PDA

View Full Version : Nhiều bản đồ khẳng định Trung Quốc không có Hoàng Sa, Trường Sa



suppercarino
26-07-2012, 03:38 PM
Cực nam lãnh thổ Trung Quốc dừng lại tại Nhai Châu (tận cùng của đảo Hải Nam). Hoàng dư toàn lãm đồ, công trình do chính hoàng đế Khang Hi thứ 58 chủ trì, hoàn thành năm 1719, ghi rõ.

http://img2.news.zing.vn/2012/07/26/imageviewaspx.jpg

Tiến sĩ Mai Hồng giải thích cho người xem nội dung chữ Hán cổ trên bản đồ của Trung Quốc năm 1904 mà ông đã hiến tặng Bảo tàng Lịch sử quốc gia sáng 25/7
Nắm giữ trong tay hơn 180 địa đồ (bản đồ), trong đó có khoảng 50 tấm địa đồ chứng minh chủ quyền biển đảo Việt Nam, nhà nghiên cứu Hán - Nôm Phạm Hoàng Quân chia sẻ: Địa đồ hành chính toàn Trung Quốc được soạn vẽ hoàn chỉnh bắt đầu từ thời Tống. Chúng được khắc trên các phiến đá lớn, loại được soạn vẽ trên lụa, giấy hoặc in trên giấy còn lại đến nay được biết bắt đầu từ triều Minh, nhiều nhất là thời nhà Thanh.
- Cụ thể một số tấm địa đồ hành chính Trung Hoa trong đó người Trung Quốc không hề nhận Trường Sa, Hoàng Sa là của họ như thế nào, thưa ông?
- Trong thời nhà Thanh, đa số các bức địa đồ hành chính Trung Hoa thể hiện đúng phạm vi cương vực Trung Hoa. Ngoài bức Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ, còn rất nhiều bức khác như Hoàng dư toàn lãm đồ 1719, Khang Hi thứ 58. Công trình này do chính hoàng đế Khang Hi chủ trì, các giáo sĩ Joachim Bouvet (Bạch Tấn), Petrus Pierre Jartoux (Đỗ Đức Mỹ), Jean Baptiste Regis (Lôi Hiếu Tư), Xavier Ehrenbert Fridelli (Phí Ẩn)... thực địa trắc hội và tư vấn. Địa đồ này được in khắc bản đồng, một màu, song ngữ Hán - Mãn. Họ quan trắc thực địa, ứng dụng kỹ thuật xác định điểm thiên văn ba góc, trắc lượng kinh vĩ độ toàn quốc 641 điểm, tại Quảng Đông 37 điểm, cực nam lãnh thổ Trung Quốc dừng lại tại Nhai Châu (tận cùng của đảo Hải Nam) ở 18 độ 21 phút 36 giây vĩ bắc.
Bắt đầu từ năm 1708, đến năm 1718 họ hoàn thành các bản vẽ. Từ bản vẽ này hình thành ba bản khắc: bản đồng 41 mảnh tiếp hợp, mỗi mảnh 52,5 x 77cm (năm 1719 chế xong); bản gỗ 32 mảnh phân theo tỉnh và khu vực (1719); bản gỗ 227 phiến thu nhỏ, phân tỉnh, phủ. Năm Ung Chính thứ 6 (1728) đưa vào tùng thư Cổ kim đồ thư tập thành (cuốn 101), đây là bản thu nhỏ của Hoàng dư toàn lãm đồ.
Hoàng dư toàn lãm đồ là bức địa đồ đặc biệt quan trọng, là cơ sở nền tảng về tọa độ kinh vĩ cho hầu hết các địa đồ hành chính về sau, kể cả bức Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ 1904.
- Sở hữu những tấm bản đồ có giá trị lịch sử và pháp lý, theo ông, điều chúng ta cần chú ý là gì?
- Khi phân biệt một cách rõ ràng, chúng ta sẽ thấy rõ các kiểu lý giải gượng ép về một số địa đồ cổ của học giới Trung Quốc hiện nay, họ chỉ dựa vào hoặc đưa ra các bản đồ hành chính thế giới. Dĩ nhiên họ sẽ có vẽ và tiêu danh các đảo, cụm đảo trên biển Đông, nhưng việc này không có ý nghĩa xác lập chủ quyền của nhà nước Trung Hoa.
Mặt khác, khi phân biệt một cách rõ ràng, học giới Việt Nam sẽ thuận tiện khi cho các thông tin và trưng dẫn một cách chính xác trong việc sử dụng địa đồ cổ Trung Quốc vào các lập luận.
Cuối cùng, chúng ta sẽ thấy rằng suốt quá trình lịch sử, việc soạn vẽ địa đồ của các cơ quan công quyền, các học giả và các nhà du hành người Trung Hoa không có biểu hiện chiếm hữu các đảo, quần đảo trên biển Đông Việt Nam và biển Đông Nam Á.

http://img2.news.zing.vn/2012/07/26/imageviewaspx-1.jpg
Tiến sĩ Mai Hồng (trái) bàn giao tấm bản đồ cho đại diện Bảo tàng Lịch sử quốc gia sáng 25/7
Cần công bố các bản đồ thể hiện chủ quyền quốc gia
Sáng 25/7, lễ tiếp nhận tấm bản đồ Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ (NXB Thượng Hải 1904), chứng minh Hoàng Sa, Trường Sa không thuộc Trung Quốc, đã diễn ra tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia, số 1 Tràng Tiền, Hà Nội.
Tấm bản đồ này được TS Mai Hồng trao lại cho bảo tàng nhằm lưu giữ, bảo quản cẩn trọng, phục vụ nghiên cứu khoa học, đồng thời giới thiệu tới đông đảo công chúng trong nước và quốc tế.
Xúc động trước sự quan tâm của đông đảo người dân, TS Mai Hồng chia sẻ mong mỏi nhiều đơn vị như Bộ Ngoại giao, các đơn vị chủ chốt thuộc ngành hàng hải sẽ quan tâm hơn tới việc tuyên truyền, công bố các tấm bản đồ quan trọng, thể hiện chủ quyền quốc gia trên các website thuộc bộ hoặc dịch giới thiệu ra quốc tế. Tấm bản đồ hiện được trưng bày tại phòng trưng bày chuyên đề của bảo tàng.
Cứ liệu lịch sử quan trọng

http://img2.news.zing.vn/2012/07/26/imageviewaspx-2.jpg
Ông Dương Trung Quốc
Có mặt trong buổi lễ bàn giao bản đồ cổ Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ, nhà sử học Dương Trung Quốc khẳng định: “Bản đồ được xem là một trong những tư liệu lịch sử, cho nên việc sưu tập bản đồ hết sức cần thiết trong công tác nghiên cứu nói chung, trong đó có những vấn đề liên quan đến chủ quyền.
Chúng ta biết rằng việc xây dựng được một tấm bản đồ chẳng hạn như bản đồ Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ mang tính khoa học cao, do vậy cũng có tính thuyết phục cao”.
- Bản đồ Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ đã góp thêm cứ liệu lịch sử hữu ích và chắc chắn còn nhiều cứ liệu có liên quan khác mà chúng ta chưa biết?
- Ngành bản đồ học đã phát triển từ rất lâu tại nhiều quốc gia trên thế giới. Ngay Việt Nam chúng ta đều biết Đại Nam nhất thống toàn đồ vẽ năm 1834 đã có Hoàng Sa, Vạn lý Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam, có thể với phương pháp vẽ tưởng như rất đơn giản nhưng lại rất rõ về chủ quyền.
Vị trí địa lý Việt Nam là khớp nối giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ, nằm trên một con đường hàng hải rất huyết mạch của thế giới, cho nên chúng ta phải quan tâm không những đến bản đồ của Việt Nam hay của Trung Quốc, mà còn là bản đồ của nhiều cường quốc về hàng hải khác khi thể hiện nội dung có liên quan. Có thể họ vẽ bản đồ không đề cập trực tiếp đến vấn đề chủ quyền, nhưng dẫu sao có những yếu tố mà qua đó chúng ta có thể nhận dạng được về vị trí địa lý của không gian biển đảo, của lãnh thổ quốc gia.
Còn về phía Trung Quốc, tôi tin đây là quốc gia mạnh về thư tịch học, những bản đồ của họ nằm rải rác rất nhiều hay được lưu trữ tại thư viện bản địa và nhiều nước trên thế giới. Tôi nghĩ ngay thư viện của ta cũng có, đặc biệt là kho lưu trữ của Thư viện Học viện Viễn Đông Bác Cổ, với những nguồn tư liệu được xây dựng từ cuối thế kỷ 19-20. Vấn đề là chúng ta đã khai thác được hết hoặc tập trung khai thác nhiều những tư liệu đang có chưa.
- Là một nhà sử học, ông cho rằng những chứng cứ học thuật như tấm bản đồ vừa được tìm thấy có ý nghĩa thế nào về mặt pháp lý?
- Cần thấy rằng việc đầu tư một cách bài bản cho việc sưu tập bản đồ không chỉ liên quan đến đấu tranh chủ quyền mà cả việc nhìn ra biển cho sự phát triển lâu dài của đất nước. Về mặt pháp lý, theo nhận thức của tôi, biển là không gian rất đặc thù, khác với việc hoạch định đường biên giới ở đất liền. Hơn nữa, đường biên giới biển bên cạnh việc liên quan đến chủ quyền quốc gia còn liên quan đến quyền tự do hàng hải.
Việt Nam đã hiện diện ở biển Đông rất lâu rồi thì cuộc đấu tranh phân định chủ quyền phải dựa trên nhiều cơ sở: những cam kết quốc tế như công ước luật biển năm 1982 và những chứng cứ lịch sử, những tài liệu thư tịch trong đó có cả bản đồ.

suppercarino
26-07-2012, 03:40 PM
http://img2.news.zing.vn/2012/07/26/imageviewaspx-3.jpg
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu thuyết trình về biển đảo
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu: Người dân cần biết những tri thức về chủ quyền
Tấm bản đồ Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ có giá trị địa lý lịch sử. Bản đồ này được vẽ dưới thời nhà Thanh bằng kỹ thuật sử dụng hệ tọa độ kinh tuyến, vĩ tuyến của châu Âu.
Điểm đặc biệt của Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ là những địa danh Trung Quốc được ghi bằng chữ Hán, nhưng có xen vào những chỗ quan trọng được ghi bằng chữ Pháp. Chẳng hạn, giới hạn cực nam của biển Trung Quốc trên bản đồ này có ghi dòng chữ “Mer de Chine” (biển Trung Quốc) từ đảo Hải Nam trở lên phía trên. Đây cũng chính là giới hạn cuối cùng của biển Trung Quốc về phía nam.
Cùng loại với tấm bản đồ này, tôi có hơn một chục tấm bản đồ Trung Quốc được thực hiện trong nhiều thời kỳ, có bức từ thế kỷ 16, đều thể hiện cương vực của Trung Quốc về phía nam chỉ đến đảo Hải Nam.
Ý nguyện của tôi là trong tranh chấp chủ quyền biển đảo hiện nay nên giữ nguyên tắc “công lý và hòa bình”. Còn những tư liệu thể hiện rõ ràng chủ quyền của Việt Nam trong lịch sử thì nên dần dần đưa vào sách giáo khoa. Hiện nay học sinh đã kém về môn lịch sử, môn địa lý lịch sử lại càng kém.
Trong tranh chấp quốc tế, những bản đồ chính thống như Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ có giá trị quan trọng, khi mình đưa ra thì nó góp phần chứng minh hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.
http://img2.news.zing.vn/2012/07/26/imageviewaspx-4.jpg
TS Nguyễn Nhã phát biểu trong tọa đàm về biển Đông tại TP.HCM
Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã: Nên đưa ra thế giới toàn bộ hồ sơ chủ quyền của VN
Việc đưa ra tấm bản đồ cổ có xuất xứ Trung Quốc trong lúc này có giá trị thông tin rất cao, khiến mọi người quan tâm, đặc biệt kể cả phía Trung Quốc.
Phải nói với bất cứ tài liệu cổ nào của Trung Quốc từ chính sử, dã sử, địa dư, bản đồ đều dễ dàng chứng minh được rằng Paracel tức Hoàng Sa hay Cát Vàng của Việt Nam mà Trung Quốc gọi là Tây Sa hay Xisha không hề thuộc quyền sở hữu của Trung Quốc.
Riêng về bản đồ cổ của Trung Quốc thì đã rất nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam như TS Nguyễn Quang Ngọc từng phát hiện tại kho bản đồ ở Úc rất nhiều bản đồ cổ.
Luận án tiến sĩ của tôi (Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa) đã kể trong phụ lục hơn 10 bản đồ cổ của Trung Quốc vẽ cực nam của Trung Quốc là đảo Hải Nam như: Dư địa đồ đời Nguyên vẽ lại thu nhỏ trong sách Quảng dư đồ năm 1561, Thiên hạ nhất thống chí đồ trong Đại Minh nhất thống chí năm 1461, Hoàng Minh đại nhất thống tổng đồ trong Hoàng Minh chức phương địa đồ năm 1635, Hoàng triều nhất thống dư địa tổng đồ năm 1894, Quảng Đông tỉnh đồ trong Quảng Đông dư địa toàn đồ năm 1897...
Tôi rất vui mừng khi biết thêm thông tin về một trong hàng trăm bằng chứng về Trung Quốc không hề có chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa. Tôi đề nghị phải thật quan tâm việc đưa ra thế giới toàn bộ hồ sơ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa theo đúng pháp lý quốc tế về chiếm hữu thật sự mang tính nhà nước các hải đảo.
Theo Tuổi Trẻ

thieugia
26-07-2012, 04:40 PM
Rất cần những thông tin như thế này để cho mọi người chúng ta hiểu được sự phi lý và ngang ngược của phía Trung Quốc. Hành động của Trung Quốc "gà cồ ăn quẩn cối xay", "đói làm càn", "cắn ẩu"... những hành vi như thế đã thể hiện rất rõ "cá lớn hiếp cá bé", thể hiện sự thiếu tôn trọng luật lệ quốc tế của phía Trung Quốc.
Cảm ơn bạn rất nhiều.

suppercarino
27-07-2012, 02:25 PM
cám ơn thầy

thieugia
27-07-2012, 03:13 PM
có một clip của người Trung Quốc quay cảnh bọn chó Tàu nó bắn các chiến sĩ Hải quân của ta nhưng thầy không làm sao để tải lên đây được, con vào địa chỉ này
http://phitruong.multiply.com/journal/item/4
Tải nguyên cái clip của người Tàu đăng lên cho mọi người biết giúp thầy nhé. Thầy tải được nó về máy của thầy rồi nhưng khi tải lên đây lại không tìm thấy clip này đâu cả, thoát ra kiểm tra lại thì nó vẫn nằm trong Video nhưng cứ vào lại chả thấy cái clip nào cả. Chắc tại máy của thầy có vấn đề.
Con giúp thầy.

suppercarino
27-07-2012, 04:40 PM
http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=xX68AZV52-4
Bản tiếng Việt do các bạn diễn đàn ttvnol.com biên tập
Đó là bãi đá Gạc Ma, chỉ nổi lúc thủy triều xuống, trong clip do phóng viên chiến trường Trung Quốc quay lại, các binh sĩ Hải quân Trung Quốc đã tuyên thệ trước khi xả đại liên thảm sát 74 chiến sĩ Hải quân Việt Nam ngày 14 tháng 3 năm 1988. MỐI THÙ NÀY CHÚNG TA PHẢI TRẢ. Chúng ta phải đánh giặc ngoại xâm bằng mọi giá và bằng mọi vũ khí mà chúng ta có. Hãy đoàn kết 1 lòng, nắm nắm chặt bàn tay để dánh đuổi giặc ngoại xâm nhé các bạn!
Cập nhật đoạn videoclip được biên tập lại nhằm mục đích tuyên truyền cho nhân dân thế giới vế tội ác chiến tranh của Hải quân Trung Quốc vào ngày 14 tháng 3 năm 1988.
Ký sự hải chiến Trường Sa (1988-2008)
LGT: Trong tinh thần vinh danh các chiến sĩ Việt Nam đã anh dũng hy sinh trong các trận hải chiến Hoàng Sa, trận chiến biên giới phía Bắc và trận hải chiến Trường Sa, chống lại quân xâm lược Trung Quốc, bảo vệ bờ cõi, chúng tôi xin gửi đến quý vị những bài đặc biệt về các trận chiến này.
Để tưởng niệm các chiến sĩ hải quân nhân dân đã hy sinh trong trận hải chiến Trường Sa 21 năm trước, chúng tôi xin gửi đến quý vị bài viết nhan đề "Một trang sử anh hùng, một thời kỳ nhục nhã" của tác giả Phạm Trung Trực .
Bài viết này được tác giả viết vào mùa thu năm ngoái, đánh dấu 20 năm trận hải chiến Trường Sa, và vào lúc 10 nhà dân chủ bị nhà nước cộng sản bắt vào nhà giam vì biểu tình phản đối Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa và Trường Sa.Phạm Trung Trực là bút danh của một sĩ quan hải quân quân đội nhân dân đã tham dự trận hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988.
20 năm trận hải chiến Trường Sa:Một Trang Sử Anh Hùng Một Thời Kỳ Nhục Nhã
Phạm Trung Trực
Mùa thu Hà Nội - 2008
Nhân dịp 10 chiến sĩ dân chủ bị nhà nước cộng sản bắt vào nhà giam vì biểu tình phản đối Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa và Trương Sa
Ngay từ cuối năm 1986, tình hình vùng biển Đông, đặc biệt là khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam có những diễn biến phức tạp do các hoạt động do thám, khiêu khích của lực lượng Hải quân Trung Quốc.
Đặc biệt, từ ngày 24 đến 30-12–1986, máy bay và tàu chiến của Trung Quốc tăng cường hoạt động từ đảo Song Tử Tây đến khu vực đảo Thuyền Chài. Đến đầu năm 1987 Trung Quốc vừa đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao bịp bợm, vừa tăng cường đưa tàu chiến vào gần các đảo của Quần đảo Trường Sa, trong đó có những đảo bộ đội ta đang chiếm giữ. Chúng trắng trợn đặt bia kỷ niệm ở đảo Ma-i-xi-Ti, cho tàu qua lại các đảo An Bang, Thuyền Chài, Trường Sa, Trường Sa đông, Song Tử Tây… có lúc chỉ cách quân ta có một vài hải lý.Trắng trợn hơn chúng còn đưa lực lượng chiếm giữ hai đảo Kỳ Vân và Kiệu Ngựa ở phía nam Quần đảo Trường Sa.
Trước tình hình đó, ngày 24-10-1987 Tư lệnh Hải quân ra mệnh lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cho lực lượng bảo vệ các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Đồng thời chỉ đạo cho các lữ đoàn 125,lữ đoàn 172, trung đoàn công binh 83 chuẩn bị lực lượng phương tiện sẵn sàng cơ động đến xây dựng công sự trên các đảo.
Theo dõi chặt chẽ mọi diễn biến trên biển Đông và khu vực quần đảo Trường Sa, ngày mồng 9 tháng Giêng năm 1988, Bộ Tư lệnh Hải quân đề ra chủ trương: Tranh thủ thời gian, khẩn trương triển khai lực lượng,đóng giữ trên các đảo. Kiên quyết không để bọn bành trướng Bắc Kinh thực hiện ý đồ đưa lực lượng đóng xen kẽ với ta.
Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Hải quân, ngày 23 tháng Giêng nắm 1988, tàu HQ-611 và tàu HQ – 712 do đồng chí Công Phán, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 làm biên đội trưởng, đồng chí Nguyễn Thế Dân, Phó tham mưu trưởng vùng 4 Hải quân làm biên đội phó, đưa 1 đại đội công binh đến đóng giữ đảo Chữ Thập. Sáng ngày 30 tháng Giêng, khi cách đảo 5 hải lý thì ta phát hiện 4 tàu của Trung Quốc ra ngăn cản, không cho tàu ta tiếp cận đảo,tàu ta đành phải quay về Trường Sa đông, không thực hiện được việc đóng giữ đảo Chữ Thập như kế hoạch đề ra.
Ngày 4 tháng 2 năm 1988, thường vụ đảng ủy Quân chủng Hải quân họp nhận định “bọn Trung Quốc đã cho quân chiếm đóng đảo Chữ Thập. Trước mắt ta chưa thực hiện đóng xem kẽ được vì chúng ngăn chặn ta từ xa.Sắp tới chúng sẽ mở rộng phạm vi chiếm đóng sang các đảo Châu Viên, Đá Đông,Đá Nam, Tốc Tan và đóng xen kẽ những bãi đá ta đang đóng giữ. Do đó ta phải nhanh chóng đưa lực lượng ra đóng giữ các đảo: Đá Lát, Đá Lớn, Châu Viên. Thực hiện nghị quyết của Thường vụ đảng ủy quân chủng, tư lệnh Hải quân điện cho biên đội tàu 611 và 712 đang neo đậu ở đảo Trường Sa đông, đưa bộ đội khẩn trương đến đóng giữ đảo Đá Lớn trước 3 giờ sáng. ngày 5 tháng 2 năm 1988.
Tình hình đang diễn ra hết sức cấp bách.Cấp trên vẫn chưa có chỉ đạo cụ thể.
Trước tình hình ấy Quân chủng Hải quân quyết định thành lập Sở chỉ huy tiền phương tại Cam Ranh do đồng chí Giáp văn Cương làm Tư lệnh kiêm tư lệnh vùng 4. Các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, Kỹ thuật đều tổ chức các bộ phận tiền phương của mình để kịp thời giải quyết mọi tình huống cấp bách.
Chấp hành mệnh lệnh của Tư lệnh quân chủng, tàu HQ- 611và tàu HQ-712 đưa lực lượng công binh và bộ đội của Lữ đoàn 146 đến đảo Đá lát. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Công Phán, bộ đội chia lực lượng thành 3 tổ vừa xây dựng vừa canh gác vừa sẵn sàng chiến đấu. Đến ngày 20-2-1988 lực lượng công binh được sự hỗ trợ của lực hượng đóng giữ đảo đã hoàn thành nhiệm vụ xây dựng công sự và nhà ở và bàn giao cho đơn vị.
Cùng thời gian đó ở hướng Đá Lớn, ngày 13-2-1988 thực hiện mệnh lệnh của Quân chủng, Lữ đoàn 125, đơn vị hai lần được tuyên dương anh hùng, cho tàu HQ-505 kéo tàu LCU-556 cùng bộ phận công binh đến đóng giữ đảo Đá Lớn. Trong khi tàu ta đang tiến về phía đảo thì phát hiện tàu khu trục và hai tàu hộ vệ tên lửa của hải quân Trung Quốc cũng tiến về phía đảo Đá Lớn. Khi tàu ta cách Đá Lớn khoảng 4 hải lý thì tàu Trung Quốc thả tủy lôi ngăn cản.
Trước tình hình đó ban chỉ huy tàu HQ-505 nhận định: Bọn Trung Quốc chưa biết ý đồ của ta đưa lực lượng ra đóng giữ đảo,vì vậy ta cứ cho tàu chạy theo hướng đã định. Do sự mưu trí và bình tĩnh, cán bộ chiến sỹ tàu HQ-505 đã khôn khéo đưa tàu LCU- 556 tiếp cận được phía bắc đảo Đá Lớn.
Ngày 20-2-1988, sau khi khảo sát thăm dò luồng, tàu 556 đã an toàn tiếp cận phía nam đảo Đá Lớn khẩn trương triển khai thế trận phòng thủ.
Cuối tháng 2-1988 Hải quân Trung Quốc tăng thêm 4 tàu hộ vệ tên lửa, hộ vệ pháo xuống hoạt động ở khu vực quần đảo Trường Sa.
Tình hình trở nên hết sức căng thẳng. Bộ Tư Lệnh hải quân liên tục báo cáo lên trên xin ý kiến chỉ đạo. Một trong những nội dung đề nghị cấp trên giải đáp ngay: Trung Quốc là bạn hay thù. Chúng đánh ta, ta có đánh trả không? Cấp trên vẫn im lặng hoặc trả lời KHÔNG rõ ràng.
Đau đớn thay cho Tổ Quốc ta, chính vào thời điểm đó, trong lúc bọn bành trướng Bắc Kinh đã lộ rõ dã tâm xâm lược thì lãnh đạo đất nước với sự thao túng của Lê đức Anh, Ủy viên BCT, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đang tìm cách bắt tay với lãnh đạo Trung Quốc để âm mưu thực hiện cái gọi là “Giải pháp đỏ.” ở Căm pu Chia với ý đồ đưa cả bọn Khơ-me đỏ vào chính phủ liên hiệp mặc dù bị Nhà nước hợp pháp Căm pu Chia phản đối quyết liệt. Hun Sen nói thẳng với đại diện của ta: “Tại sao các anh lại có ý đồ vô lương tâm đến như thế. Bọn Pôn Pốt không những là kẻ thù của nhân dân Căm pu Chia mà cũng là kẻ thù của nhân dân Việt Nam. Hàng vạn chiến sỹ Việt Nam đã hy sinh xương máu giúp nhân dân Căm pu Chia đánh đuổi bọn Pôn Pốt để Căm pu Chia được độc lập như ngày nay tránh được họa diệt chủng dã man nhất trong lịch sử. Thế mà nay các anh lại bảo chúng tôi ngồi chung bàn với bọn chúng hay sao? Các anh có quyền gì làm việc đó?”
Bị mắng đến thế, không biết nhục, không biết hổ thẹn, Lê đức Anh còn trâng tráo nói: “Pôn Pốt là bạn tôi”. Đó chính cũng là câu nói mà Lê đức Anh nói với Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội Trương Đức Duy trong cuộc gặp vô nguyên tắc, hay nói thẳng ra là đi đêm với nhau bằng một cuộc mời cơm tại Bộ quốc phòng.
Cũng chính trong cuộc gặp riêng bí mật (mà BCT không hề hay biết) với Đại sứ Trương Đức Huy, không có phiên dịch, vì tên đại sứ này nói tiếng Việt rất giỏi, Lê đức Anh đã tiết lộ toàn bộ bí mật nội bộ của Đảng và Nhà Nước Việt Nam.
Không phải bây giờ chúng ta mới thấy cuộc gặp riêng của Lê đức Anh với Trương Đức Duy là sai lầm, là vô nguyên tắc, mà ngay từ hồi đó Lê đức Anh đã bị một số người có trách nhiệm phê phán. Ông Phạm Văn Đồng nói thẳng: “Trong các cuộc họp BCT bàn về đàm phán với Trung Quốc, tôi đã ba lần nói là không được hớ mà phải rất thận trọng. Đằng này anh lại ngửa bài trước thì họ biết hết và kết quả là cái gì đã xảy ra?”. Trung Quốc họ theo kiểu Đại hán của họ và kết quả là họ ép mình. Khi nghe ông Phạm văn Đồng phê phán, Lê đức Anh đứng lên chống chế là mình nói “Giải pháp đỏ.” chỉ là để nhằm thăm dò. Và y dựng đứng lên chuyện chuyện là bạn Căm pu Chia nhờ thăm dò thái độ của Trung Quốc. Nhưng Lê đức Anh không ngờ lại bị Võ văn Kiệt, Võ chí Công, Đồng sỹ Nguyên, Nguyễn cơ Thạch, đập cho tới tấp. Thậm chí Lê đức Thọ, người đỡ đầu thân tín Lê Đức Anh đang nằm trên giường bệnh cũng lên tiếng chỉ trích cuộc gặp vô nguyên tắc của Lê Đức Anh
Thật kỳ lạ đúng 20 năm sau, lịch sử lại lập lại một trang bi thảm trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta.
Vào năm 2008 khi nhân dân ta đặc biệt là tầng lớp thanh niên, sinh viên biểu tình tỏ thái độ phản đối bọn Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa - Trường Sa, thì ban lãnh đạo Đảng vẫn như vô cảm, thậm chí còn cho công an đàn áp dã man, bắt bỏ tù nhiều thanh niên,yêu nước dám hy sinh vì Tổ quốc thân yêu.
Cách đây 20 năm, mặc cho sự chần chừ của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, cán bộ chiến sỹ Quân chủng Hải quân vẫn kiên quyết tỏ rõ quyết tâm bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ Quốc.
Lúc này nhiệm vụ đóng giữ đảo của cán bộ chiến sỹ các Lữ đoàn 146, 125 và Trung đoàn công binh 83 ngày càng trở nên quyết liệt. Trung tuần tháng 2-1988, Lữ đoàn 125 anh hùng đưa Pông – Tông O7 ra giữ đảo Tốc Tan.

suppercarino
27-07-2012, 04:46 PM
Tại đảo Đá Đông, một đảo chìm có diện tích khá rộng, giữ vị trí quan trọng trong quần đảo, Tư lệnh Quân chủng lệnh cho tàu HQ- 661 đưa lực lượng ra cắm cờ, canh gác, đồng thời lệnh cho tàu HQ-605 đưa bộ đội ra chốt giữ đảo. Trong bối cảnh hải quân Trung Quốc có thể khiêu khích,ngăn chặn, song các tàu của ta đã bình tĩnh vượt qua sóng gió đưa bộ đội và vật liệu đến đảo an toàn. Ta khẩn trương triển khai lực lượng bảo vệ đảo trong hoàn cảnh cập rập, bị động do không được trên chỉ đạo kịp thời.
Các tàu HQ-605, HQ-604 được lệnh ở lại làm nhiệm vụ bảo vệ Đá Đông ở vòng ngoài.
Như vậy đến đầu tháng 3-1988 lực lượng hải quân mới triển khai xong thế trận phòng thủ trên các đảo Đá Lát, Đá Đông,Tốc Tan, Tiên Nữ và Đá Lớn, đưa tổng số đảo đóng giữ của ta lên số 16, gồm 9 đảo nổi, 7 đảo chìm.
Trong những tháng đầu năm 1988, Trung Quốc cho quân chiếm đóng một số đảo và bãi đá thuộc khu vực quần đảo Trường Sa: Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Xu Bi, Huy Gơ, …Ta xây dựng thế trận phòng thủ ở các đảo Tiên Nữ, Đá Lất, Đá Lớn, Đá Đông, Tốc Tan, bước đầu ngăn chặn được âm mưu mở rộng phạm vi chiếm đóng của kẻ thù ra các đảo lân cận. Song bọn chúng vẫn có thể chiếm thêm một số bãi cạn xung quanh cụm đảo Sinh Tồn, Nam Yết và Đông Kinh Tuyến 115 độ.
Căn cứ vào tình hình xung quanh khu vực Trường Sa, Bộ tư lệnh Hải quân ta xác định: “Gạc Ma giữ vị trí quan trọng, nếu để bọn Trung Quốc chiếm được sẽ khống chế đường qua lại của ta trong việc tiếp tế và bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa“. Vì vậy không chờ ý kiến của trên Bộ tư lệnh Quân chủng hạ quyết tâm triển khai đóng giữ các đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao. Đây là một nhiệm vụ hết sức nặng nề, khó khăn phức tạp, bởi trong cùng một lúc ta phải triển khai đóng giữ cả 3 đảo trong điều kiện phương tiện, trang bị hạn chế, lực lượng lại có hạn. Không còn cách nào khác Bộ tư lệnh Quân chủng lại quyết định giao cho Lữ đoàn 125 phát huy truyền thống đơn vị anh hùng huy động lực lượng thực hiện tốt nhiệm vụ này.
Trong khi đó, hải quân Trung Quốc sau khi chiếm giữ trái phép các đảo Chữ Thập, Châu Viên, Huy Gơ và Xu Bi cũng đang có ý đồ chiếm giữ ba đảo Gạc Ma, CôLin, Len Đao nhằm gây thanh thế ở khu vực Trường Sa và cả vùng biển Đông. Đầu tháng 3-1988 chúng huy động lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa, tăng số tàu hoạt động ở đây thường xuyên lên tới từ 9 đến 12 tàu chiến gồm: Khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, hai tàu hộ vệ pháo, hai tàu đổ bộ. Tàu hỗ trợ gồm ba chiếc LSM, ngoài ra còn có tàu đo đạc, tàu kéo và một Pông-Tông lớn.
Trước tình hình đó, Tư lệnh Hải quân lệnh cho vùng 4, Lữ đoàn 125, Lữ đoàn 146,các Hải đội 131, 132, 134, của Lữ đoàn 172 chuyển trạng thái sãn sàng chiến đấu cao. Ngày 12-3-0988 tàu HQ-605 (thuộc Lữ đoàn 123) do đồng chí Lê lệnh Sơn làm thuyền trưởng được lệnh từ đảo Đá Đông đến đóng giữ đảo Len Đao trước 5 giờ sáng ngày 14-3-1988. Sau 29 giờ hành quân bí mật vượt qua sóng to gió lớn, tàu HQ-605 đến Len Đao lúc 5 giờ ngày 14-3-1988 và cắm cờ Tổ quốc trên đảo, khẳng định chủ quyền của Tổ quốc Vệt Nam.
Thực hiện nhiệm vụ đóng giữ các đảo Gạc Ma, Cô Lin, 9 giờ sáng ngày 13-3-1988, tàu HQ-604 do đồng chí Vũ phi Trừ làm Thuyền trưởng và tàu HQ-505 do đồng chí Vũ huy Lễ làm thuyền trưởng được lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về đảo Gạc Ma, CôLin. Phối hợp với hai tàu HQ-604 và HQ-505, có hai phân đội công binh (70 người) thuộc trung đoàn 83, 4 tổ chiến đấu (22 người) thuộc Lữ đoàn 146 do đồng chí Trần đức Thông, phó Lữ đoàn trưởng chỉ huy. Sau khi hai tàu của ta thả neo được 30 phút thì tàu hộ vệ của Trung Quốc từ Huy Gơ chạy về phía Gạc Ma có lúc cách tàu quân ta chỉ khoảng 500 mét. 17 giờ ngày 13-3-1988, tàu Trung Quốc áp sát tàu HQ-604 của ta và dùng loa gọi sang khiêu khích. Bị địch uy hiếp, chiến sỹ hai tàu HQ-604, HQ-505 động viên nhau giữ vững quyết tâm không để mắc mưu khiêu khích của địch, kiên trì tuần giữ quanh đảo.Trong lúc đó tàu chiến đấu của địch cùng một tàu hộ vệ, hai tàu vận tải thay nhau cơ động chạy quanh đảo Gạc Ma, nhằm uy hiếp tinh thần quân ta.
Trước tình hình căng thẳng ngày một tăng do bọn Trung Quốc gây ra, vào hồi 21 giờ ngày 13-3-1988, Bộ tư lệnh Hải quân chỉ thị cho các đồng chí Trần đức Thông, Vũ huy Lễ, Vũ phi Trừ chỉ huy bộ đội quyết giữ vững các đảo Gạc Ma, Cô Lin. Bộ tư lệnh chỉ thị khẩn trương thả xuồng máy,xuồng nhôm, chuyển vật liệu làm nhà trên đảo ngay trong đêm 13-3-1988. Cùng lúc đó, lực lượng của Lữ đoàn 146 bí mật đổ bộ cắm cờ Tổ quốc và triển khai 4 tổ bảo vệ đảo Gạc Ma.
Lúc này bọn Trung Quốc điều thêm hai tàu hộ vệ trang bị pháo 100 mm đến hỗ trợ, đe dọa ta rút khỏi đảo Gạc Ma.
6 giờ ngày 14-3-1988, bọn Trung Quốc thả 3 thuyền nhôm và 40 quân đổ bộ lên đảo. Bọn Trung Quốc dựa vào thế quân đông tiến đến giật cờ ta. Lập tức thiếu úy Trần văn Phương, hạ sỹ Nguyễn văn Lanh cùng đồng đội anh dũng xông lên giành lại cờ.
Bọn lính Trung Quốc láo xược, hung hãn đã dùng lưỡi lê đâm và bắn Nguyễn Văn Lanh bị thương. Thiếu úy Trần văn Phương xông vào cứu bạn lập tức bị bọn lính Đại hán bắn chết. Trần Văn Phương đã anh dũng hy sinh.
Đây là liệt sỹ đầu tiên của bộ đội hải quân Việt Nam hy sinh trên vùng biển Đông của Tổ Quốc, bảo vệ quần đảo Trường Sa. Trước lúc hy sinh, Trần văn Phương đã hô to: “Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo. Hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng hải quân anh hùng. Tổ quốc Việt Nam muôn năm.”
Tiếng hô của anh vang vọng trên sóng biển Đông xa xôi. Những người lãnh đạo ở Hà Nội có nghe được tiếng hô thống thiết này không? Tiếng hô mà lẽ ra bằng tâm linh của những con người có lương tri phải nghe được, cảm được. Vì chính họ là những người phải chịu trách nhiệm về sự hy sinh này.
Không uy hiếp được bộ đội ta rút khỏi đảo,bọn Trung Quốc dùng hai tàu bắn pháo 100 mm vào tàu HQ-604, làm tàu ta bị hỏng nặng. Tiếp đó bọn chúng cho quân xông về phía tàu ta. Thuyền trưởng Vũ phi Trừ vừa chỉ huy bộ đội chiến đấu, vừa tổ chức băng bó cứu chữa thương binh, và hỗ trợ các chiến sỹ bảo vệ cờ. Đối phương tiếp tục nã đạn, làm tàu ta bị thủng nhiều lỗ và chìm dần xuống biển. Đồng chí Vũ phi Trừ, thuyền trưởng ; đồng chí Trần đức Thông, Phó Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 cùng một số cán bộ chiến sỹ đã anh dũng hy sinh cùng tàu 604 ở khu vực đảo Gạc Ma.
Tại đảo Cô Lin, 6 giờ ngày 14 tháng 3 năm 1988, tàu HQ-505 đã cắm hai lá cờ trên đảo. Khi tàu 604 của ta bị chìm, đồng chí Vũ Huy Lễ, thuyền trưởng tàu HQ-505 ra lệnh nhổ neo cho tàu ủi bãi. Phát hiện tàu 505 của ta đang cơ động lên bãi, hai tàu của đối phương quay sang tiến công tàu 505. Bất chấp hiểm nguy, tàu HQ-505 chạy hết tốc độ, trườn lên được hai phần ba thân tàu thì bốc cháy. 8 giờ 15 phút ngày 14 tháng 3, bộ đội tàu HQ-505 vừa triển khai lực lượng dập lửa cứu tàu, bảo vệ đảo, vừa đưa xuồng đến cứu vớt cán bộ, chiến sĩ tàu HQ-604 bị chìm. Tàu HQ – 505 bị bốc cháy. Cán bộ chiến sĩ của tàu, dưới sự chỉ huy dũng cảm của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử, bảo vệ chủ quyền đảo Cô Lin.

suppercarino
27-07-2012, 04:49 PM
Ở hướng đảo Len Đao, 8 giờ 20 phút ngày 14 tháng 3, tàu của bọn Trung Quốc bắn mãnh liệt vào tàu HQ-605 của ta. Tàu 605 bốc cháy và chìm lúc 6 giờ ngày 15 tháng 3. Cán bộ, chiến sĩ của tàu dìu nhau bơi về đảo Sinh Tồn an toàn.
Như vậy, trong trận chiến đấu ngày 14 tháng 3 năm 1988, ba tàu của hải quân ta bị bắn cháy và chìm, ba đồng chí hy sinh, 11 đồng chí bị thương, 70 đồng chí bị mất tích. Sau này đối phương trao trả ta 9 đồng chí, còn 61 người mất tích.
Mặc dù so sánh lực lượng chênh lệch,phương tiện, vũ khí hạn chế, cán bộ và chiến sĩ hải quân ta đã chiến đấu dũng cảm nêu cao quyết tâm bảo vệ chủ quyền hải đảo của Tổ quốc.
Với chiến công oanh liệt đó, tàu HQ-505 được Nhà nước tuyên dương đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Các đồng chí Vũ Phi Trừ, Trần Đức Thông, Vũ Huy Lễ, Nguyễn Văn Lanh, Trần Văn Phương được truy tặng và phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hàng chục tập thể và cá nhân được tặng thưởng huân chương Quân công, huân chương Chiến công các loại.
Năm 2008 này vừa tròn hai mươi năm trận hải chiến Trường Sa lịch sử. Cách đây hai mươi năm, trên vùng biển Trường Sa,hơn 70 cán bộ chiến sĩ quân đội nhân dân Việt nam đã anh dũng hi sinh khi làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của tổ quốc. Họ đã bị kẻ thù Trung Quốc dã man, tham lam giết hại. Tưởng chừng như sự hi sinh mất mát của họ sẽ bị chìm vào lãng quên nhưng nhân dân cả nước cũng như đồng bào hải ngoại, nhân dịp kỷ niệm này giành cho các chiến sĩ lòng thương cảm vô hạn. Hàng triệu người dân nước Việt thương xót nghĩ đến các anh. Thương xót vì biết các anh hi sinh anh dũng nhưng vẫn không thể yên nghỉ bởi kẻ thù năm ấy vẫn đang còn chiếm giữ một phần đất ruột thịt của tổ quốc, mở đầu một thời kì nhục nhã do tập đoàn lãnh đạo đứng đầu là Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh cam tâm làm tay sai cho kẻ thù, xúc phạm đến sự hi sinh cao cả và thiêng liêng của các anh. Nhân dân Việt nam ở trong nước cũng như ngoài nước thì sẽ mãi mãi nhớ tới các anh, những anh hùng của trận chiến Trường Sa tháng 3 năm 1988, và cả những người lính Việt nam cộng hòa đã anh dũng hi sinh trong trận chiến Hoàng Sa năm 1974.
Thực ra trận chiến Hoàng Sa năm 1974 oanh liệt hơn trận Trường Sa năm 1988. Năm 1974, mặc dù lực lượng ít hơn, lại bị bất ngờ trước âm mưu xâm lược của bọn Tàu (Vì nghĩ rằng, hạm đội 7 Mỹ còn đấy bọn Tàu không dám làm), các chiến sỹ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa, đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, đánh chìm ba tàu của chúng, trong đó có soái hạm chỉ huy, khiến toàn bộ Bộ Tư lệnh trận đánh gồm 2 đô đốc, 4 đại tá, 6 trung tá, 2 thiếu tá bị tử thương.
Phía Hải quân Việt Nam Cộng Hòa có nhiều tấm gương hy sinh dũng cảm, tiêu biểu là trung tá Ngụy văn Thà, Hạm trưởng Hộ Tống Hạm Nhật Tảo. Khi tàu bị trúng đạn, đang chìm dần giữa biển Đông, Ngụy Văn Thà đã lệnh cho Hạm phó, thiếu tá Nguyễn Thành Trí, dùng bè cao su đưa số chiến sỹ còn sống sót, bị thương về đất liền, còn mình quyết ở lại với chiến hạm cho đến hơi thở cuối cùng.
Tất cả họ đã ngã xuống vì chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc Việt nam.Tổ Quốc đời đời ghi nhớ tấm gương anh hùng của các anh, các chiến sĩ Quân đội Việt Nam Cộng Hòa cũng như các chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam

thieugia
27-07-2012, 09:07 PM
Cảm ơn suppercarino ! Đây chính là những minh chứng không thể chối cãi, là tài liệu, chứng cứ phơi bày một cách rõ nét nhất tội ác dã man của bọn Tàu Ô khốn nạn, phơi cái bụng chó thối tha của người "anh em láng Riềng". Và cũng qua đây, chúng ta mới thấy sự dũng cảm phi thường, sự hy sinh cao cả của những người lính cụ Hồ, những người con đất Việt.
Cảm ơn các anh, những người đã nằm xuống vì mảnh đất thiêng liêng, vì sự bình yên của dân tộc! Chúng tôi sẽ mãi ghi nhớ sự hy sinh cao cả của các anh.
Hãy chia sẻ với mọi người về những hành động phi thường vaf sự hy sinh cao cả của những người lính cụ Hồ. Hãy lên án những hành vi vô sỉ của bọn Tàu Ô khốn nạn !