PDA

View Full Version : Họ thiều hơn sáu trăm năm…



minhnhat
06-09-2017, 03:51 PM
HỌ THIỀU HƠN SÁU TRĂM NĂM…

http://thaicucthieugia.com/images/stories/2015/2017/moi_tinh/Ho_Thieu/02a.jpg


Họ Thiều hơn sáu trăm năm
Lúc nào cũng đẹp tựa rằm ánh trăng
Với “người” ! Ta trẻ như măng
Bởi chưng sức sống bảo răng… tràn đầy.

Thiều gia con cháu xum vầy
Lạ quen, không biết gặp quây quần mừng
Nghĩa tình chẳng khác nhánh gừng
Ngàn năm chả đổi thơm lừng… cay cay.

Người Thiều từ xửa xưa nay
Khó khăn gian khổ chẳng thay đổi lòng
Gái hiền mà chẳng cãi chồng
Chả tâm ganh ghét tranh công với đời.

Trai Thiều tâm tính tuyệt vời
Chẳng cờ bài bạc rượu thời… tí thôi !
Uống cho “thắm” kiểu trầu – vôi
Vài ly cốt nuốt cho trôi… “sự” đời.

Trai Thiều thoạt tưởng… lả lơi !
Nhưng “chuyên” công việc sự người… ít quan
Xinh giai lại chẳng lăng loàn
Có chăng “bị” gạ chứ… toàn vô can.

Người Thiều chẳng có tính gian
Xưa nay chưa thấy ai “bàn” việc ni ?
Báo đài tin tức thiếu gì
Tuyệt không một chữ “gian phi”(1) họ Thiều.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/2015/2017/moi_tinh/Ho_Thieu/4-1.jpg

Người Thiều lành tính ít điêu
Có sao bảo thế chẳng chiều bớt thêm
Trong nhà ngoài ngõ ấm êm
Không thằng ngáo đá “hương”(乡= hương thôn) đêm… giấc nồng.

Họ Thiều không bán núi sông
“Quốc gia hữu sự” hết lòng phò nguy
Gương xưa Thiều Thốn(2) đây chi ?
Quy Linh(3) tuẫn tiết chết vì nước non.

Họ Thiều lòng dạ sắt son
Thiều Hoành(4) Thiều Thái (5) sử còn tạc ghi
Lê Triều Tham Chính(6)… nữa chi
Gương xưa hộ quốc chưa khi nào mờ.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/2015/2017/moi_tinh/Ho_Thieu/1d.jpg
Toàn cảnh đền thờ Trần triều “Kim ngô vệ – Thượng trụ quốc” Thiều Thốn Tướng quân.

Đào Sơn phát tích lăng cơ(7)
Đất làm nên những áng thơ lặng thầm
Họ Thiều hơn sáu trăm năm
Lúc nào cũng tựa ánh rằm… lung linh !

Tp. HCM, ngày 02/9/2017
Người Họ Thiều
———————
(1). Gian phi: kẻ dối trá, phường trộm cắp, chuyên làm những việc trái với luân thường đạo lý, trái pháp luật.

Đối với họ Thiều, xưa nay con cháu đều kiệm ước, tuân thủ giáo huấn của các bậc phụ huynh, tiền bối. Bởi vậy, dù cuộc sống còn vạn ngàn gian khó nhưng con cháu nhà họ Thiều xưa nay, từ Bắc chí Nam tịnh không thấy (ghi nhận từ báo đài, các hãng truyền hình và thậm chí là phản ánh của các báo phản động, báo lá cải) một trường hợp nào làm điều trái với luân thường đạo lý, trái pháp luật.

(2). Thiều Thốn (1326 – 1380): Làm quan đời nhà Trần, được các vua nhà Trần coi như bậc đống lương của triều đình và được bao phong “Phụ quốc Thượng tướng công” , “Kim Ngô vệ Phò mã Đô úy”, “Lạng Giang Phòng ngự sứ”. Khi mất được sắc phong “Thượng đẳng phúc thần Đại vương” lệnh cho nhân dân lập đền thờ tự.

(3). Quy Linh tức Mạ Tặc Thượng Đẳng Thần – Thượng Thư Bộ Lại Thiều Quy Linh (1479-1527).

Đức ông Thiều Quy Linh tên húy là Lãng, tự là Trực Lương (cháu đời thứ 6 của đức Thiều Thốn, người làng Y Xá, nay là xã Đông Văn, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa) thi đỗ Đệ Nhị giáp tiến sĩ (hiện còn trong bia Tiến sĩ ở văn miếu Quốc Tử Giám), làm quan đến chức Lại Bộ Thị Lang kiêm Lễ Bộ Tham tri, Thượng thư Thọ Xuyên Hầu.

Vào triều vua Lê Chiêu Tông đức Thiều Quy Linh được sung chức Bồi Tòng tả thị lang tháp tùng đoàn sứ thần sang sứ bên Trung Quốc. Khi đoàn sứ thần về đến cầu Long nhĩ, sông Nhị Hà (sông Hồng bây giờ) nghe tin Mạc Đăng Dung bắt và giết chết vua Lê Chiêu Tông (năm 1526), phế truất Cung Hoàng tự lên ngôi lập ra nhà Mạc. Đức ông khóc lóc tiếc thương cho cơ nghiệp nhà Hậu Lê đồng thời chửi bới ngụy Mạc hết lời sau đó nhảy xuống sông Nhị Hà tuẫn tiết. Niên hiệu Thành Thái năm thứ 2 (1890), nhà Nguyễn vì tôn kính gương tuẫn tiết của bậc trung thần bèn sắc phong đức Thiều Quy Linh là “Lại Bộ Thượng Thư Tiết Nghĩa Tôn Thần”, gia phong “Quảng Ý Dực Bảo Trung Ương Thượng Đẳng Thần” lệnh cho dân lập đền thờ quanh năm cúng tế nhằm xiển dương gương sáng của các bậc trung thần hết lòng vì xã tắc (nhà thờ trước ở xóm Quang thuộc Y Xá xã.

Sau Cách mạng văn hóa, đền thờ của đức Thiều Quy Linh đã bị đám “ngu” quan ra lệnh đập bỏ, hiện chỉ còn sót lại một số dấu phế tích.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/2015/2017/moi_tinh/Ho_Thieu/DSC07752.JPG

(4). Thiều Hoành tức Võ Huân Tướng Công – Lực Sĩ Hiệu Úy Thiều Văn Hoành

Đức Thế Tôn Thiều Văn Hoành tên chữ là Phúc ( 福) hiệu là Thuần Nhã được sinh ra trên mảnh đất hiền hòa, thấm đậm tình giao hảo, đoàn kết gắn bó giữa hai họ Thiều và họ Trần (đến nay, trong làng chủ yếu vẫn hai họ Thiều – Trần, đi đâu cũng là anh em, không bên cha tất bên mẹ), lại có truyền thống gia đình danh gia vọng tộc, nhiều đời làm quan lớn trong triều. Bản thân thân phụ Thiều Văn Thái đương chức võ quan tại triều do vậy, Thế tôn Thiều Văn Hoành ngay từ nhỏ đã lộ rõ chí khí của bậc trượng phu, tư chất thông minh dĩnh ngộ hơn người. Ngoài việc học hành, cậu bé Hoành thường ngày đêm trau dồi võ nghệ, tụ tập trai tráng, hào kiệt các nơi luận bàn binh pháp. Với võ nghệ cao cường cùng sức khỏe “muôn người nạn địch”, mười tám tuổi chàng trai làng Y Xá Thiều Văn Hoành đã trúng truyển Cử Nhân võ vào niên hiệu Cảnh Hưng (景興) năm thứ 40 đời vua Lê Hiển Tông (1780) và được vua sắc phong “Kiệt Trung Tướng Quân Lực Sĩ Hiệu Úy”. Bụng làu thông kinh sử, văn có thể an thiên hạ võ địch muôn người, lại một lòng trung quân ái quốc, biết bắt trước tiền nhân suốt sĩ đồ sống thanh liêm chính trực, thương xót lê dân nên đức Thế Tôn luôn được các bạn bè đồng liêu, muôn quân một lòng mến phục. Ngài được triều đình tin phục và giao giữ nhiều trọng trách như chức Kỵ Úy tướng quân, Vệ Quân Sự Vụ (hàm Tòng Tam phẩm, đây là một chức võ quan quan trọng trông coi về việc quân cơ trong triều),… Cuối đời được vua sắc phong “Võ Huân Tướng Công Thần Võ”, “Vệ Quân Sự Vụ Tham Đốc Hoành Thọ Hầu” (Cần chú ý Tước Hầu侯chỉ đứng sau Tước Vương 王, Tước Công 公… là đến Tước Hầu 侯 , đây là tước quan cực lớn mà các triều đình phong kiến xưa thường chỉ dành để phong cho những người có công lao hay danh vọng lớn. Ví dụ: Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều).

Đặc biệt, vào triều nhà Nguyễn, vua Khải Định 啟定 (1916-1925) còn sắc phong cho đức Thế Tôn là “Rực Bảo trung Ương Linh Phù Tôn Thần” đồng thời cải tên húy của Thế Tôn là Hoành Uẩn (?) Lại gia tặng “Đoan Túc Tôn Thần”. Đền thờ đức Thế Tôn Hoành Thọ Hầu (tục gọi là Quan lớn hầu), xưa ở trong làng Y Xá, gần chùa Báo Ân… Thật đáng tiếc và đau lòng, sau “Cách mạng”, tất cả “tôn thần” đều được những người “Văn Minh” phá bỏ sạch.


http://thaicucthieugia.com/images/stories/2015/2017/moi_tinh/Ho_Thieu/DSC07643.JPG
Tượng Phò mã Đô úy Tướng công Thiều Thốn và công chúa Trần Ngọc Hải

(5). Thiều Thái hay Thiều Văn Thai. Tên thật Thiều kim Bá, tên chữ là Văn Thái, đạo hiệu gọi là Hiền Đạt Tiên Sinh (chỉ biết giỗ ngày 10/10 AL). Đức Thế tôn sinh ra và lớn lên tại Y Xá xã (thôn Văn Bắc, xã Đông Văn, là dòng dõi của đức Thế tổ Thiều Quy Linh), làm võ quan dưới triều nhà Lê (khoảng niên hiệu Cảnh Hưng 1740-1780) chức Thượng Kỳ Tả Cơ Đội trưởng Thiều Văn Thái (? – 10/10 AL).

(6). Lê Triều Tham Chính – Thám Hoa Thiều Sĩ Lâm

Đức Thiều Sĩ Lâm và chi họ Thiều ở Cổ Bôn (còn gọi là Kẻ Bôn, địa danh của vùng đất xưa, nay thuộc xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa) vốn là con cháu họ Thiều từ dòng Nhuận Thạch (xã Đông Tiến) ra Kẻ Bôn lập nghiệp. Tương truyền khi còn nhỏ, ngài rất hiếu học và đặc biệt thông minh, có trí nhớ hơn người. Ngài thích chơi ở gần những nhà có thuê thầy về dạy học và tuy chơi ngoài sân nhưng tai mắt lại để ở trong nhà, chỉ nghe thầy giảng bài qua là thuộc, thời bấy giờ cả vùng ai cũng cho là bậc kỳ tài, thần đồng vậy.

Niên hiệu Cảnh Trị đời vua Lê Huyền Tông, ngài đi thi đỗ Thám Hoa (khoa Canh Tuất, 1670). Làm quan giữ chức Tham Chính, hàm Nhất phẩm (hiểu như kiểu ban trợ lý, giúp việc cho vua chúa xưa, chuyên can gián, chỉnh đốn chính sự, có ngạch hàm ngang Thứ bộ trưởng bây giờ), ngài sống cần kiệm, ước thúc, thanh liêm, chính trực… nổi tiếng đức cao vọng trọng trong triều. Hiện ở Cổ Bôn vẫn có đền thờ ghi nhớ công lao của ngài.

(7). Phát tích lăng cơ (基 )tức nơi phát tích của dòng họ, đất có long mạch tốt, cát trạch.