ngochai
21-01-2015, 01:10 PM
Vốn dòng dõi quyền quý, hấp thụ nền Nho Giáo từ tấm bé, thi sĩ họ Nguyễn được xem là một con người có tài, nhưng không gặp vận. Quả thế, ông là người đã đi vào lịch sử văn học là một nhà thơ, nhà văn, và nhà báo tiêu biểu trên bầu trời thi ca Việt đầu thế kỷ 20. Cha làm quan triều Nguyễn nên cậu ấm Hiếu đã được tập ấm (được phong quan tước do có cha làm quan) từ bé, nhưng lại không có vận phúc được làm quan như cha mình, mà lại sớm mang kiếp thi nhân với những bài thơ có tư tưởng cách tân, vượt ra ngoài lối thơ niêm luật gò bó. Người đời gọi Tản Đà là "nhà thơ ngông" có lẽ vì bút pháp của ông mang tính chất ngông nghênh, nhưng lại tiềm ẩn bên trong cả một tình yêu nước, thương nòi....
Này những ai, này những ai,
Ai có nghe rằng việc thủy tai,
Tỉnh Bắc, tỉnh Đông cùng tỉnh Thái,
Ruộng ngập nhà chìm thây chết trôi...
....lắm khi lại chứa chan buồn, hoà trong men say cho quên đi cái tình đời bạc bẽo...
Rượu say ta lại khơi nguồn
Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình
Rượu thơ mình lại với mình,
Khi say quên cả cái đỉnh phù du
...hay có lúc tình tứ, lãng mạn, tiềm ẩn trong mấy câu cậy cảnh mà tả nổi niềm...
Trận gió thu phong rụng lá vàng
Lá rơi hàng xóm, lá bay sang
Vàng bay mấy lá năm già nửa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng?
Suối tuôn róc rách ngang đèo,
Gió thu bay lá bóng chiều về tây
Chung quanh những lá cùng cây,
Biết người tri kỷ đâu đây mà tìm...
Gẫm tiên sinh quả là một thi sĩ...ngông thật! Không ngông sao được với lời thơ gàn nghe mà không tài nào chịu cho thấu!
Trời sinh ra bác Tản Đà,
Quê hương thời có cửa nhà thì không....
Hôm qua chửa có tiền nhà
Suốt đêm thơ nghĩ chẳng ra câu nào!
Đi ra rồi lại đi vào
Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ!
Mười mấy năm xưa ngọn bút lông
Sác sơ chẳng bận chút hơi đồng
Bây giờ anh đổi lông ra sắt
Cách kiếm ăn đời có nhọn không?
Ấy là "cậu ấm" nhà ta. Ấy là ông Tản Đà với túi thơ, bầu rượu, làm đệ tử lưu linh để quên trò đời mà cũng để...yêu đời. Đúng thế, ông yêu đời lắm đó chứ- yêu da diết cái tình người mưa chiều nắng sớm....
https://lysoblog.files.wordpress.com/2014/12/chc3b9a-hc6b0c6a1ng-1.jpg
"Cái bụng chán đời" và tình rau sắng...
Uống rượu với Tản Ðà được cho là một tác phẩm viết về cuộc đời của thi sĩ sớm nhất, ra đời vài tháng trước khi Tản Đà mãn phần năm 1939, của học giả Trương Tửu. Có lẽ đây là quyển sách được viết từ khía cạnh người trong cuộc, phát hoạ chân dung ông thi sĩ gàn, nhưng thiết tha với cuộc sống rõ rệt hơn bao giờ hết. Từ khía cạnh cá nhân, Trương Tửu đã gọi Tản Đà là "một tín đồ sáng suốt của Epicure...yêu hỷ lạc, yêu sống, và...yêu rượu" . Được biết, ông nấu ăn giỏi hơn cả làm thơ, viết văn, và lại có nổi khao khát sống đến cháy bỏng lắm. Thế sao hồn thơ của ông lắm lúc ai oán đến não lòng, xót dạ quá! Thực chất, cụ là ai, con người cụ thế nào mà xem ra khó hiểu thế? Chúng ta hãy thử nghe chính thi sĩ trả lời: "Ở đời, tôi tưởng nên biết thưởng thức mỗi thứ một chút và cốt nhất là phải thưởng thức cho sành, nhất là cái ăn cái uống...người ta sống được bao năm? Chẳng tiêu pha cuộc đời cho mãn ý, lúc chết hai tay buông xuôi, hối tiếc cũng bằng thừa. Tuổi xuân của con người mấy lúc mà tàn? Tôi cứ xem như tôi đây vừa dạo nào còn là một thư sinh mà bây giờ đầu đã bạc cả rồi!" Gẫm ông cũng chưa hẳn là kẻ nát rượu đến quên cả lối về, lạc mất hồn thi văn, hay như kẻ thất tình với "cái bụng chán đời" đến nổi nào đâu.
Tương truyền rằng, Tản Đà rất thích ăn rau sắng, mà đặc biệt phải là..."rau sắng chùa Hương cơ!" , thế là không năm nào ông đi trẩy hội chùa Hương, mà không được thưởng thức hương vị mộc mạc mà đầy quyến rũ của loại rau ấy. Nhưng rồi vào đầu thập niên 20, cảnh nghèo túng đã trói chân chàng thi sĩ phải bó gối ngồi nhà trong sự tiếc nuối ngẩn ngơ mà rằng:
Muốn ăn rau sắng chùa Hương,
Tiền đò ngại tốn con đường ngại xa
Mình đi ta ở lại nhà,
Cái dưa thì khú, cái cà thì thâm
Viết xong mấy vần, ông cho đăng bài thơ này trên An Nam Tạp Chí, một tờ báo do chính ông sáng lập năm 1926- cũng là tạp chí gắn liền với quảng đời làm thơ đầy sóng gió của thi nhân mà tôi sẽ nói rõ hơn sau. Cứ nghĩ rằng đăng như thế là đã xong, nên Tản Đà không mấy gì quan tâm đến nữa. Nào ngờ sau đó không lâu, ông lại nhận được một bưu phẩm từ “nhà dây thép” mà khi mở ra thì bên trong là một gói rau sắng chùa Hương còn tươi nguyên! :ym4: Bưu phẩm ấy không có tên người gửi hay địa chỉ đính kèm, mà chỉ có mầy vần thơ đáp hoạ....
Kính dâng rau sắng chùa Hương,
Tiền đò đỡ tốn, con đường đỡ xa,
Không đi thời gửi lại nhà,
Thay cho dưa khú cùng là cà thâm...
(Đỗ Tang Nữ bái tặng)
Tản Đà, quá cảm kích trước tấm lòng của ai kia, nhưng thật là không biết gửi gấm tất dạ tri ân ấy vào đâu, bởi người gửi đã cố tình không ra mặt. Thế là với khối óc mộng mơ, lãng mạng, đa tình của một thi nhân, Tản Đà tự mình nghiệm ra ẩn ý của ba từ Đỗ Tang Nữ rằng: Đỗ tức người này họ Đỗ, Tang có nghĩa là cây dâu, và Nữ thì rõ ràng người này là phụ nữ. Thế có phải chăng, người này là...một cô gái hái dâu? .Và như thế, thi sĩ tự đặt tên cho người ấy là "tình nhân không quen biết", (mà trong ngôn ngữ hiện đại người ta gọi là “người tình không chân dung”) rồi làm một bài thơ đáp lễ, cho đăng tiếp lên báo. .Từ đó, cũng do vì sự tò mò của đọc giả gần xa, người ta mới lần tìm theo "vết xe đỗ, nhưng cũng không quên thêu dệt những chuyện hư hư thực thực rằng, người ấy là một nam nhân nào đó, do biết ông thi sĩ gàn này có tâm hồn lãng mạng mà cố tình trêu chọc với bút ký giả mạo(?). Thế là mãi đến khi tìm gặp được người con trai của nữ nhân ấy, người đời mới biết được rằng, Đỗ Tang Nữ chính thật là bà Đỗ Thị Khê, tức nữ thi sĩ Song Khê, người Hưng Yên, và cũng là em gái của nữ thi sĩ Tương Phố- người nổi tiếng trong phong trào "nữ lưu và văn học" thập niên 20-30, và cũng là tác giả của bài thơ Giọt Lệ Thu. Sớm chịu ảnh hưởng của chị, bà Khê là một tâm hồn thi phú, lại rất yêu thích ngòi bút Tản Đà nên thầm lặng theo dõi từng tác phẩm của ông. Đúng như dư luận đã suy đoán, bà là người có học vấn cao (bác sĩ), lại biết làm thơ. Xúc động trước nổi nhớ rau sắng mà không đến nơi được, cũng bởi cái nghèo mà ra, nên bà đã gửi tặng "thần tượng" mớ rau dân dã, đính kèm mấy câu thơ như tỏ chút đồng cảm....Sau câu chuyện rau sắng một thời gian, bà Khê chuyển ra Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh) làm việc nhưng vẫn đọc An Nam Tạp Chí thường nhật. Cũng qua tờ báo này, bà biết được sự khó khăn của thi sĩ Tản Đà về mặt kinh tế, nên đã không ngần ngại dành cả một tháng lương để gửi biếu ông. :ym4: Một năm sau, bà Khê chuyển công tác xuống Hải Phòng, và cũng chính nơi đây, bà và Tản Đà đã có dịp sơ ngộ qua tài sắp xếp khéo léo, đầy bí mật của người bạn. Chỉ tiếc một điều là họ gặp nhau mà không hề biết mình đã gặp được người mình ao ước muốn gặp từ lâu- cho đến khi họ chia tay nhau thì mới được người bạn trung gian ấy tiết lộ bí mật thì người đã xa mà luyến lưu thì còn mãi! Thi sĩ Song Khê còn làm việc ở nhiều nơi, luôn cả ở Sài Gòn. Những năm tháng cuối đời, bà định cư ở Mỹ và qua đời tại đây, thọ 93 tuổi.
Rau sắng chùa Hương- vị ngọt núi rừng
Nổi ao ước được ăn rau sắng chùa Hương của thi nhân, có lẽ nếu chưa ăn qua loại rau này lần nào, thì quả thật là khó mà có ai trong chúng ta cảm được sức quyến rũ đến khơi dậy cả một trời thơ trong Tản Đà. Rau sắng chùa Hương là loại rau đặc biệt của vùng đất Phật Hương Sơn, có tên gọi khác là cây mì chính, hay cây rau ngót rừng. Tên gọi là rau nhưng rau sắng không phải loại mềm như loại rau cải bình thường, mà lại thuộc loại họ mộc, thân cao và to, chỉ mọc trên vùng núi đá vôi. Thân cây sắng cao to, có khi cao hàng chục mét, nên người ta phải trèo lên cây mới có thể hái được. Mùa đông sắng rụng hết lá, nhưng khi mưa xuân đến, núi rừng lại trở giấc thì thân cây cũng bắt đầu mọc ra những chồi non. Thế là người đi trẩy hội Xuân, do đó, cũng sẽ được khai thác đợt rau đầu mùa. Rau sắng có đặc điểm là khi nấu không cần thêm thịt để lấy vị ngọt, vì rau vốn đã có vị ngọt tự nhiên; phải chăng, chính do vì đặc điểm này mà rau sắng chùa Hương cũng đã đi vào ca dao Việt:
Ai đi trẩy hội chùa Hương,
Làm ơn gặp khách thập phương hỏi giùm,
Mớ rau sắng, quả mơ non,
Mơ chua, sắng ngọt biết còn thương chăng?
http://www.lrc-hueuni.edu.vn/dongy/thuocdongy/anh/RauSang.gif
Rau Sắng
Này những ai, này những ai,
Ai có nghe rằng việc thủy tai,
Tỉnh Bắc, tỉnh Đông cùng tỉnh Thái,
Ruộng ngập nhà chìm thây chết trôi...
....lắm khi lại chứa chan buồn, hoà trong men say cho quên đi cái tình đời bạc bẽo...
Rượu say ta lại khơi nguồn
Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình
Rượu thơ mình lại với mình,
Khi say quên cả cái đỉnh phù du
...hay có lúc tình tứ, lãng mạn, tiềm ẩn trong mấy câu cậy cảnh mà tả nổi niềm...
Trận gió thu phong rụng lá vàng
Lá rơi hàng xóm, lá bay sang
Vàng bay mấy lá năm già nửa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng?
Suối tuôn róc rách ngang đèo,
Gió thu bay lá bóng chiều về tây
Chung quanh những lá cùng cây,
Biết người tri kỷ đâu đây mà tìm...
Gẫm tiên sinh quả là một thi sĩ...ngông thật! Không ngông sao được với lời thơ gàn nghe mà không tài nào chịu cho thấu!
Trời sinh ra bác Tản Đà,
Quê hương thời có cửa nhà thì không....
Hôm qua chửa có tiền nhà
Suốt đêm thơ nghĩ chẳng ra câu nào!
Đi ra rồi lại đi vào
Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ!
Mười mấy năm xưa ngọn bút lông
Sác sơ chẳng bận chút hơi đồng
Bây giờ anh đổi lông ra sắt
Cách kiếm ăn đời có nhọn không?
Ấy là "cậu ấm" nhà ta. Ấy là ông Tản Đà với túi thơ, bầu rượu, làm đệ tử lưu linh để quên trò đời mà cũng để...yêu đời. Đúng thế, ông yêu đời lắm đó chứ- yêu da diết cái tình người mưa chiều nắng sớm....
https://lysoblog.files.wordpress.com/2014/12/chc3b9a-hc6b0c6a1ng-1.jpg
"Cái bụng chán đời" và tình rau sắng...
Uống rượu với Tản Ðà được cho là một tác phẩm viết về cuộc đời của thi sĩ sớm nhất, ra đời vài tháng trước khi Tản Đà mãn phần năm 1939, của học giả Trương Tửu. Có lẽ đây là quyển sách được viết từ khía cạnh người trong cuộc, phát hoạ chân dung ông thi sĩ gàn, nhưng thiết tha với cuộc sống rõ rệt hơn bao giờ hết. Từ khía cạnh cá nhân, Trương Tửu đã gọi Tản Đà là "một tín đồ sáng suốt của Epicure...yêu hỷ lạc, yêu sống, và...yêu rượu" . Được biết, ông nấu ăn giỏi hơn cả làm thơ, viết văn, và lại có nổi khao khát sống đến cháy bỏng lắm. Thế sao hồn thơ của ông lắm lúc ai oán đến não lòng, xót dạ quá! Thực chất, cụ là ai, con người cụ thế nào mà xem ra khó hiểu thế? Chúng ta hãy thử nghe chính thi sĩ trả lời: "Ở đời, tôi tưởng nên biết thưởng thức mỗi thứ một chút và cốt nhất là phải thưởng thức cho sành, nhất là cái ăn cái uống...người ta sống được bao năm? Chẳng tiêu pha cuộc đời cho mãn ý, lúc chết hai tay buông xuôi, hối tiếc cũng bằng thừa. Tuổi xuân của con người mấy lúc mà tàn? Tôi cứ xem như tôi đây vừa dạo nào còn là một thư sinh mà bây giờ đầu đã bạc cả rồi!" Gẫm ông cũng chưa hẳn là kẻ nát rượu đến quên cả lối về, lạc mất hồn thi văn, hay như kẻ thất tình với "cái bụng chán đời" đến nổi nào đâu.
Tương truyền rằng, Tản Đà rất thích ăn rau sắng, mà đặc biệt phải là..."rau sắng chùa Hương cơ!" , thế là không năm nào ông đi trẩy hội chùa Hương, mà không được thưởng thức hương vị mộc mạc mà đầy quyến rũ của loại rau ấy. Nhưng rồi vào đầu thập niên 20, cảnh nghèo túng đã trói chân chàng thi sĩ phải bó gối ngồi nhà trong sự tiếc nuối ngẩn ngơ mà rằng:
Muốn ăn rau sắng chùa Hương,
Tiền đò ngại tốn con đường ngại xa
Mình đi ta ở lại nhà,
Cái dưa thì khú, cái cà thì thâm
Viết xong mấy vần, ông cho đăng bài thơ này trên An Nam Tạp Chí, một tờ báo do chính ông sáng lập năm 1926- cũng là tạp chí gắn liền với quảng đời làm thơ đầy sóng gió của thi nhân mà tôi sẽ nói rõ hơn sau. Cứ nghĩ rằng đăng như thế là đã xong, nên Tản Đà không mấy gì quan tâm đến nữa. Nào ngờ sau đó không lâu, ông lại nhận được một bưu phẩm từ “nhà dây thép” mà khi mở ra thì bên trong là một gói rau sắng chùa Hương còn tươi nguyên! :ym4: Bưu phẩm ấy không có tên người gửi hay địa chỉ đính kèm, mà chỉ có mầy vần thơ đáp hoạ....
Kính dâng rau sắng chùa Hương,
Tiền đò đỡ tốn, con đường đỡ xa,
Không đi thời gửi lại nhà,
Thay cho dưa khú cùng là cà thâm...
(Đỗ Tang Nữ bái tặng)
Tản Đà, quá cảm kích trước tấm lòng của ai kia, nhưng thật là không biết gửi gấm tất dạ tri ân ấy vào đâu, bởi người gửi đã cố tình không ra mặt. Thế là với khối óc mộng mơ, lãng mạng, đa tình của một thi nhân, Tản Đà tự mình nghiệm ra ẩn ý của ba từ Đỗ Tang Nữ rằng: Đỗ tức người này họ Đỗ, Tang có nghĩa là cây dâu, và Nữ thì rõ ràng người này là phụ nữ. Thế có phải chăng, người này là...một cô gái hái dâu? .Và như thế, thi sĩ tự đặt tên cho người ấy là "tình nhân không quen biết", (mà trong ngôn ngữ hiện đại người ta gọi là “người tình không chân dung”) rồi làm một bài thơ đáp lễ, cho đăng tiếp lên báo. .Từ đó, cũng do vì sự tò mò của đọc giả gần xa, người ta mới lần tìm theo "vết xe đỗ, nhưng cũng không quên thêu dệt những chuyện hư hư thực thực rằng, người ấy là một nam nhân nào đó, do biết ông thi sĩ gàn này có tâm hồn lãng mạng mà cố tình trêu chọc với bút ký giả mạo(?). Thế là mãi đến khi tìm gặp được người con trai của nữ nhân ấy, người đời mới biết được rằng, Đỗ Tang Nữ chính thật là bà Đỗ Thị Khê, tức nữ thi sĩ Song Khê, người Hưng Yên, và cũng là em gái của nữ thi sĩ Tương Phố- người nổi tiếng trong phong trào "nữ lưu và văn học" thập niên 20-30, và cũng là tác giả của bài thơ Giọt Lệ Thu. Sớm chịu ảnh hưởng của chị, bà Khê là một tâm hồn thi phú, lại rất yêu thích ngòi bút Tản Đà nên thầm lặng theo dõi từng tác phẩm của ông. Đúng như dư luận đã suy đoán, bà là người có học vấn cao (bác sĩ), lại biết làm thơ. Xúc động trước nổi nhớ rau sắng mà không đến nơi được, cũng bởi cái nghèo mà ra, nên bà đã gửi tặng "thần tượng" mớ rau dân dã, đính kèm mấy câu thơ như tỏ chút đồng cảm....Sau câu chuyện rau sắng một thời gian, bà Khê chuyển ra Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh) làm việc nhưng vẫn đọc An Nam Tạp Chí thường nhật. Cũng qua tờ báo này, bà biết được sự khó khăn của thi sĩ Tản Đà về mặt kinh tế, nên đã không ngần ngại dành cả một tháng lương để gửi biếu ông. :ym4: Một năm sau, bà Khê chuyển công tác xuống Hải Phòng, và cũng chính nơi đây, bà và Tản Đà đã có dịp sơ ngộ qua tài sắp xếp khéo léo, đầy bí mật của người bạn. Chỉ tiếc một điều là họ gặp nhau mà không hề biết mình đã gặp được người mình ao ước muốn gặp từ lâu- cho đến khi họ chia tay nhau thì mới được người bạn trung gian ấy tiết lộ bí mật thì người đã xa mà luyến lưu thì còn mãi! Thi sĩ Song Khê còn làm việc ở nhiều nơi, luôn cả ở Sài Gòn. Những năm tháng cuối đời, bà định cư ở Mỹ và qua đời tại đây, thọ 93 tuổi.
Rau sắng chùa Hương- vị ngọt núi rừng
Nổi ao ước được ăn rau sắng chùa Hương của thi nhân, có lẽ nếu chưa ăn qua loại rau này lần nào, thì quả thật là khó mà có ai trong chúng ta cảm được sức quyến rũ đến khơi dậy cả một trời thơ trong Tản Đà. Rau sắng chùa Hương là loại rau đặc biệt của vùng đất Phật Hương Sơn, có tên gọi khác là cây mì chính, hay cây rau ngót rừng. Tên gọi là rau nhưng rau sắng không phải loại mềm như loại rau cải bình thường, mà lại thuộc loại họ mộc, thân cao và to, chỉ mọc trên vùng núi đá vôi. Thân cây sắng cao to, có khi cao hàng chục mét, nên người ta phải trèo lên cây mới có thể hái được. Mùa đông sắng rụng hết lá, nhưng khi mưa xuân đến, núi rừng lại trở giấc thì thân cây cũng bắt đầu mọc ra những chồi non. Thế là người đi trẩy hội Xuân, do đó, cũng sẽ được khai thác đợt rau đầu mùa. Rau sắng có đặc điểm là khi nấu không cần thêm thịt để lấy vị ngọt, vì rau vốn đã có vị ngọt tự nhiên; phải chăng, chính do vì đặc điểm này mà rau sắng chùa Hương cũng đã đi vào ca dao Việt:
Ai đi trẩy hội chùa Hương,
Làm ơn gặp khách thập phương hỏi giùm,
Mớ rau sắng, quả mơ non,
Mơ chua, sắng ngọt biết còn thương chăng?
http://www.lrc-hueuni.edu.vn/dongy/thuocdongy/anh/RauSang.gif
Rau Sắng