.
.
NHU NHƯỢC
Thuyết Nhu Nhược của Lão Tử là thuyết bị người đời hiểu lầm nhất, như thuyết Bất Tranh của ông vậy.
Thật sự Nhu Nhược là gì?
Ở chương 76, ông nói rõ nhất: “Nhân chi sinh dã nhu nhược, kỳ tử giả kiên cường. Vạn vật thảo mộc chi sinh dã nhu thủy, kỳ tử dã khô kháo. Cố kiên cường giả, tử chi đồ; nhu nhược giả, sinh cho đồ. Thị dĩ binh cường tắc bất thắng; mộc cường tắc chiết. Cố kiên cường xử hạ, nhu nhược xử thượng”.
(Người khi mới sinh, thì mềm yếu, mà khi chết thì cứng và mạnh. Vạn vật cây cỏ, mới sinh thì mềm dịu, mà khi chết thì khô héo. Nên cứng và mạnh, là bạn của chết. Mềm và yếu là bạn của sống. Vậy, binh mạnh thì không thắng, cây mạnh thì ắt gẫy. Cứng và mạnh, ở bậc dưới; mềm và yếu, ở bực trên).
Trong đoạn văn trên đây, hai chữ Nhu Nhược quả có một triết lý sâu xa, chứ không phải có cái nghĩa thiển cận như thông thường người ta đã hiểu. Lấy thí dụ một cái cây, cành lá mềm dịu là chứng sự đang sức sinh hóa; còn sự khô cứng là triệu chứng của sự cằn cỗi, chết chóc, không còn biến động gì được nữa.
Như thế Nhu Nhược có nghĩa là uyển chuyển, không cố chấp trong một hình thức cố định nào, dù thuộc về tâm lý, tình cảm hay tư tưởng. Tâm hồn con người Giải Thoát phải biết luôn luôn thay đổi, biến hóa, vô cùng uyển chuyển để theo kịp với nhịp sống của cuộc Đại Hóa trong trời đất, nếu bị hạn định trong một hình thức cứng rắn nào, thì đó là triệu chứng của sự khô cứng và chết chóc.
Bởi vậy, người theo Đạo Giải thoát rất sợ lối tư tưởng theo thành kiến, theo thói quen, theo tập niệm, thường nô lệ theo một bảng giá trị bất cứ thuộc về một hệ thống tư tưởng, đạo đức, luân lý hay tôn giáo nào.
Mỗi một thói quen là một thứ ngưng đọng, không còn biến đổi... nghĩa là đã trở thành máy móc... Và như vậy, ta có thể quả quyết rằng: “Không có một thói quen nào là hay cả đối với tư tưởng. Suy nghĩ theo thói quen, yêu thương vì thói quen, hành động theo tập quán, đó là những trở ngại lớn nhất trong con đường Giải thoát. Cho nên kẻ muốn đi đến Giải thoát, bước đầu tiên là tự mình phá hủy tất cả mọi thành kiến bất cứ thuộc về giới nào “Kiên cường giả tử chi đồ, như nhược giả sinh chi đồ”.
Người Giải thoát như con rồng. Biến hóa, ẩn hiện, không biết sao mà lượng trước được phản ứng của họ. Bậc thường nhân phản ứng rất hạn định chỉ có một chiều thôi, như một bộ máy... Những kẻ mà đời sống tinh thần bị gò bó, lệ thuộc trong một hệ thống luân lý hay tư tưởng nào sẽ là những kẻ có một phản ứng thô sơ và nhất định mà bất cứ ai có óc quan sát đều có thể biết trước được.
Một ông luật sư đứng ra biện hộ cho ai, bao giờ cũng tìm đủ cách để chứng minh rằng thân chủ mình là vô tội. Một nhà Nho hủ lậu bao giờ cũng có những phản ứng một chiều và hẹp hòi câu chấp, luôn luôn sẽ có những phản ứng một chiều với những ai phạm vào những điều cấm kị của giáo điều Nho Giáo.
Cũng như nhà duy vật sẽ không bao giờ chịu hiểu những gì không ăn khớp với những lý thuyết của họ, như lý thuyết Giai cấp đấu tranh chẳng hạn. Sự phản ứng đối với cuộc đời sẽ không bao giờ giống với những phản ứng một cách máy móc của các chất hóa học đã được người ta khám phá và qui định trong những công thức không bao giờ thay đổi. Bởi vậy, người theo đạo Giải thoát của Lão Trang chắc chắn sẽ không bao giờ là tín đồ trung thành của một tôn giáo, một triết thuyết, hay là chiến sĩ cuồng nhiệt của một chủ nghĩa chánh trị, xã hội hay luân lý nào cả.
Đó là cái huyền nghĩa của hai chữ Nhu Nhược.
Nhu nhược lại cũng có cái nghĩa là thuận theo, chiều theo, không cưỡng lại... tức là cái thuật “Bất tranh nhi thiện thắng” dùng” nhu nhược thắng cương cường”.
Không chống cự, tức là không tạo cho bên địch có cơ hội để tranh đấu: “phù duy bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh” (chương 22). Như thế Nhu Nhược đây có nghĩa là một phương pháp tranh đấu: đó là phép lấy hư mà trị thực, một phương thuật già dặn nhất trong phép tranh đấu của Nhu đạo ngày nay.
Cho nên mới có chỗ ông bảo: “Thượng thiện nhược thủy, thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh” (Bậc thượng thiện giống như nước, nước thì hay làm lợi cho vạn vật mà không tranh). Tánh của nước, thì yếu mềm; gặp chỗ trống, thiếu thì chảy vào; gặp chỗ đầy dư thì chảy ra. Lánh cao mà tìm thấp, ngày đêm chảy mãi mà không ngừng. Đó là nó thực hiện cái luật quân bình của Trời Đất Nước, luôn luôn chiều theo mà không kháng cự. Bị cản thì dừng, mở đường thì chảy, ống thẳng bầu tròn, nhưng không mất bản chất.
Tóm lại, chương 40 có viết: “Nhược giả, Đạo chi dụng”. Yếu mềm là cái dụng của Đạo... Nhược đây là biết chiều theo, không chống lại... không dùng ý chí mà cưỡng lại với Đạo, như người thợ lặn giỏi không cưỡng lại với nước nên không hay là có nước. Câu “yếu mềm là cái dụng của Đạo”, ta phải hiểu yếu mềm đây, là phương pháp để trở về với Đạo.
Bởi người ta thường sống thích đua đòi theo kẻ khác, chỉ tìm cách để bắt chước kẻ khác, sống theo cái sống của kẻ khác, sống theo những ước lệ giả tạo bên ngoài... mà không sống theo cái Chân Tánh của mình cho nên mới có dùng đến Ý Chí, tức là cố cưỡng ép mình để trở thành những gì không phải là mình. Nếu biết sống theo mình, theo cái Chân Diện Mục của mình thì sao lại phải còn dùng đến Ý Chí. Nên mới gọi là Vô Vi, vì đã huyền đồng cùng Bản Tánh.
Đó là cái nghĩa thứ hai của Nhu Nhược, đồng với Vô Vi, mà phương tiện là Bất Tranh.