Hiện kết quả từ 1 tới 3 của 3

Chủ đề: Bình Ngô Đại Cáo - Ức Trai Nguyễn Trãi - 平 吳 大 誥 - 抑 齋 阮 廌 - Hán Việt Dịch

  1. #1
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Post Bình Ngô Đại Cáo - Ức Trai Nguyễn Trãi - 平 吳 大 誥 - 抑 齋 阮 廌 - Hán Việt Dịch

    .
    .
    .

    代 天 行 化 皇上 若 曰。

    蓋 聞 ﹕

    仁 義之 舉, 要 在 安 民,

    弔伐 之 師 莫 先 去 暴 。

    惟 我 大 越 之 國,

    實 為文 獻 之 邦 。

    山 川 之 封域 既 殊,

    南 北 之 風 俗亦 異 。

    自 趙 丁 李 陳 之肇 造 我 國,

    與 漢 唐 宋元 而 各 帝 一 方 。

    雖 強弱 時 有 不 同

    而 豪 傑 世未 常 乏 。

    故 劉 龔 貪 功以 取 敗,

    而 趙 禼 好 大 以 促 亡 。

    唆 都 既 擒 於 鹹 子 關 ,

    烏 馬 又 殪 於 白 藤 海 。

    嵇 諸 往 古,

    厥 有 明 徵。

    頃 因 胡 政 之 煩 苛 。

    至 使 人 心 之 怨 叛 。

    狂明 伺 隙, 因 以 毒 我 民;

    惡 黨 懷 奸, 竟 以 賣我 國 。

    焮 蒼 生 於 虐 焰,

    陷 赤 子 於 禍 坑 。

    欺天 罔 民, 詭 計 蓋 千 萬狀;

    連 兵 結 釁 稔 惡 殆二 十 年 。

    敗 義 傷 仁 ,乾 坤 幾 乎 欲 息;

    重 科厚 歛, 山 澤 靡 有 孑 遺。

    開 金 場 塞 冒 嵐 瘴 而斧 山 淘 沙,

    採 明 珠 則觸 蛟 龍 而 緪 腰 汆 海 。

    擾 民 設 玄 鹿 之 陷 阱 ,

    殄 物 織 翠 禽 之 網 羅 。

    昆 虫 草 木 皆 不 得 以 遂其 生,

    鰥 寡 顛 連 俱 不獲 以 安 其 所 。

    浚 生 靈之 血 以 潤 桀 黠 之 吻 牙;

    極 土 木 之 功 以 崇 公私 之 廨 宇 。

    州 里 之 征徭 重 困,

    閭 閻 之 杼 柚皆 空 。

    決 東 海 之 水 不足 以 濯 其 污,

    罄 南 山之 竹 不 足 以 書 其 惡 。

    神 民 之 所 共 憤,

    天 地之 所 不 容 。



    奮 跡 藍山,

    棲 身 荒 野 。

    念 世讎 豈 可 共 戴,

    誓 逆 賊難 與 俱 生 。

    痛 心 疾 首者 垂 十 餘 年,

    嘗 膽 臥薪 者 蓋 非 一 日 。

    發 憤忘 食, 每 研 覃 韜 略 之書,

    即 古 驗 今, 細 推究 興 亡 之 理 。

    圖 回 之志

    寤 寐 不 忘 。

    當 義 旗初 起 之 時,

    正 賊 勢 方張 之 日 。

    奈 以 ﹕

    人 才秋 葉,

    俊 傑 晨 星 。

    奔走 先 後 者 既 乏 其 人 ,

    謀 謨 帷 幄 者 又 寡 其 助。

    特 以 救 民 之 念, 每鬱 鬱 而 欲 東;

    故 於 待 賢 之 車, 常 汲 汲 已 虛 左 。

    然 其

    得 人 之 效 茫若 望 洋,

    由 己 之 誠 甚於 拯 溺 。

    憤 兇 徒 之 未滅,

    念 國 步 之 遭 迍 。

    靈 山 之 食 盡 兼 旬,

    瑰縣 之 眾 無 一 旅 。

    蓋 天欲 困 我 以 降 厥 任,

    故與 益 勵 志 以 濟 于 難 。

    揭 竿 為 旗, 氓 隸 之 徒四 集

    投 醪 饗 士, 父 子 之 兵 一 心 。

    以 弱 制 彊, 或 攻 人 之 不 備;

    以寡 敵 眾 常 設 伏 以 出 奇。

    卒 能

    以 大 義 而 勝 兇殘,

    以 至 仁 而 易 彊 暴。

    蒲 藤 之 霆 驅 電 掣 ,

    茶 麟 之 竹 破 灰 飛 。

    士氣 以 之 益 增,

    軍 聲 以之 大 振 。

    陳 智 山 壽 聞風 而; 褫 魄,

    李 安 方 政 假 息 以 偷 生 。

    乘 勝 長 驅, 西 京既 為 我 有;

    選 兵 進 取, 東 都 盡 復 舊 疆 。

    寧橋 之 血 成 川, 流 腥 萬里;

    窣 洞 之 屍 積 野 ,遺 臭 千 年 。

    陳 洽 賊 之腹 心, 既 梟 其 首;

    李亮 賊 之 奸 蠹, 又 暴 厥屍 。

    王 通 理 亂 而 焚 者益 焚,

    馬 瑛 救 鬥 而 怒者 益 怒 。

    彼 智 窮 而 力盡, 束 手 待 亡;

    我 謀伐 而 心 攻, 不 戰 自 屈。

    謂 彼 必 易 心 而 改 慮,

    豈 意 復 作 孽 以 速 辜。

    執 一 己 之 見 以 嫁 禍於 他 人,

    貪 一 時 之 功以 貽 笑 於 天 下 。

    遂 靈 宣 德 之 狡 童, 黷 兵 無厭;

    仍 命 晟 昇 之 懦 將, 以 油 救 焚 。

    丁 未 九月 柳 昇 遂 引 兵 猶 邱 溫而 進,

    本 年 十 月 木 晟又 分 途 自 雲 南 而 來 。

    予 前 既 選 兵 塞 險 以 摧其 鋒,

    予 後 再 調 兵 截路 以 斷 其 食 。

    本 月 十八 日 柳 昇 為 我 軍 所 攻, 計 墜 於 支 稜 之 野 ;

    本 月 二 十 日 柳 昇 又 為我 軍 所 敗, 身 死 於 馬鞍 之 山 。

    二 十 五 日 保定 伯 梁 銘 陣 陷 而 喪 軀,

    二 十 八 日 尚 書 李 慶計 窮 而 刎 首 。

    我 遂 迎刃 而 解,

    彼 自 倒 戈 相攻 。

    繼 而 四 面 添 兵 以包 圍,

    期 以 十 月 中 旬而 殄 滅 。

    爰 選 貔 貅 之士,

    申 命 爪 牙 之 臣 。

    飲 象 而 河 水 乾,

    磨 刀而 山 石 鈌 。

    一 鼓 而 黥刳 鱷 斷,

    再 鼓 而 鳥 散麇 驚 。

    決 潰 蟻 於 崩 堤,

    振 剛 風 於 稿 葉 。

    都督 崔 聚 膝 行 而 送 款 ,

    尚 書 黃 福 面 縛 以 就 擒。

    僵 屍 塞 諒 江 諒 山 之途,

    戰 血 赤 昌 江 平 灘之 水 。

    風 雲 為 之 變 色,

    日 月 慘 以 無 光 。

    其 雲 南 兵 為 我 軍 所 扼 於梨 花 ,自 恫 疑 虛 喝 而先 以 破 腑;

    其 沐 晟 眾聞 柳 昇 為 我 軍 所 敗 於芹 站, 遂 躪 藉 奔 潰 而僅 得 脫 身 。

    冷 溝 之 血杵 漂, 江 水 為 之 嗚 咽;

    丹 舍 之 屍 山 積, 野草 為 之 殷 紅 。

    兩 路 救兵 既 不 旋 踵 而 俱 敗 ,

    各 城 窮 寇 亦 將 解 甲 以 出 降 。

    賊 首 成 擒, 彼 既 掉 餓 虎 乞 憐 之 尾 ;

    神 武 不 殺, 予 亦 體 上帝 孝 生 之 心 。

    參 將 方政, 內 官 馬 騏, 先 給艦 五 百 餘 艘, 既 渡 海而 猶 且 魂 飛 魄 散;

    總兵 王 通, 參 政 馬 瑛 ,又 給 馬 數 千 餘 匹, 已還 國 而 益 自 股 慄 心 驚。

    彼 既 畏 死 貪 生, 而修 好 有 誠;

    予 以 全 軍為 上, 而 欲 民 之 得 息。

    非 惟 謀 計 之 極 其 深遠,

    蓋 亦 古 今 之 所 未見 聞 。

    社 稷 以 之 奠安,

    山 川 以 之 改 觀 。

    乾 坤 既 否 而 復 泰,

    日月 既 晦 而 復 明 。

    于 以開 萬 世 太 平 之 基,

    于以 雪 天 地 無 窮 之 恥 。

    是 由 天 地 祖 宗 之 靈 有

    以 默 相 陰 佑 而 致 然 也 !

    於 戲 !

    一戎 大 定, 迄 成 無 兢 之功;

    四 海 永 清, 誕 布維 新 之 誥 。

    播 告 遐 邇,

    咸 使 聞 知 。

    阮 廌



    Theo: Hoàng Việt Văn-tuyển 皇 越 文 選 do Tồn-am Bùi Huy Bích 存 庵 裴 輝 璧 tuyển chọn.
    Lần sửa cuối bởi ngochai; 28-04-2014 lúc 06:15 PM
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  2. #2
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Post Bình Ngô Đại Cáo - Ức Trai Nguyễn Trãi - 平 吳 大 誥 - 抑 齋 阮 廌 - Hán Việt Dịch

    .
    .
    HÁN VIỆT

    Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết:

    Cái văn:

    Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,

    Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.

    Duy ngã Đại Việt chi quốc,

    Thực vi văn hiến chi bang.

    Sơn xuyên chi phong vực ký thù,

    Nam bắc chi phong tục diệc dị.

    Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,

    Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.

    Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,

    Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.

    Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,

    Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.

    Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,

    Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.

    Kê chư vãng cổ,

    Quyết hữu minh trưng.

    Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà,

    Trí sử nhân tâm chi oán bạn.

    Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;

    Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mãi ngã quốc.

    Hân thương sinh ư ngược diệm,

    Hãm xích tử ư họa khanh.

    Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;

    Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên.

    Bại nghĩa thương nhân, Kiền Khôn ky hồ dục tức;

    Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di.

    Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,

    Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn yêu thộn hải.

    Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,

    Điễn vật chức thúy cầm chi võng la.

    Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,

    Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.

    Tuấn sinh dân chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;

    Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.

    Châu lý chi chinh dao trọng khốn,

    Lư diêm chi trữ trục giai không.

    Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô,

    Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.

    Thần dân chi sở cộng phẫn,

    Thiên địa chi sở bất dung.

    Dư:

    Phấn tích Lam Sơn,

    Thê thân hoang dã.

    Niệm thế thù khởi khả cộng đái,

    Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.

    Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên,

    Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.

    Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,

    Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.

    Đồ hồi chi chí

    Ngộ mị bất vong.

    Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,

    Chính tặc thế phương trương chi nhật.

    Nại dĩ:

    Nhân tài thu diệp,

    Tuấn kiệt thần tinh.

    Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân,

    Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.

    Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;

    Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.

    Nhiên kỳ:

    Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,

    Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch.

    Phẫn hung đồ chi vị diệt,

    Niệm quốc bộ chi tao truân.

    Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,

    Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.

    Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,

    Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.

    Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;

    Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.

    Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;

    Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ.

    Tốt năng:

    Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,

    Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo.

    Bồ Đằng chi đình khu điện xế,

    Trà Lân chi trúc phá khôi phi.

    Sĩ khí dĩ chi ích tăng,

    Quân thanh dĩ chi đại chấn.

    Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,

    Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.

    Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;

    Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.

    Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;

    Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.

    Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;

    Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.

    Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,

    Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.

    Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;

    Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.

    Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,

    Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.

    Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân,

    Tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ.

    Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;

    Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần.

    Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,

    Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.

    Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,

    Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.

    Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã;

    Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn.

    Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,

    Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.

    Ngã toại nghênh nhận nhi giải,

    Bỉ tự đảo qua tương công.

    Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,

    Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.

    Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ,

    Thân mệnh trảo nha chi thần.

    Ẩm tượng nhi hà thủy càn,

    Ma đao nhi sơn thạch khuyết.

    Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,

    Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.

    Quyết hội nghĩ ư băng đê,

    Chấn cương phong ư cảo diệp.

    Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,

    Thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm.

    Cương thi tái Lạng Giang, Lạng Sơn chi đồ,

    Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thủy.

    Phong vân vị chi biến sắc,

    Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.

    Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;

    Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng đại bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.

    Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết;

    Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.

    Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu bại,

    Các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng.

    Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;

    Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.

    Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi
    phách tán;

    Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật
    tâm kinh.

    Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;

    Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.

    Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,

    Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.

    Xã tắc dĩ chi điện an,

    Sơn xuyên dĩ chi cải quán.

    Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,

    Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.

    Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,

    Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ.

    Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dã.

    Ô hô!

    Nhất nhung đại định, ngật thành vô cạnh chi công;

    Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo.

    Bá cáo hà nhĩ,

    Hàm sử văn tri.

    Nguyễn Trãi
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  3. #3
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Arrow Bình Ngô Đại Cáo - Ức Trai Nguyễn Trãi - 平 吳 大 誥 - 抑 齋 阮 廌 - Hán Việt Dịch

    .
    .
    VIỆT DỊCH

    Bản dịch của Cụ Bùi Kỷ

    (Quốc Văn Cụ-Thể, Tân Việt-Nam thư-xã, Hà-nội)




    Tượng mảng:

    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

    Quân điếu phạt chỉ vì khử bạo.

    Như nước Việt ta từ trước,

    Vốn xưng văn hiến đã lâu,

    Sơn hà cương vực đã chia,

    Phong tục bắc nam cũng khác.

    Từ Triệu, Ðinh, Lý, Trần, gây nền độc lập,

    Cùng Hán, Ðường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương.

    Dẫu cường nhược có lúc khác nhau,

    Song hào kiệt đời nào cũng có.

    Vậy nên:

    Lưu Cung sợ uy mất vía,

    Triệu Tiết nghe tiếng giật mình.

    Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Ðô,

    Sông Bạch Ðằng giết tươi Ô Mã.

    Xét xem cổ tích,

    Đã có minh trưng.

    Vừa rồi:

    Vì họ Hồ chính sự phiền hà

    Để trong nước nhân dân oán hận.

    Quân cuồng Minh đã thừa cơ tứ ngược,

    Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.

    Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

    Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

    Chước dối đủ muôn nghìn khóe,

    Ác chứa ngót hai mươi năm.

    Bại nhân nghĩa, nát cả càn khôn,

    Nặng khoá liễm vét không sơn trạch.

    Nào lên rừng đào mỏ,

    Nào xuống bể mò châu,

    Nào hố bẫy hươu đen,

    Nào lưới dò chim sả.

    Tàn hại cả côn trùng thảo mộc,

    Nheo nhóc thay quan quả điên liên.

    Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán.

    Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.

    Nặng nề về những nỗi phu phen,

    Bắt bớ mất cả nghề canh cửi.

    Ðộc ác thay! Trúc rừng không ghi hết tội,

    Dơ bẩn thay! Nước bể không rửa sạch mùi.

    Lẽ nào trời đất tha cho,

    Ai bảo thần nhân nhịn được.

    Ta đây:

    Núi Lam Sơn dấy nghĩa,

    Chốn hoang dã nương mình.

    Ngắm non sông căm nỗi thế thù,

    Thề sống chết cùng quân nghịch tặc.

    Ðau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa,

    Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

    Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tính;

    Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.

    Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

    Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.

    Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

    Chính lúc quân thù đang mạnh.

    Lại ngặt vì:

    Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

    Nhân tài như lá mùa thu.

    Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,

    Nơi duy ác hiếm người bàn bạc.

    Ðôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông,

    Mấy thủa đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả.

    Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt mờ như kẻ vọng dương.

    Thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chửng nịch.

    Phần thì giận hung đồ ngang dọc,

    Phần thì lo quốc bộ khó khăn.

    Khi Linh sơn lương hết mấy tuần,

    Khi Khôi huyện quân không một lữ.

    Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiếc thiên ma,

    Cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử.

    Múa đầu gậy, ngọn cờ phất phới, ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ.

    Mở tiệc quân, chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một lòng phụ tử.

    Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi,

    Quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.

    Dọn hay:

    Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn,

    Lấy chí nhân mà thay cường bạo.

    Trận Bồ Ðằng sấm vang sét dậy,

    Miền Trà Lân trúc phá tro baỵ.

    Sĩ khí đã hăng,

    Quân thanh càng mạnh.

    Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan,

    Phương Chính, Lý An tìm đường trốn tránh.

    Ðánh Tây Kinh phá tan thế giặc,

    Lấy Ðông Ðô thu lại cõi xưa.

    Dưới Ninh Kiều máu chảy thành sông,

    Bến Tuỵ Ðộng xác đầy ngoài nội.

    Trần Hiệp đã thiệt mạng,

    Lý Lượng phải phơi thây.

    Vương Thông hết cấp lo lường,

    Mã Anh khôn đường cứu đỡ.

    Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao,

    Ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất.

    Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui,

    Ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệp.

    Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người,

    Tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dơ duốc.

    Ðến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên Đức, nhàm võ không thôi;

    Lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy.

    Năm Ðinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng từ Khâu Ôn tiến sang

    Lại năm nay tháng mười, Mộc Thạnh tự Vân Nam kéo đến.

    Ta đã điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc quân,

    Ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương đạo.

    Mười tám, Liễu Thăng thua ở Chi Lăng,

    Hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mã Yên.

    Hai mươi lăm, Lương Minh trận vong,

    Hai mươi tám, Lý Khánh tự vẫn.

    Lưỡi dao ta đang sắc,

    Ngọn giáo giặc phải lùi.

    Lại thêm quân bốn mặt vây thành,

    Hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc.

    Sĩ tốt ra oai tì hổ,

    Thần thứ đủ mặt trảo nha.

    Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,

    Voi uống nước, nước sông phải cạn.

    Ðánh một trận sạch không kình ngạc,

    Ðánh hai trận tan nát chim muông.

    Cơn gió to trút sạch lá khô,

    Tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.

    Thôi Tụ phải quỳ mà xin lỗi,

    Hoàng Phúc tự trói để ra hàng.

    Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,

    Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước.

    Gớm ghê thay! Sắc phong vân cũng đổi,

    Thảm đạm thay! Sáng nhật nguyệt phải mờ.

    Binh Vân Nam nghẽn ở Lê Hoa, sợ mà mất mật;

    Quân Mộc Thạnh tan chưng Cầu Trạm, chạy để thoát thân.

    Suối máu Lãnh Câu, nước sông rền rĩ,

    Thành xương Ðan Xá, cỏ nội đầm đìa.

    Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy;

    Các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu.

    Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội;

    Thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh.

    Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực.

    Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ hôi.

    Nó đã sợ chết cầu hòa, ngỏ lòng thú phục,

    Ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi.

    Thế mới là mưu kế thật khôn,

    Vả lại suốt xưa nay chưa có.

    Giang sơn từ đây mở mặt,

    Xã tắc từ nay vững nền.

    Nhật nguyệt hối mà lại minh,

    Càn khôn bĩ mà lại thái.

    Nền vạn thế xây nên chăn chắn,

    Thẹn nghìn thu rửa sạch lầu lầu.

    Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng che chở, giúp đỡ cho nước ta vậy.

    Than ôi!

    Vẫy vùng một mảng nhung y, nên công đại định,

    Phẳng lặng bốn bề thái vũ, mở hội vĩnh thanh.

    Bá cáo xa gần,

    Ngỏ cùng nghe biết.



    Theo:

    1) Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, tr. 273-245, Bộ Giáo dục, Trung tâm Học liệu xuất bản, in lần thứ mười, Sài Gòn, 1968.

    2) Trần Trọng Kim, Việt-Nam Sử-lược, Bộ Giáo dục, tr. 242-245, Trung tâm Học liệu xuất bản, in lần thứ nhất, Sài Gòn, 1971.
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

Tags for this Thread

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •