấy lâu.
Chau mày, tay gảy khúc sầu,
Giãi bày mọi nỗi trước sau muôn vàn.
Ngón buông, bắt, khoan khoan dìu dặt,
Trước "Nghê thường", sau thoắt "Lục yêu".
Dây to nhường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ như trò chuyện riêng.
Tiếng cao thấp lần chen liền gảy,
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu.
Trong hoa, oanh ríu rít nhau,
Suối tuông róc rách chảy mau xuống ghềnh.
Tiếng suối lạnh, dây mành ngừng tắt,
Ngừng tắt nên phút bặt tiếng tơ.
Ôm sầu, đau giận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng lẽ bấy giờ càng hay.
Bình bạc vỡ tuôn đầy mạch nước,
Ngựa sắt giong, thét ngược tiếng đao.
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông.
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong,
Áo xiêm khép nép hầu mong giải lời.
Rằng xưa vốn là người kẻ chợ,
Cồn Hà Mô trú ở lân la.
Học đàn từ thuở mười ba,
Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên.
Gã thiện tài sợ phen dừng khúc,
Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô.
Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the tấm chuốc mua tiếng đàn.
Vành lược bạc gãy tay nhịp gõ,
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.
Năm năm lần lữa vui cười,
Mải gió trăng chẳng đoái hoài xuân thu.
Buồn em trẩy, lại sầu dì thác,
Lần hôm mai đổi khác hình dung.
Cửa ngoài xe ngựa vắng không,
Thân già mới kết đôi cùng khách thương.
Khách trọng lợi khinh thường ly cách,
Mải buôn chè, sớm tếch miền khơi.
Thuyền không đậu bến mặc ai,
Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng.
Ðêm khuya, sực nhớ vòng tuổi trẻ,
Lệ trong mơ hoen vẻ phấn son.
Nghe đàn ta đã chạnh buồn,
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời.
Cùng một lứa bên trời lận đận,
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.
Từ xa kinh khuyết bấy lâu,
Tầm Dương đất trích, gối sầu hôm mai.
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm.
Sông Bồn gần chốn cát lầm,
Lau vàng, trúc võ nảy mầm quanh hiên.
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối,
Cuốc kêu sầu, vượn hót nỉ non.
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn,
Lần lần tay chuốc chén son riêng ngừng.
Há chẳng có ca rừng địch nội,
Giọng líu lo, nhiều nỗi khó nghe.
Tiếng tỳ nghe dạo canh khuya,
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.
Hãy ngồi lại gảy chơi khúc nữa,
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca.
Tần ngần dường cảm lời ta,
Dén ngồi bắt ngón đàn đà kíp dây.
Nghe não nuột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi.
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.
(Hết TỲ BÀ HÀNH)
ngochai
20-01-2015, 05:56 PM
.
Hán Tự
TRƯỜNG HẬN CA
長恨歌
漢皇重色思傾國
御宇多年求不得
楊家有女初長成
養在深閨人未識
天生麗質難自棄
一朝選在君王側
回眸一笑百媚生
六宮粉黛無顏色
春寒賜浴華清池
溫泉水滑洗凝脂
侍兒扶起嬌無力
始是新承恩澤時
雲鬢花顏金步搖
芙蓉帳暖度春宵
春宵苦短日高起
從此君王不早朝
承歡侍宴無閑暇
春從春遊夜專夜
後宮佳麗三千人
三千寵愛在一身
金星妝成嬌侍夜
玉樓宴罷醉和春
姊妹弟兄皆列士
可憐光彩生門戶
遂令天下父母心
不重生男重生女
驪宮高處入青雲
仙樂風飄處處聞
緩歌慢舞凝絲竹
盡日君王看不足
漁陽鼙鼓動地來
驚破霓裳羽衣曲
九重城闕煙塵生
千乘萬騎西南行
翠華搖搖行復止
西出都門百餘里
六軍不發無奈何
宛轉蛾眉馬前死
花鈿委地無人收
翠翹金雀玉搔頭
君王掩面救不得
回看血淚相和流
黃埃散漫風蕭索
雲棧縈紆登劍閣
峨嵋山下少人行
旌旗無光日色薄
蜀江水碧蜀山青
聖主朝朝暮暮情
行宮見月傷心色
夜雨聞鈴腸斷聲
天旋地轉迴龍馭
到此躊躇不能去
馬嵬坡下泥土中
不見玉顏空死處
君臣相顧盡霑衣
東望都門信馬歸
歸來池苑皆依舊
太液芙蓉未央柳
芙蓉如面柳如眉
對此如何不淚垂
春風桃李花開日
秋雨梧桐葉落時
西宮南內多秋草
落葉滿階紅不掃
梨園子弟白髮新
椒房阿監青娥老
夕殿螢飛思悄然
孤燈挑盡未成眠
遲遲鐘鼓初長夜
耿耿星河欲曙天
鴛鴦瓦冷霜華重
翡翠衾寒誰與共
悠悠生死別經年
魂魄不曾來入夢
臨邛道士鴻都客
能以精誠致魂魄
為感君王輾轉思
遂教方士殷勤覓
排空馭氣奔如電
升天入地求之遍
上窮碧落下黃泉
兩處茫茫皆不見
忽聞海上有仙山
山在虛無縹緲間
樓閣玲瓏五雲起
其中綽約多仙子
中有一人字太真
雪膚花貌參差是
金闕西廂叩玉扃
轉教小玉報雙成
聞道漢家天子使
九華帳裡夢魂驚
攬衣推枕起徘徊
珠箔銀屏迤邐開
雲鬢半偏新睡覺
花冠不整下堂來
風吹仙袂飄飄舉
猶似霓裳羽衣舞
玉容寂寞淚闌干
梨花一枝春帶雨
含情凝睇謝君王
一別音容兩渺茫
昭陽殿裡恩愛絕
蓬萊宮中日月長
回頭下望人寰處
不見長安見塵霧
唯將舊物表深情
鈿合金釵寄將去
釵留一股合一扇
釵擘黃金合分鈿
但教心似金鈿堅
天上人間會相見
臨別殷勤重寄詞
詞中有誓兩心知
七月七日長生殿
夜半無人私語時
在天願作比翼鳥
在地願為連理枝
天長地久有時盡
此恨綿綿無絕期
ngochai
20-01-2015, 05:59 PM
.
Hán Việt
Trường Hận Ca
Hán hoàng trọng sắc tư khuynh quốc
Ngự vũ đa niên cầu bất đắc
Dương gia hữu nữ sơ trưởng thành
Dưỡng tại thâm khuê nhân vị thức
Thiên sinh lệ chất nan tự khí
Nhất triêu tuyển tại quân vương trắc
Hồi mâu nhất tiếu bách mị sinh
Lục cung phấn đại vô nhan sắc
Xuân hàn tứ dục Hoa Thanh trì
Ôn tuyền thuỷ hoạt tẩy ngưng chi
Thị nhi phù khởi kiều vô lực
Thuỷ thị tân thừa ân trạch thì
Vân mấn hoa nhan kim bộ dao
Phù dung trướng noãn độ xuân tiêu
Xuân tiêu khổ đoản nhật cao khởi
Tòng thử quân vương bất tảo triều
Thừa hoan thị yến vô nhàn hạ
Xuân tòng xuân du dạ chuyển dạ
Hậu cung giai lệ tam thiên nhân
Tam thiên sủng ái tại nhất nhân
Kim ốc trang thành kiều thị dạ
Ngọc lâu yến bãi tuý hoà xuân
Tỷ muội huynh đệ giai liệt thổ
Khả liên quang thái sinh môn hộ
Toại linh thiên hạ phụ mẫu tâm
Bất trọng sinh nam trọng sinh nữ
Ly cung cao xứ nhập thanh vân
Tiên nhạc phong phiêu xứ xứ văn
Hoãn ca mạn vũ ngưng ty trúc
Tận nhật quân vương khan bất túc
Ngư Dương bề cổ động địa lai
Kinh phá Nghê thường vũ y khúc
Cửu trùng thành khuyết yên trần sinh
Thiên thặng vạn kỵ tây nam hành
Thuý hoa dao dao hành phục chỉ
Tây xuất đô môn bách dư lý
Lục quân bất phát vô nại hà
Uyển chuyển nga mi mã tiền tử
Hoa điền uỷ địa vô nhân thu
Thuý kiều, kim tước, ngọc tao đầu
Quân vương yểm diện cứu bất đắc
Hồi khan huyết lệ tương hoà lưu
Hoàng ai tản mạn phong tiêu tác
Vân sạn oanh vu đăng Kiếm Các
Nga My sơn hạ thiểu nhân hành
Tinh kỳ vô quang nhật sắc bạc
Thục giang thuỷ bích Thục sơn thanh
Thánh chủ triêu triêu mộ mộ tình
Hành cung kiến nguyệt thương tâm sắc
Dạ vũ văn linh trường đoạn thanh
Thiên tuyền địa chuyển hồi long ngự
Đáo thử trừ trừ bất nhẫn khứ
Mã Ngôi pha hạ nê thổ trung
Bất kiến ngọc nhan không tử xứ
Quân thần tương cố tận triêm y
Đông vọng đô môn tín mã quy
Quy lai trì uyển giai y cựu
Thái Dịch phù dung Vỵ Ương liễu;
Phù dung như diện liễu như mi
Đối thử như hà bất lệ thuỳ
Xuân phong đào lý hoa khai nhật
Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì
Tây Cung, Nam Nội đa thu thảo
Lạc diệp mãn giai hồng bất tảo
Lê viên đệ tử bạch phát tân
Tiêu Phòng a giám thanh nga lão
Tịch điện huỳnh phi tứ tiễu nhiên
Cô đăng khiêu tận vị thành miên
Trì trì chung cổ sơ trường dạ
Cảnh cảnh tinh hà dục thự thiên
Uyên ương ngoã lãnh sương hoa trọng
Phỉ thuỷ khâm hàn thuỳ dữ cộng
Du du sinh tử biệt kinh niên
Hồn phách bất tằng lai nhập mộng
Lâm Cùng đạo sĩ Hồng Đô khách
Năng dĩ tinh thành trí hồn phách
Vị cảm quân vương triển chuyển tư
Toại giao phương sĩ ân cần mịch
Bài không ngự khí bôn như điện
Thăng thiên nhập địa cầu chi biến
Thượng cùng bích lạc hạ hoàng tuyền
Lưỡng xứ mang mang giai bất kiến
Hốt văn hải thượng hữu tiên sơn
Sơn tại hư vô phiếu diểu gian
Lâu các linh lung ngũ vân khởi
Kỳ trung xước ước đa tiên tử
Trung hữu nhất nhân tự Thái Chân
Tuyết phu hoa mạo sâm si thị
Kim khuyết tây sương khấu ngọc quynh
Chuyển giao Tiểu Ngọc báo Song Thành
Văn đạo Hán gia thiên tử sứ
Cửu hoa trướng lý mộng hồn kinh
Lãm y thôi chẩm khởi bồi hồi
Châu bạc ngân bình di lý khai
Vân kết bán thiên tân thuỵ giác
Hoa quan bất chỉnh há đường lai
Phong xuy tiên duệ phiêu phiêu cử
Do tự Nghê Thường vũ y vũ
Ngọc dung tịch mịch lệ lan can
Lê hoa nhất chi xuân đới vũ
Hàm tình ngưng thế tạ quân vương
Nhất biệt tâm dung lưỡng diểu mang!
Chiêu Dương điện lý ân ái tuyệt
Bồng Lai cung trung nhật nguyệt trường
Hồi đầu hạ vọng nhân hoàn xứ
Bất kiến Trường An kiến trần vụ
Duy tương cựu vật biểu thâm tình
Điến hạp kim hoa ký tương khứ
Thoa lưu nhất cổ, hạp nhất phiến
Thoa tích hoàng kim hạp phân điến
Đãn giao tâm tự kim điến kiên
Thiên thượng nhân gian hội tương kiến
Lâm biệt ân cần trung ký từ
Từ trung hữu thệ lưỡng tâm tri:
Thất nguyệt thất nhật Trường Sinh điện
Dạ bán vô nhân tư ngữ thì
"Tại thiên nguyệt tác tỷ dực điểu
Tại địa nguyện vi liên lý chi"
Thiên trường địa cửu hữu thì tận
Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ
ngochai
20-01-2015, 06:02 PM
.
Dịch Nghĩa
Trường Hận Ca
Vua Hán trọng sắc đẹp, muốn có một người nghiêng nước nghiêng thành
Ở ngôi bao năm tìm kiếm không được
Họ Dương có cô gái mới lớn lên
Nuôi dạy ở nơi buồng the, người ngoài chưa ai biết
Vẻ đẹp trời sinh khó tự bỏ hoài,
Một sớm được tuyển vào bên vua
Mỗi lần ngoành mặt, nhoẻn cười lộ ra trăm vẻ đáng yêu
Sáu cung son phấn không còn ai đáng gọi là có nhan sắc nữa
Tiết xuân lạnh, được tắm ở hồ Hoa Thanh
Suối ấm, nước trơn dội trên da trắng mịn như mỡ đông
Thị tỳ nâng dậy, yếu mềm như không còn sức nữa
Ấy là lần đầu tiên được thấm nhuần ơn vua
Tóc mây, mặt hoa, những chuỗi ngọc trên đầu rung rinh
Trướng phù dung ấm trải qua đêm xuân
Bực nỗi đêm xuân ngắn ngủi, mặt trời lên cao rồi mới dậy
Từ đấy vua không ra coi chầu sớm nữa
Khi mua vui, khi hầu tiệc, chẳng lúc nào ngơi
Mùa xuân theo đi chơi xuân, đêm nào cũng là đêm riêng của nàng với vua
Gái đẹp nơi hậu cung hàng ba ngìn người,
Tình yêu thương đối với ba ngìn người ấy nay trút cả vào mình nàng
Nơi nhà vàng, trang hoàng xong, là chỗ của những đêm hầu hạ nũng nịu
Tiệc lầu ngọc, tan rồi là buổi say sưa với cả chiều xuân êm ái!
Chị em, anh em đều đước cắt đất phong quan
Thương thay! Một mình làm vẻ vang cho cả nhà cả họ!!
Khiến cho lòng những người làm cha mẹ trong thiên hạ
Quý sinh con gái hơn sinh trai
Cung điện trên núi Ly Sơn cao vút mây xanh
Khúc nhạc tiên theo gió đưa đi, nơi nơi nghe tiếng
Giọng ca trầm trầm, điệu múa khoan hoà với tiếng đàn tiếng sáo
Suốt ngày vua xem không xuể
Tiếng trống trận Ngư Dương bỗng dậy đất kéo đến
Làm cho điệu múa Nghê thường vũ y tan tác kinh hoàng
Chín lần thành khuyết, khói bụi mịt mù
Ngìn cỗ xe, muôn cỗ ngựa chạy về tây nam
Tàn thắm, cờ hoa ngả nghiêng dùng dằng
Đi ra phía tây, khỏi cổng thành được hơn trăm dặm
Bỗng sáu quân không chịu tiến, tình thế khó xong
Gái mày ngày phải quằn quại chết trước đầu ngựa
Bông hoa vàng, cành thuý kiều, hình kim tước và trâm ngọc cài đầu
Rơi rắc trên mặt đất chẳng còn ai nhặt
Cứu không nổi, vua đành bưng mặt
Khi nhìn lại, máu pha nước mắt đã chảy ròng ròng
Bụi vàng tản mát bay, gió hiu hắt thổi
Những đợt thang mây vẫn uốn khúc cheo leo tren núi Kiếm Các
Dưới chân núi Nga My (ở tỉnh Tứ Xuyên ngày nay) thưa thớt người đi
Bóng cờ ủ rũ, ánh mặt trời bạc phếch
Sông đất Thục (nay là tỉnh Tứ Xuyên) biếc, núi đất Thục xanh
Tình vua nhớ nhung hết sớm lại chiều
Ánh trăng nơi hành cung, trông những đau lòng
Tiếng kiểng lúc đêm mưa, nghe càng đứt ruột
Trời xoay đất chuyển, xe rồng (xe của vua) lại trở về
Tới đó (chỉ bãi Mã Ngôi, nơi Dương Quí Phi chết) dùng dằng không nỡ dời chân
Trong đống đất bùn, trên bãi Mã Ngôi
Mặt ngọc nào thấy đâu, còn trơ chỗ thác uổng!
Vua tôi nhìn nhau, ai nấy lệ rơi thấm áo
Hướng về phương đông, phía cổng thành mặc cho vó ngựa quen đường lững thững bước về
Tới nơi, ao vườn vẫn nguyên như cũ
Sen hồ Thái Dịch, liễu cung Vị Ương,
Thấy hoa sen, nhớ đến mặt nàng, thấy lá liễu, nhớ lông mày nàng
Trước cảnh ấy, cầm sao được giọt lệ!
Những buổi gió xuân, đào lý nở hoa
Những lúc mưa thu, ngô đồng rụng lá
Đền Tây Cung, điện Nam Nội cỏ thu mọc đầy
Lá rụng tơi bời, đỏ thềm không ai quét
Bọn con em nơi lê viên tóc đà nhuốm bạc
Lũ thái giám, thị tỳ chốn Tiêu Phòng cũng đã già rồi
Trước điện, buổi tối, cái đóm bay, cảnh tình lặng ngắt
Ngọn đèn vò võ khêu đã hết bấc, giấc mộng vẫn chưa thành
Tiếng trống cầm canh chầm chậm của đêm mới bắt đầu dài
Ánh sao lấp lánh trên sông Ngân lúc trời sắp sáng
Lớp sương nặng phủ trên mái ngói uyên ương giá ngắt
Tấm chăn cánh trả, lạnh như tiền, chung đắp cùng ai ?
Kẻ khuất người còn xa nhau đã hơn năm trời đằng đẵng
Hồn phách chưa từng gặp nhau trong giấc chiêm bao
Một đạo sĩ ở Lâm Cùng, đến chơi Hồng Đô
Có phép thuật tinh thành gọi được hồn phách người chết
Vì cảm nỗi lòng vua nhớ nhung trằn trọc
Mới sai phương sĩ (đạo sĩ) hết lòng tìm kiếm:
Xé tầng mây, cưỡi làn gió, đi nhanh như chớp
Lên trời, xuống đất, tìm khắp mọi nơi
Trên từ mây biếc, dưới đến suối vàng
Cả hai nơi đều mênh mang không thấy
Chợt nghe ở ngoài bể cổ có ngọn núi tiên
Núi rập rờn trong khoảng hư vô huyền ảo
Lầu gác lộng lẫy, năm thức mây lồng
Có bao nàng tiên thướt tha yểu điệu
Trong đó, một nàng tên gọi Thái Chân
Da tuyết, mặt hoa na ná giống
Gõ cửa ngọc mái tây nơi kim khuyết
Nhờ Tiểu Ngọc, truyền bảo đến Song Thành (tên hai tiên nữ)
Nghe có sứ vua Hán tới
Trong màn cửa hoa giật mình tỉnh giấc
Khép áo, đẩy gối, bồi hồi trở dậy
Cánh rèm châu, bức mành bạc từ từ mở ra
Bối tóc mây hơi lệch, vẻ còn ngái ngủ
Mũ hoa đội chưa ngay, vội bước xuống thềm
Gió thổi, vạt áo nhẹ nhẹ bay
Hệt như lúc đang múa khúc Nghê thường y vũ
Vẻ ngọc âm thầm, vắn dài hàng lệ,
Một cành hoa lệ đẫm hạt mưa xuân
Đăm đăm khoé mắt, nghẹn ngào "Đa tạ lòng quân vương"
"Một lần từ biệt đôi ngả cách mặt khuất lời
"Tình ân ái ở Chiêu Dương thế là đoạn tuyệt
"Ngày tháng trong cung Bồng Lai dài đằng đẵng
"Ngoảnh mặt nhìn xuống cõi đời
"Không ktháy Trường An, chỉ thấy bụi trần mù mịt
"Nay xin mượn vật cũ để tỏ chút tình thâm
"Chiếc hộp khảm, cành kim thoa, gửi mang về giúp
"Thoa để lại một nhành, hộp để lại một mảnh
Thoa bẻ nhánh vàng, hộp chia mảnh khảm
Chỉ nguyệt tấm lòng bền như vàng như khảm
"Kẻ trên đời, người trần thế sẽ còn gặp nhau!
Lúc sắp từ biệt còn ân cần nhắc gửi mấy lời
Trong đó có lời thề riêng, chỉ hai tấm lòng được biết
Đó là đêm mồng bảy tháng bày, tại điện Trường Sinh
Nửa đêm, người vắng, thề riêng với nhau:
"Ở trên trời nguyện làm chim liền cánh,
Ở dưới đất nguyện làm cây liền cành"
Trời đất dài lâu cũng có lúc hết
Hận này đằng dặc, không thủa nào cùng!
ngochai
20-01-2015, 06:09 PM
.
Bản dịch của Tản Đà
Trường Hận Ca
Đức vua Hán mến người khuynh quốc
Trải bao năm tìm chuốc công tai
Nhà Dương có gái mới choai
Buồn xuân khoá kín chưa ai bạn cùng
Lạ gì của tuyết đông ngọc đúc
Chốn ngai vàng phút chốc ngồi bên
Một cười trăm vẻ thiên nhiên
Sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son
Trời xuân lạnh suối tuôn mạch ấm
Da mỡ đông kỳ tắm ao Hoa
Vua yêu bận ấy mới là
Con hầu nâng dậy coi đà mệt thay
Vàng nhẹ bước lung lay tóc mái
Màn phù dung êm ái đêm xuân
Đêm xuân vắn vủn có ngần
Ngai rồng từ đấy chậm phần vua ra
Suốt ngày tháng tiệc hoa vui mãi
Đêm xuân tàn, xuân lại còn đêm
Ba ngìn xinh đẹp chị em
Ba ngìn yêu quí chất nêm một mình
Nhà vàng đúc, đêm thanh ấm áp
Lầu ngọc cao, say ắp mầu xuân
Anh em sướng đủ mọi phần
Mà cho thiên hạ có lần rẻ trai
Vẳng tiên nhạc khắp nơi nghe biết
Làn gió đưa cao tít Ly cung
Suốt ngày múa hát thung dung
Tiếng tơ, tiếng trúc say lòng quân vương
Ầm tiếng trống Ngư Dương kéo đến
Khúc Nghê Thường tan biến như không
Chín lần thành khuyết bị tung
Nghìn xe, muôn ngựa qua vùng Tây Nam
Đi lại đứng hơn trăm dậm đất
Cờ thuý hoa bóng phất lung lay
Sáu quân rúng rắng làm rầy
Mày ngài trước ngựa lúc này thương ôi!
Ai người nhặt thoa rơi bỏ đất
Ôi! Thuý Kiều ngọc nát vàng phai
Quân vương bưng mặt cho rồi
Quay đầu trông lại, máu trôi lệ dàn
Gió tung bụi mê man tản mác
Đường thang mây Kiếm Các lần đi
Vắng tanh, dưới núi Nga My
Mặt trời nhạt thếch, tinh kỳ buồn tênh
Đát Ba Thục non xanh nước biếc
Lòng vua cha thương tiếc hôm mai
Thấy trăng luống những đau người
Đêm mưa đứt ruột, canh dài tiếng chuông
Phút trời đất quay cuồng vận số
Bánh xe rồng đến chỗ ngày xưa
Đất bùn chỗ chết còn trơ
Thấy đâu mặt ngọc! Bây giờ Mã Ngôi!
Đầm vạt áo, vua tôi giọt lệ
Gióng dây cương, ngựa tế về đông
Cảnh xua dương liễu, phù dung
Vị Ương, Thái Dịch hồ cung vẹn mười
Phù dung đó, mặt ai đâu tá?
Mày liễu đâu? Cho lá còn như
Càng trông hoa liễu năm xưa
Càng xui nước mắt như mưa ướt đầm
Xuân đào lý gió đêm huê nở
Thu khi mưa rụng lá ngô đồng
Kìa Nam Uyển, nọ Tây Cung
Đầy thềm ai quét lá hồng thu rơi?
Vườn lê cũ những ai con hát?
Mái tóc coi trắng phớt lạ lùng
Những ai coi giữ tiêu phòng?
Mày xanh thuở ấy nay cùng già nhăn
Trước cung điện nhìn sân đêm tối
Đom đóm bay gợi mối u sầu
Ngọn đền khêu đã cạn dầu
Khó thay, giấc ngủ dễ hầu ngủ xong!
Tiếng canh tối tùng tùng điểm trống
Năm canh dài chẳng giống đêm xưa
Sông Ngân lấp lánh sao thưa
Trời như muốn sáng, sao chưa sáng trời?
Tren mái ngói sương rơi ướt lạnh
Trong chăn nằm bên cạnh nào ai?
Cách năm sống thác đôi nơi
Thấy đâu hồn phách vãng lai giấc nồng?
Khách đạo sĩ Lâm Cùng có gã
Chơi Hồng Đô phép lạ thần thông
Xót vì vua chúa nhớ nhung
Mới sai phương sĩ hết lòng ra tay
Cưỡi luồng gió như bay như biến
Tren trời xanh, dưới đến đất đen
Hai nơi bích lạc, hoàng tuyền
Dưới tren tìm khắp mơ huyền thấy chi!
Sực nghe nói tìm đi mé bể,
Có non tiên ngoài phía hư không
Rỡ ràng cugn điện linh lung
Xa trông năm sắc mây lồng đẹp sao!
Trong tha thướt biết bao tiên tử
Một nàng tiên tên chữ Ngọc Chân
Mặt hoa da tuyết trắng ngần
Dáng như người ấy có phần phải chăng?
Mái tây gõ cửa vàng then ngọc
Cậy đưa tin Tiểu Ngọc, Song Thành
Nghe tin sứ giả Hán Đình
Cửa hoa trong trướng giật mình giấc mơ
Cầm áo dậy, thẩn thơ buồn bực,
Mở rèm châu, bình bạc lần ra
Bâng khoâng nửa mái mây tà
Thềm cao xuống chiếc mũ hoa lệch đầu
Phớt tay áo bay màu ngọn gió
Giống Nghê Thường khúc múa năm xưa
Lệ dàn mặt ngọc lưa thưa
Cành lê hoa trĩu hạt mưa xuân đầm
Ngừng nước mắt âm thầm buồn bã
Đội ơn lòng, xin tạ quân vương
Từ ngày cách trở đôi phương
Vắng tanh tăm tiếng, mơ màng hình dong
Nơi đế điện dứt vòng ân ái
Chốn tiên cugn thư thái hàng ngày
Cõi trần ngoảnh lại mà hay
Tràng An chẳng thấy, thấy đầy bụi nhơ!
Lấy chi tỏ tình xưa thăm thú?
Gửi cành hoa vật cũ cầm xuôi
Thoa vàng hộp khảm phân đôi
Nửa xin để lại nửa thời đem đi
Chỉ xin nguyện lòng ghi dạ tạc
Tựa hoa vàng bền chắc không phai
Thời cho cách trở đôi nơi
Nhân gian rồi với trên trời gặp nhau
Ân cần dặn mấy câu lâm biệt
Lời thề xưa lòng biết với lòng
Là đêm trùng thất ngồi chung
Trường Sinh sẵn điện vắng không bóng người
Xin kết nguyện chim trời liền cánh
Xin làm cây cành nhánh liền nhau
Thấm chi trời đất dài lâu
Giận này dặc dặc dễ hầu có nguôi...
Nguồn: Tiểu thuyết thứ bảy, số 31 (29-12-1934) và số 33 (12-1-1935)
ngochai
20-01-2015, 06:17 PM
.
Hán Tự
答 微 之
君寫我詩盈寺壁,
我題君句滿屏風。
與君相遇知何處,
兩葉浮萍大海中。
Hán Việt
Đáp Vi Chi
Quân tả ngã thi doanh tự bích,
Ngã đề quân cú mãn bình phong.
Dữ quân tương ngộ tri hà xứ,
Lưỡng diệp phù bình đại hải trung.
Việt Dịch
Trả Lời Vi Chi
Bác chép thơ tôi, chùa vách biếc,
Tôi ghi văn bác kín bình phong.
Cùng ai hội ngộ, nơi nào biết,
Hai cánh bèo trôi giữa sóng lồng.
(dịch thơ: MaiLang)
ngochai
20-01-2015, 06:22 PM
.
Hán Tự
東 亭 閑 望
東亭盡日坐,
誰伴寂寥人?
綠桂為佳客,
紅蕉當美人。
笑言雖不接,
情狀似相親。
不作悠悠想,
如何度晚春?
Hán Việt
Đông đình nhàn vọng
Đông đình tận nhật toạ,
Thuỳ bạn tịch liêu nhân?
Lục quế vi giai khách,
Hồng tiêu đương mỹ nhân.
Tiếu ngôn tuy bất tiếp,
Tình trạng tự tương thân.
Bất tác du du tưởng,
Như hà độ vãn xuân?
Dịch Nghĩa
Cả ngày ngồi ở đình phía đông,
Ai sẽ là bạn cho kẻ nhàn nhã này ?
Cây quế xanh có thể là vị khách quý,
Cây chuối hồng đáng mặt người đẹp.
Tuy không trực tiếp nói cười nói được,
Nhưng tình trạng như thật thân thiết.
Nếu không tưởng tượng rộng rãi như vậy,
Làm sao ta có thể qua được những ngày xuân muộn này ?
Dịch Thơ
Ngồi đình đông cả ngày không vội
Ai sẽ là bạn với kẻ này ?
Quế xanh khách quý xứng vai
Chuối hồng đáng mặt cho người xinh tươi
Tuy không biết nói cười thành tiếng
Nhưng tình hình tiềm tiệm thiết thân
Nếu không tưởng tượng mênh mông
Làm sao qua được ngày xuân muộn màng ?
(dịch thơ: Nguyễn Minh)
trai_xu_doai
21-01-2015, 09:43 AM
https://hantule.files.wordpress.com/2011/08/tybahanh1.jpg
Dịch Nghĩa
Tỳ Bà Hành
Ban đêm đưa tiễn khách ở đầu sông Tầm Dương
Gió thu thổi vào lá phong, hoa lau hiu hắt
Chủ nhân xuống ngựa, khách trong thuyền
Nâng chén rượu muốn uông (mà) không có đàn sáo
Say mà không vui vẻ gì (vì) biệt ly sầu thảm
Lúc chia tay lòng mang mang, sông đượm bóng trăng
Chợt nghe có tiếng tỳ bà trên mặt nước
Chủ nhân quyên về, khách cũng không khởi hành
Tìm theo tiếng để hỏi người đàn là ai
Tiếng tỳ bà im bặt, muốn nói mà còn (ngại ngùng) trì hoãn
Bèn dời thuyền lại xin được gặp mặt
Rót thêm rượu, khêu đèn lên, trùng tân tiệc rượu
Gọi đến ngàn lần vạn lần mới bước ra
Tay ôm tỳ bà che khuất nửa gương mặt
Vặn trục gảy dây hai ba tiếng (để thử)
Chưa có khúc điệu gì mà nghe đã hữu tình
Dây nào cũng nghẹn ngào, tiếng nào cũng có ý
Bày tỏ nỗi bất đắc chí trong cuộc đời
Hạ thấp lông mày cứ gảy cứ gảy mãi
Giãi bày hết tâm sự vô cùng hạn
Nhẹ nắn, chậm vuốt, rồi lại gảy tiếp
Thoạt đầu là khúc Nghê thường, sau đó là khúc Lục yêu
Dây lớn ào ào như mưa rào
Dây nhỏ nỉ non như tỉ tê chuyện riêng
(Rồi tiếp đến) tiếng rào rào lẫn tiếng nỉ non
(Nghe như) hạt châu lớn hạt châu nhỏ rắc vào trong mân ngọc
(Nghe như) tiếng chim oanh giọng (líu lo) qua lại trong hoa
Nhịp suối ngập ngừng, nước chảy xuống bãi
Suối nước bỗng lạnh đông, dây đàn ngưng bặt
Tiếng đàn ngưng bặt, không thuận, bấy giờ bỗng yên lặng
Tự có mối sầu u uất riêng, nỗi hận âm thầm phát sinh
Lúc này không có âm thanh mà nghe con hay hơn có
(Bỗng dưng nghe như) tiếng nước bắn tung ra khỏi thành bình bạc vị phá vỡ
(Nghe như) đoàn quân thiết kỵ ào ào đến, đao thương sáng ngời
Nàng dạo tay vào giữa bốn dây (và) chấm dứt ca khúc
Bốn dây vang lên một âm thanh như lụa xé
Thuyền mảng đông tây lặng im, không một tiếng nói
Chỉ thấy vầng trăng thu rọi sáng giữa sông
Nàng trầm ngâm gỡ phím, cài vào giữa các dây đàn
Sửa gọn xiêm áo lại, đứng dậy chỉnh vẻ mặt
Tâm sự rằng, nàng nguyên là con gái chốn kinh thành
Nhà ở lăng Hà Mô
Mười ba tuổi học được ngón đàn tỳ bà
Tên thuộc bộ thứ nhất của giáo phường
Mỗi gảy hết khúc đàn, từng khiến các nhà dạy đàn phục
Mỗi trang điểm xong là đến nàng Thu Nương cũng đố kỵ
Những chàng trai trẻ ở Ngũ Lăng tranh nhau tặng biếu
Một bài ca, thưởng không biết bao là tấm lụa đào
Vành lược bạc, cành trâm vàng đánh nhịp vỡ tan
Quần lụa màu huyết dụ để rượu đổ ra hoen ố
Năm này vui cười, năm sau cũng như vậy
Trăng thu gió xuân, trải một đời nhàn hạ
Em trai đi lính, rồi dì chết
Chiều qua, sớm lại, nhan sắc cũng lão đi
Trước cổng dần vắng tanh, thưa thớt đi ngựa xe
Cũng có tuổi rồi mới làm vợ người lái buôn
Người lái buôn chỉ tham lợi, coi thường biệt ly
Tháng trước đi Phù Lương mua trà
Từ đó đến giờ ở đầu sông một mình với con thuyền không
Quanh thuyền trăng sáng, nước sông lạnh lẽo
Đến khuya bỗng mộng thấy lại thời trẻ trung
Trong mộng thấy khóc nhoè má hồng phấn son
Tôi nghe tiếng tỳ bà đã thán tức
Giờ nghe thêm những lời tâm sự lại càng bùi ngùi
Cùng là kẻ luân lạc ở chốn chân trời
Gặp gỡ nhau đây hà tất đã từng quen biết
Năm ngoái tôi từ biệt kinh vua
Bị biếm đến thành Tầm Dương cho đến nay nằm bệnh
Tầm Dương xứ hẻo lánh không có âm nhạc
Cả năm chưa nghe được tiếng đàn sáo
Tôi ở gần sông Bồn, chỗ thấp và ẩm ướt
Lau vàng, trúc võ mọc quanh nhà
Ở nơi đây sáng chiều nghe được những gì
Có tiếng quốc khóc ra máu và tiếng vượn hú bi ai
Mùa xuân sáng hoa nở, mùa thu ban đêm có ánh trăng
Tôi thường thường đem rượu ra uống một mình
Có phải không có sơn ca thôn địch đâu
Khốn nỗi líu lo, líu liết, thật khó nghe
Đêm nay nghe được tiếng tỳ bà của nàng
Như nghe được tiếng nhạc tiên, tai tạm nghe rõ ràng
Xin ngồi lại đàn một khúc
Tôi sẽ vì nàng làm bài Tỳ Bà hành
Cảm động vì lời tôi nói, nàng đứng một lúc lâu
Rồi ngồi xuống gảy đàn, tiếng bỗng chuyển thành cấp xúc
Buồn thảm không giống như tiếng đàn vừa rồi
Hết những người trong tiệc nghe lại đều che mặt khóc
Trong những người ấy ai là người khóc nhiều nhất
Tư mã Giang Châu ướt đẫm vạt áo xanh
Tuyệt vời ! Xưa nay thường ngại đọc vì thấy thơ quá dài. Thế nhưng, có đọc hết mới thấy cái hay, rất hay của tỳ bà hành.
trai_xu_doai
21-01-2015, 09:59 AM
.
Dịch Nghĩa
Trường Hận Ca
Vua Hán trọng sắc đẹp, muốn có một người nghiêng nước nghiêng thành
Ở ngôi bao năm tìm kiếm không được
Họ Dương có cô gái mới lớn lên
Nuôi dạy ở nơi buồng the, người ngoài chưa ai biết
Vẻ đẹp trời sinh khó tự bỏ hoài,
Một sớm được tuyển vào bên vua
Mỗi lần ngoành mặt, nhoẻn cười lộ ra trăm vẻ đáng yêu
Sáu cung son phấn không còn ai đáng gọi là có nhan sắc nữa
Tiết xuân lạnh, được tắm ở hồ Hoa Thanh
Suối ấm, nước trơn dội trên da trắng mịn như mỡ đông
Thị tỳ nâng dậy, yếu mềm như không còn sức nữa
Ấy là lần đầu tiên được thấm nhuần ơn vua
Tóc mây, mặt hoa, những chuỗi ngọc trên đầu rung rinh
Trướng phù dung ấm trải qua đêm xuân
Bực nỗi đêm xuân ngắn ngủi, mặt trời lên cao rồi mới dậy
Từ đấy vua không ra coi chầu sớm nữa
Khi mua vui, khi hầu tiệc, chẳng lúc nào ngơi
Mùa xuân theo đi chơi xuân, đêm nào cũng là đêm riêng của nàng với vua
Gái đẹp nơi hậu cung hàng ba ngìn người,
Tình yêu thương đối với ba ngìn người ấy nay trút cả vào mình nàng
Nơi nhà vàng, trang hoàng xong, là chỗ của những đêm hầu hạ nũng nịu
Tiệc lầu ngọc, tan rồi là buổi say sưa với cả chiều xuân êm ái!
Chị em, anh em đều đước cắt đất phong quan
Thương thay! Một mình làm vẻ vang cho cả nhà cả họ!!
Khiến cho lòng những người làm cha mẹ trong thiên hạ
Quý sinh con gái hơn sinh trai
Cung điện trên núi Ly Sơn cao vút mây xanh
Khúc nhạc tiên theo gió đưa đi, nơi nơi nghe tiếng
Giọng ca trầm trầm, điệu múa khoan hoà với tiếng đàn tiếng sáo
Suốt ngày vua xem không xuể
Tiếng trống trận Ngư Dương bỗng dậy đất kéo đến
Làm cho điệu múa Nghê thường vũ y tan tác kinh hoàng
Chín lần thành khuyết, khói bụi mịt mù
Ngìn cỗ xe, muôn cỗ ngựa chạy về tây nam
Tàn thắm, cờ hoa ngả nghiêng dùng dằng
Đi ra phía tây, khỏi cổng thành được hơn trăm dặm
Bỗng sáu quân không chịu tiến, tình thế khó xong
Gái mày ngày phải quằn quại chết trước đầu ngựa
Bông hoa vàng, cành thuý kiều, hình kim tước và trâm ngọc cài đầu
Rơi rắc trên mặt đất chẳng còn ai nhặt
Cứu không nổi, vua đành bưng mặt
Khi nhìn lại, máu pha nước mắt đã chảy ròng ròng
Bụi vàng tản mát bay, gió hiu hắt thổi
Những đợt thang mây vẫn uốn khúc cheo leo tren núi Kiếm Các
Dưới chân núi Nga My (ở tỉnh Tứ Xuyên ngày nay) thưa thớt người đi
Bóng cờ ủ rũ, ánh mặt trời bạc phếch
Sông đất Thục (nay là tỉnh Tứ Xuyên) biếc, núi đất Thục xanh
Tình vua nhớ nhung hết sớm lại chiều
Ánh trăng nơi hành cung, trông những đau lòng
Tiếng kiểng lúc đêm mưa, nghe càng đứt ruột
Trời xoay đất chuyển, xe rồng (xe của vua) lại trở về
Tới đó (chỉ bãi Mã Ngôi, nơi Dương Quí Phi chết) dùng dằng không nỡ dời chân
Trong đống đất bùn, trên bãi Mã Ngôi
Mặt ngọc nào thấy đâu, còn trơ chỗ thác uổng!
Vua tôi nhìn nhau, ai nấy lệ rơi thấm áo
Hướng về phương đông, phía cổng thành mặc cho vó ngựa quen đường lững thững bước về
Tới nơi, ao vườn vẫn nguyên như cũ
Sen hồ Thái Dịch, liễu cung Vị Ương,
Thấy hoa sen, nhớ đến mặt nàng, thấy lá liễu, nhớ lông mày nàng
Trước cảnh ấy, cầm sao được giọt lệ!
Những buổi gió xuân, đào lý nở hoa
Những lúc mưa thu, ngô đồng rụng lá
Đền Tây Cung, điện Nam Nội cỏ thu mọc đầy
Lá rụng tơi bời, đỏ thềm không ai quét
Bọn con em nơi lê viên tóc đà nhuốm bạc
Lũ thái giám, thị tỳ chốn Tiêu Phòng cũng đã già rồi
Trước điện, buổi tối, cái đóm bay, cảnh tình lặng ngắt
Ngọn đèn vò võ khêu đã hết bấc, giấc mộng vẫn chưa thành
Tiếng trống cầm canh chầm chậm của đêm mới bắt đầu dài
Ánh sao lấp lánh trên sông Ngân lúc trời sắp sáng
Lớp sương nặng phủ trên mái ngói uyên ương giá ngắt
Tấm chăn cánh trả, lạnh như tiền, chung đắp cùng ai ?
Kẻ khuất người còn xa nhau đã hơn năm trời đằng đẵng
Hồn phách chưa từng gặp nhau trong giấc chiêm bao
Một đạo sĩ ở Lâm Cùng, đến chơi Hồng Đô
Có phép thuật tinh thành gọi được hồn phách người chết
Vì cảm nỗi lòng vua nhớ nhung trằn trọc
Mới sai phương sĩ (đạo sĩ) hết lòng tìm kiếm:
Xé tầng mây, cưỡi làn gió, đi nhanh như chớp
Lên trời, xuống đất, tìm khắp mọi nơi
Trên từ mây biếc, dưới đến suối vàng
Cả hai nơi đều mênh mang không thấy
Chợt nghe ở ngoài bể cổ có ngọn núi tiên
Núi rập rờn trong khoảng hư vô huyền ảo
Lầu gác lộng lẫy, năm thức mây lồng
Có bao nàng tiên thướt tha yểu điệu
Trong đó, một nàng tên gọi Thái Chân
Da tuyết, mặt hoa na ná giống
Gõ cửa ngọc mái tây nơi kim khuyết
Nhờ Tiểu Ngọc, truyền bảo đến Song Thành (tên hai tiên nữ)
Nghe có sứ vua Hán tới
Trong màn cửa hoa giật mình tỉnh giấc
Khép áo, đẩy gối, bồi hồi trở dậy
Cánh rèm châu, bức mành bạc từ từ mở ra
Bối tóc mây hơi lệch, vẻ còn ngái ngủ
Mũ hoa đội chưa ngay, vội bước xuống thềm
Gió thổi, vạt áo nhẹ nhẹ bay
Hệt như lúc đang múa khúc Nghê thường y vũ
Vẻ ngọc âm thầm, vắn dài hàng lệ,
Một cành hoa lệ đẫm hạt mưa xuân
Đăm đăm khoé mắt, nghẹn ngào "Đa tạ lòng quân vương"
"Một lần từ biệt đôi ngả cách mặt khuất lời
"Tình ân ái ở Chiêu Dương thế là đoạn tuyệt
"Ngày tháng trong cung Bồng Lai dài đằng đẵng
"Ngoảnh mặt nhìn xuống cõi đời
"Không ktháy Trường An, chỉ thấy bụi trần mù mịt
"Nay xin mượn vật cũ để tỏ chút tình thâm
"Chiếc hộp khảm, cành kim thoa, gửi mang về giúp
"Thoa để lại một nhành, hộp để lại một mảnh
Thoa bẻ nhánh vàng, hộp chia mảnh khảm
Chỉ nguyệt tấm lòng bền như vàng như khảm
"Kẻ trên đời, người trần thế sẽ còn gặp nhau!
Lúc sắp từ biệt còn ân cần nhắc gửi mấy lời
Trong đó có lời thề riêng, chỉ hai tấm lòng được biết
Đó là đêm mồng bảy tháng bày, tại điện Trường Sinh
Nửa đêm, người vắng, thề riêng với nhau:
"Ở trên trời nguyện làm chim liền cánh,
Ở dưới đất nguyện làm cây liền cành"
Trời đất dài lâu cũng có lúc hết
Hận này đằng dặc, không thủa nào cùng!
Hay lắm thôi !
thieugia
21-01-2015, 11:31 AM
.
Bản dịch của Tản Đà
Trường Hận Ca
Đức vua Hán mến người khuynh quốc
Trải bao năm tìm chuốc công tai
Nhà Dương có gái mới choai
Buồn xuân khoá kín chưa ai bạn cùng
Lạ gì của tuyết đông ngọc đúc
Chốn ngai vàng phút chốc ngồi bên
Một cười trăm vẻ thiên nhiên
Sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son
Trời xuân lạnh suối tuôn mạch ấm
Da mỡ đông kỳ tắm ao Hoa
Vua yêu bận ấy mới là
Con hầu nâng dậy coi đà mệt thay
Vàng nhẹ bước lung lay tóc mái
Màn phù dung êm ái đêm xuân
Đêm xuân vắn vủn có ngần
Ngai rồng từ đấy chậm phần vua ra
Suốt ngày tháng tiệc hoa vui mãi
Đêm xuân tàn, xuân lại còn đêm
Ba ngìn xinh đẹp chị em
Ba ngìn yêu quí chất nêm một mình
Nhà vàng đúc, đêm thanh ấm áp
Lầu ngọc cao, say ắp mầu xuân
Anh em sướng đủ mọi phần
Mà cho thiên hạ có lần rẻ trai
Vẳng tiên nhạc khắp nơi nghe biết
Làn gió đưa cao tít Ly cung
Suốt ngày múa hát thung dung
Tiếng tơ, tiếng trúc say lòng quân vương
Ầm tiếng trống Ngư Dương kéo đến
Khúc Nghê Thường tan biến như không
Chín lần thành khuyết bị tung
Nghìn xe, muôn ngựa qua vùng Tây Nam
Đi lại đứng hơn trăm dậm đất
Cờ thuý hoa bóng phất lung lay
Sáu quân rúng rắng làm rầy
Mày ngài trước ngựa lúc này thương ôi!
Ai người nhặt thoa rơi bỏ đất
Ôi! Thuý Kiều ngọc nát vàng phai
Quân vương bưng mặt cho rồi
Quay đầu trông lại, máu trôi lệ dàn
Gió tung bụi mê man tản mác
Đường thang mây Kiếm Các lần đi
Vắng tanh, dưới núi Nga My
Mặt trời nhạt thếch, tinh kỳ buồn tênh
Đát Ba Thục non xanh nước biếc
Lòng vua cha thương tiếc hôm mai
Thấy trăng luống những đau người
Đêm mưa đứt ruột, canh dài tiếng chuông
Phút trời đất quay cuồng vận số
Bánh xe rồng đến chỗ ngày xưa
Đất bùn chỗ chết còn trơ
Thấy đâu mặt ngọc! Bây giờ Mã Ngôi!
Đầm vạt áo, vua tôi giọt lệ
Gióng dây cương, ngựa tế về đông
Cảnh xua dương liễu, phù dung
Vị Ương, Thái Dịch hồ cung vẹn mười
Phù dung đó, mặt ai đâu tá?
Mày liễu đâu? Cho lá còn như
Càng trông hoa liễu năm xưa
Càng xui nước mắt như mưa ướt đầm
Xuân đào lý gió đêm huê nở
Thu khi mưa rụng lá ngô đồng
Kìa Nam Uyển, nọ Tây Cung
Đầy thềm ai quét lá hồng thu rơi?
Vườn lê cũ những ai con hát?
Mái tóc coi trắng phớt lạ lùng
Những ai coi giữ tiêu phòng?
Mày xanh thuở ấy nay cùng già nhăn
Trước cung điện nhìn sân đêm tối
Đom đóm bay gợi mối u sầu
Ngọn đền khêu đã cạn dầu
Khó thay, giấc ngủ dễ hầu ngủ xong!
Tiếng canh tối tùng tùng điểm trống
Năm canh dài chẳng giống đêm xưa
Sông Ngân lấp lánh sao thưa
Trời như muốn sáng, sao chưa sáng trời?
Tren mái ngói sương rơi ướt lạnh
Trong chăn nằm bên cạnh nào ai?
Cách năm sống thác đôi nơi
Thấy đâu hồn phách vãng lai giấc nồng?
Khách đạo sĩ Lâm Cùng có gã
Chơi Hồng Đô phép lạ thần thông
Xót vì vua chúa nhớ nhung
Mới sai phương sĩ hết lòng ra tay
Cưỡi luồng gió như bay như biến
Tren trời xanh, dưới đến đất đen
Hai nơi bích lạc, hoàng tuyền
Dưới tren tìm khắp mơ huyền thấy chi!
Sực nghe nói tìm đi mé bể,
Có non tiên ngoài phía hư không
Rỡ ràng cugn điện linh lung
Xa trông năm sắc mây lồng đẹp sao!
Trong tha thướt biết bao tiên tử
Một nàng tiên tên chữ Ngọc Chân
Mặt hoa da tuyết trắng ngần
Dáng như người ấy có phần phải chăng?
Mái tây gõ cửa vàng then ngọc
Cậy đưa tin Tiểu Ngọc, Song Thành
Nghe tin sứ giả Hán Đình
Cửa hoa trong trướng giật mình giấc mơ
Cầm áo dậy, thẩn thơ buồn bực,
Mở rèm châu, bình bạc lần ra
Bâng khoâng nửa mái mây tà
Thềm cao xuống chiếc mũ hoa lệch đầu
Phớt tay áo bay màu ngọn gió
Giống Nghê Thường khúc múa năm xưa
Lệ dàn mặt ngọc lưa thưa
Cành lê hoa trĩu hạt mưa xuân đầm
Ngừng nước mắt âm thầm buồn bã
Đội ơn lòng, xin tạ quân vương
Từ ngày cách trở đôi phương
Vắng tanh tăm tiếng, mơ màng hình dong
Nơi đế điện dứt vòng ân ái
Chốn tiên cugn thư thái hàng ngày
Cõi trần ngoảnh lại mà hay
Tràng An chẳng thấy, thấy đầy bụi nhơ!
Lấy chi tỏ tình xưa thăm thú?
Gửi cành hoa vật cũ cầm xuôi
Thoa vàng hộp khảm phân đôi
Nửa xin để lại nửa thời đem đi
Chỉ xin nguyện lòng ghi dạ tạc
Tựa hoa vàng bền chắc không phai
Thời cho cách trở đôi nơi
Nhân gian rồi với trên trời gặp nhau
Ân cần dặn mấy câu lâm biệt
Lời thề xưa lòng biết với lòng
Là đêm trùng thất ngồi chung
Trường Sinh sẵn điện vắng không bóng người
Xin kết nguyện chim trời liền cánh
Xin làm cây cành nhánh liền nhau
Thấm chi trời đất dài lâu
Giận này dặc dặc dễ hầu có nguôi...
Nguồn: Tiểu thuyết thứ bảy, số 31 (29-12-1934) và số 33 (12-1-1935)
Thấm chi trời đất dài lâu
Giận này dặc dặc dễ hầu có nguôi...
Ở câu kết nó ngược với tiêu đề và nội dung toàn bài. Từ "hận" chuyển sang "giận" nghe có vẻ không ổn lắm Ngọc Hải nhỉ ?
Chỉ nói riêng đoạn kết, ta thấy đoạn kết trong "Trường Hận Ca" đang nói về sự oán hận của cá nhân Dương tiên cô. Tiên cô hận là hận cái lũ ngoại xâm, hận cái sự chinh chiến đã khiến cho cô và Hns vương phải biệt ly xa cách, bởi vậy cô mới oán thán và thề rằng, nếu trên trời sẽ là chim liền cánh và nếu dưới đất nguyện liền nhánh với nhau... Cô hận vì không còn được làm cái chuyện dâm ô nơi trần thế (!)
Nay trong bản dịch của thi sĩ Tản Đà thấy dùng chữ "giận" nghĩ không được thỏa đáng lắm, nhưng không biết tại sao thi sĩ lại dùng từ như vậy ?
ngochai
21-01-2015, 11:59 AM
Thấm chi trời đất dài lâu
Giận này dặc dặc dễ hầu có nguôi...
Ở câu kết nó ngược với tiêu đề và nội dung toàn bài. Từ "hận" chuyển sang "giận" nghe có vẻ không ổn lắm Ngọc Hải nhỉ ?
Chỉ nói riêng đoạn kết, ta thấy đoạn kết trong "Trường Hận Ca" đang nói về sự oán hận của cá nhân Dương tiên cô. Tiên cô hận là hận cái lũ ngoại xâm, hận cái sự chinh chiến đã khiến cho cô và Hns vương phải biệt ly xa cách, bởi vậy cô mới oán thán và thề rằng, nếu trên trời sẽ là chim liền cánh và nếu dưới đất nguyện liền nhánh với nhau... Cô hận vì không còn được làm cái chuyện dâm ô nơi trần thế (!)
Nay trong bản dịch của thi sĩ Tản Đà thấy dùng chữ "giận" nghĩ không được thỏa đáng lắm, nhưng không biết tại sao thi sĩ lại dùng từ như vậy ?
Quả thật, từ gốc trong hán tự là "hận" 恨 mà không hiểu vì ý tứ gì (khác chăng?), thi sỹ Tản Đà lại dùng từ "giận" trong câu kết của bài Trường Hận Ca. Vả chăng, Thi sỹ Tản Đà cố ý muốn dùng từ "giận" - mang tính nói giảm, nói tránh hơn từ "hận" trong nguyên tác Hán tự. Trong trường hợp từ "giận" của câu Kết, dùng nó sẽ thấy "tình" hơn (?), sẽ mang tính "tự giải thoát", "tự siêu thoát" hơn chăng?
Bạn đọc có thể tham khảo về Thi sỹ Tản Đà: (Link) Thi Sỹ Tản Đà-Một góc nhìn (http://thaicucthieugia.com/forum/showthread.php?7523-Thi-S%E1%BB%B9-T%E1%BA%A2N-%C4%90%C3%80-M%E1%BB%99t-g%C3%B3c-nh%C3%ACn&p=18727#post18727)
ngochai
23-01-2015, 05:23 PM
.
冬 至 宿 楊 梅 館
十一月中長至夜,
三千裏外遠行人。
若為獨宿楊梅館,
冷枕單床一病身。
Đông chí túc Dương Mai quán
Thập nhất nguyệt trung trường chí dạ,
Tam thiên lý ngoại viễn hành nhân
Nhược vi độc túc Dương Mai quán,
Lãnh chẩm đan sàng nhất bệnh thân.
Đông chí ngủ ở quán Dương Mai
(Bản dịch của Tản Đà)
Dài nhất một đêm trong tháng một,
Ngoài ba nghìn dặm kẻ đi xa.
Dương Mai quán khách mình ai ngủ,
Gối lạnh giường đơn ốm thế mà.