Trang 2/6 ĐầuĐầu 1234 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 11 tới 20 của 56

Chủ đề: NGƯ TIỀU VẤN ĐÁP Y THUẬT - Nguyễn Đình Chiểu

  1. #11
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Wink NGƯ TIỀU VẤN ĐÁP Y THUẬT - Nguyễn Đình Chiểu

    245- Líu lo chim nói trên cành,

    Như tuồng kể mách tình hình dân đau.

    Gió tre hiu hắt theo sau,

    Như tuồng xúi dục đi mau tìm thầy.

    Dưới non suối chảy kêu ngầy,

    250- Như tuồng nhắn hỏi sự này bởi ai ?

    Hai người nhìn thấy than dài,

    Cho hay non nước nhiều loài trông xuân,

    Mưa sầu gió thảm biết chừng nào thanh !


    255- Mảng xem cảnh cũ thương tình,

    Nào hay lạc nẻo lộ trình ải xưa.

    Cùng nhau ngơ ngẩn ngày trưa,

    Lại may gặp bạn cỡi lừa ngâm thơ.

    Hai người dừng gót đứng chờ,

    260- Lắng nghe du sĩ lời thơ ngâm rằng :

    V- Đạo Dẫn ngâm thơ

    Trời đông sùi sụt gió mưa tây,

    Đau ốm lòng dân cậy có thầy,

    Phương cũ vua tôi gìn trước mắt,

    Mạng nay già trẽ gửi trong tay.

    Trận đồ tám quẻ còn non nước,

    Binh pháp năm mùi sẵn cỏ cây.

    Hỡi bạn Y lâm ai muốn hỏi,

    Đò xưa bến cũ có ta đây.

    Ngâm rồi thoạt thấy Tiều, Ngư,

    Vội vàng Đạo Dẫn trụy lư cười ngầm.

    Chào rằng : này kẻ tri âm !

    Ngày nay lại đến Y lâm cầu gì ?
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  2. #12
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Wink NGƯ TIỀU VẤN ĐÁP Y THUẬT - Nguyễn Đình Chiểu

    265- Ngư rằng : Đem bạn cố tri,

    Đồng lòng tìm đến Nhân Sư học hành.

    Dẫn rằng : Hai chữ "phù sinh"

    Người non, kẻ nước, phận đành tiều, ngư.

    Bấy lâu sao chẳng tầm sư,

    270- Đến nay lại có công dư học nghề ?

    Tiều rằng : Thời vận bất tề,

    Thêm lầm thầy thuốc làm bê việc nhà.

    Ngư rằng : Ta nghĩ giận ta,

    Bởi thương con vợ mới ra hết tiền.


    275- Dẫn rằng : Trong cõi trần duyên,

    Hay người chưa trả rồi tiền nợ vay.

    Người xưa ba chuyến gãy tay,

    Tức mình học thuốc, mới hay làm thầy,

    Tiều rằng : Mấy cụm rừng y,

    Đều noi đường cái Hiên Kỳ trổ ra.

    285- Một ngày suối chảy một xa

    Rốt dòng lại có chính tà khác nhau.

    Ngư rằng : Cách trở bấy lâu,

    Đường đi ngày trước lạc đâu khôn tầm.

    Dẫn rằng : Đây thật Y lâm,


    290- Nhân khu ải khỏi, nào lầm chớ e !

    Ngư rằng : Dặm cũ vắng hoe,

    Mình tuy có thấy, không nghe biết gì.

    Dẫn rằng : Đó chớ vội đi,

    Ngày nay chưa gặp Tôn Sư ở nhà .
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  3. #13
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Wink NGƯ TIỀU VẤN ĐÁP Y THUẬT - Nguyễn Đình Chiểu

    295- Đến am Bảo Dưỡng theo ta,

    Nghỉ chơi vài bữa, rồi qua Đan Kỳ.

    Ngư, Tiều theo Đạo Dẫn đi,

    Ở am Bảo Dưỡng một khi vui vầy.

    Ba người kết bạn đông tây,


    300- Chuyện trò sách thuốc, lối này hỏi nhau.

    Ngư rằng : Trước ải Nhân Khu,

    Mười hai kinh lạc, cạn sâu chưa tường,

    Dẫn rằng : Ba âm, ba dương,

    Ba ba số bội, chia đường hai bên,

    305- Tay chân tả hữu hai bên,

    Âm dương đều sáu, dưới trên buộc ràng.

    VI- Thập nhị kinh lạc ca

    (Bài ca về mười hai kinh lạc)

    Dịch nghĩa :

    Kinh Thủ Thái dương thông với ruột non,

    Kinh Túc Thái dương thông với bọng đái,

    Kinh Thủ Dương minh thông với ruột già,

    Kinh Túc Dương minh thông với dạ dày,

    Kinh Thủ Thiếu dương thông với tam tiêu,

    Kinh Túc Thiếu dương thông với mật,

    Kinh Thủ Thái âm thông với phổi,

    Kinh Túc Thái âm thông với lá lách,

    Kinh Thủ Thiếu âm thông với trái tim,

    Kinh Túc Thiếu âm thông với thận,

    Kinh Thủ Quyết âm thông với màng tim,

    Kinh Túc Quyết âm thông với gan
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  4. #14
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    NGƯ TIỀU VẤN ĐÁP Y THUẬT - Nguyễn Đình Chiểu

    VII- Hựu hữu ca

    (Lại có bài ca rằng)

    Dịch nghĩa :

    Kinh Thái dương thuộc thủy, úng với Thìn,Tuất,

    thông với ruột non, bọng đái,

    Kinh Dương minh thuộc kim, ứng với Mão, Dậu,

    thông với ruột già, dạ dày,

    Kinh Thiếu dương thuộc hỏa, ứng với Dần, Thân,

    thông với tam tiêu và mật,

    Kinh Thái âm thuộc thổ, ứng với Sửu, Mùi,

    thông với phổi và lá lách,

    Kinh Thiếu âm thuộc hỏa, ứng với Tý, Ngọ,

    thông với tim và thận,

    Kinh Quyết âm thuộc mộc, ứng với Tỵ, Hợi,

    thông với màng tim và gan.


    Ngư rằng : Kinh lạc là tiêu,

    Chỗ nào khí huyết ít nhiều biết đâu.

    Dẫn rằng : Khí huyết nhân khu,

    310- Ta từng coi sách, thấy câu ca rằng :

    VIII.- Thập nhị kinh lạc khí huyết đa thiểu ca

    (Bài ca về khí huyết nhiều ít của mười hai kinh lạc)

    Dịch nghĩa :

    Nhiều khí, nhiều huyết, anh nên nhớ :

    Kinh Thủ Dương minh tức ruột già, và

    Kinh Túc Dương minh tức dạ dày.

    Ít huyết, nhiều khi, có sáu kinh :

    Tam tiêu, mật, thận, tim, lá lách, và phổi.

    Nhiều huyết, ít khí chia ra bốn kinh :

    Bọng đái, ruột non, màng, tim và gan.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  5. #15
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Wink NGƯ TIỀU VẤN ĐÁP Y THUẬT - Nguyễn Đình Chiểu

    Ngư rằng : Kinh lạc nhiều đàng,

    Người đau nhiều chứng, biết toan lẽ nào ?

    Dẫn rằng : Chớ hỏi thầy cao,

    bệnh nào thuốc nấy đem vào đường kinh.

    315- Tiều rằng : Xin hỏi tiên sinh,

    lệ trong năm tạng, ghi hình trạng sao ?

    Dẫn rằng : Tổ có lời rao :

    Tạng can thuộc mộc, cây rào mùa xuân.

    Sắc xanh, con mắt là chừng,

    320- Hoa ra giáp móng, dày gân buộc lèo.

    Giấu hồn, đựng máu, tiếng kêu,

    Vị toan, nước mắt, mạch nêu chữ Huyền.

    Quyết âm kinh túc ấy truyền,

    Hợp cùng phủ đảm, ngôi liền ngoài trong.

    325- Tạng tâm thuộc hoả, mạch Hồng,

    Mùa hè, sắc đỏ, chừng trong lưỡi này.

    Giấu thần, nuôi máu, ở đây,

    Đắng mùi, tiếng nói, nước vầy buồn hôi.

    Thiếu âm kinh thủ phải rồi,

    330- Hợp cùng ngoại phủ, rằng ngôi tiểu trường.

    Tạng tỳ thuộc thổ sắc vàng,

    Vượng theo tứ quý, đều tàng ý vui.

    Miệng chừng, nước dãi, ngọt mùi,

    Tiếng ca, mạch Hoãn, hay nuôi thịt hình.

    335- Thái âm kinh túc đã đành,

    Hợp cùng phủ vị, ngôi giành trung châu.

    Tạng phế thuộc kim, mạch Phù,

    Vị cay, sắc trắng, mùa thu, phách ròng.

    Giấu hơi, nuôi khắp da, lông,


    340- Mùi chừng, tiếng khóc, nước trong mũi thường.

    Thái âm kinh thủ cho tường,

    Hợp cùng ngoại phủ đại trường ấy thông .

    Tạng thận thuộc thủy, mùa đông,

    Sắc đen vị mặn, chi dùng nuôi xương,
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  6. #16
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Wink NGƯ TIỀU VẤN ĐÁP Y THUẬT - Nguyễn Đình Chiểu

    345- Tiếng rên, nước nhỏ hôi ươn,

    Hai tai chừng đó, giữ phương mạch Trầm.

    Phần về kinh Túc Thiếu âm,

    Hợp bàng quang phủ, gìn cầm hóa nguyên.

    Tiều rằng : Nam tạng đã biên,

    350- Kìa như sáu phủ, xin liền nói ra.

    Dẫn rằng : Cái mật người ta,

    Tượng theo xuân mộc, kinh là thiếu dương.

    Đảm ngoài làm phủ cho can,

    Tóm vào muôn mối, việc toan lo lường.


    355- Mấy chiều ruột nhỏ tiểu trường,

    Tượng theo hạ hỏa, thái dương kinh cầm.

    Ở ngoài làm phủ cho tâm,

    Nước trôi đem xuống đặng dầm nguồn sinh.

    Vị là kinh Túc Dương minh,

    360- Đựng theo đất chứa, việc mình uống ăn,

    Bao nhiêu nước, xác chứa ngăn,

    Phát ra các chỗ, chịu bằng quan ty.

    Ở ngoài làm phủ cho tỳ,

    Cái bao tử ấy thật ghi công dày.

    365- Đại trường ruột lớn liền đây,

    Dương minh kinh thủ, tượng vầy thu câm (kim).

    Ngôi theo nhờ phế hơi cầm,

    Vật ăn bã xác xuống hầm phẩn ra,

    Bàng quang thật bọng đái ta,

    370- Tượng theo đông thủy, kinh là thái dương.

    Ngôi theo ngoài chốn thận hương,

    Hóa hơi nước xuống, làm đường niệu tân.

    Tam tiêu phủ ấy ba tầng,

    Kiêm trên, giữa, dưới, gọi rằng tam tiêu.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  7. #17
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Red face NGƯ TIỀU VẤN ĐÁP Y THUẬT - Nguyễn Đình Chiểu

    375- Trên thâu ăn uống, nạp nhiều,

    Giữa chia trong đục, dưới điều gạn ra.

    Làm đường nước xác trải qua,

    Nhờ ba hơi ấy tiêu hòa máu, hơi.

    Trước sau bủa khắp ba hơi,

    380- Thiếu dương kinh thủ thật nơi dinh người.

    Tiều rằng : Kinh lạc mười hai,

    Tạng phủ mười một biết hài thế sao ?

    Dẫn rằng : Trước có lời rao :

    Quyết âm kinh thủ, tâm bào lạc nêu.


    385- Tâm bào cùng phủ tam tiêu,

    Trong ngoài hai ấy chia đều âm, dương.

    Muốn làm thầy đặng chữ "lương",

    Bệnh trong tạng phủ phải lường thực hư.

    Rồi đây hỏi lại Nhân Sư,

    390- Xin phân chứng thực, chứng hư cho rành.

    Ngư rằng : Kìa bến Ngũ Hành,

    Chia ra nẻo khắc, nẻo sinh làm gì ?

    Dẫn rằng : Trên, dưới hai nghi,

    Có năm hành ấy, hoa ky (cơ) xây vần.

    395- Mộc, kim, thủy, hỏa, thổ phân,

    Sinh : phần ấy tốt, khắc : phần ấy hư.

    Muốn cho rõ lẽ nên hư,

    Coi lời sinh khắc tổ sư ca rằng :
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  8. #18
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Red face NGƯ TIỀU VẤN ĐÁP Y THUẬT - Nguyễn Đình Chiểu

    IX - Ngũ hành tương sinh ca

    (Bài ca về ngũ hành tương sinh)

    Dịch nghĩa :

    Mộc sinh hỏa chừ, hỏa sinh thổ,

    Thổ sinh kim chừ, kim sinh thủy,

    Thủy sinh mộc chừ, năm mối sinh,

    Trong khoảng trời đất đều tốt lành.

    X - Ngũ hành tương khắc ca

    (bài ca về ngũ hành tương khắc)

    Dịch nghĩa :

    Mộc khắc thổ chừ, thổ khắc thủy,

    Thủy khắc hỏa chừ,hỏa khắc kim,

    Kim khắc mộc chừ, năm mối khắc,

    Trong khoảng trời đất thảy tai ương.

    Ai mà rõ lẽ ngũ hành,

    400- Việc trong trời đất dữ lành trước hay.

    Trên thời mưa móc, gió mây,

    Dưới thời non nước, cỏ cây muôn loài.

    Giữa thời nhà cửa, đền đài,

    Năm hành tóm việc ba tài nhỏ to.

    405- Ví dù tạo hóa mấy lò,

    Hóa công mấy thợ, một pho ngũ hành.

    Muốn coi phép ấy cho tinh,

    Đồ thư Hà Lạc, Dịch kinh rõ bàn.

    Ngư rằng : Nơi ải Thiên Can,

    410- Có non Ngũ Vận để toan việc gì ?

    Chưa hay chủ vận là chi ?

    Lại thêm khách vận, sách ghi rộn ràng ?

    Dẫn rằng : Mười chữ thiên can,

    Anh em thứ lớp, rõ ràng chẳng sai.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  9. #19
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Red face NGƯ TIỀU VẤN ĐÁP Y THUẬT - Nguyễn Đình Chiểu

    415- Anh em một gái, một trai,

    Âm dương chia khác, lâu đài năm phương,

    Giáp, Ất: mộc, ở đông phương,

    Bính, Đinh: hỏa, ở nam phương tỏ tường.

    Mậu, Kỷ: thổ, ở trung ương,


    420- Canh, Tân: kim, ở tây phương ấy thường.

    Nhâm, Qúy : thủy, ở bắc phương,

    Đều rằng chủ vận, sử đương việc trời.

    Năm ngôi chủ vận chẳng dời,

    Ngôi nào theo nấy, có lời thơ xưa.

    XI - Chủ vận thi

    (Bài thơ về chủ vận)

    Dịch nghĩa :

    Mộc vận bắt đầu từ tiết Đại hàn ;

    Hỏa vận bắt đầu từ ba ngày trước tiết Thanh minh;

    Thổ vận bắt đầu từ ba ngày sau tiết Mang chủng;

    Kim vận bắt đầu từ sáu ngày sau tiết Lập thu ;

    Thủy vận bắt đầu từ chín ngày sau tiết Lập đông;

    Hết vòng rồi trở lại từ đầu, muôn năm vẫn như vậy.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  10. #20
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Red face NGƯ TIỀU VẤN ĐÁP Y THUẬT - Nguyễn Đình Chiểu

    425- Năm nhà đều có túc duyên,

    Vợ chồng phối hợp, tách miền theo nhau.

    Anh Giáp, chị Kỷ cưới nhau,

    Hóa ra vận thổ, trước sau chẳng lầm.

    Ất, Canh hợp lại hóa câm,


    430- Đinh, Nhâm hợp lại hóa trầm mộc cây.

    Bính, Tân hòa thủy nước đầy,

    Anh Mồ, chị Quý hóa vầy hỏa quang.

    Muốn coi năm hóa tạo đoan.

    Gọi rằng khách vận, này chàng nghe thơ.

    XII - Khách vận thi

    (Bài thơ về khách vận)

    Dịch nghĩa :

    Giáp Kỷ hóa ra thổ, Ất Canh hóa ra Kim,

    Đinh Nhâm hóa ra mộc, tất cả thành rừng,

    Bính tân hóa ra thủy, chảy đi cuồn cuộn,

    Mậu Quý hóa ra hỏa, bốc lên thành ngọn lửa ở phương Nam.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

Tags for this Thread

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •