Hiện kết quả từ 1 tới 6 của 6

Chủ đề: Nguyễn Bỉnh Khiêm - Sỹ Phu Thi Phú

  1. #1
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Lightbulb Nguyễn Bỉnh Khiêm - Sỹ Phu Thi Phú

    Lời bạt

    Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮秉謙 (1491-1585) huý là Văn Đạt, tự là Hanh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Thân thế và sự nghiệp của cụ Trạng với nhiều bước thăng trầm và cũng có nhiều truyền thuyết xung quanh cuộc sống của bậc danh nhân kiệt xuất này.
    Di sản mà Trạng Trình để lại cho hậu thế là những tập Thơ, cuốn Thái Ất Thần Kinh nổi tiếng và các tập Sấm Ký. Trong đó tập Thơ "Bạch Vân quốc ngữ thi tập", "Bạch Vân am thi tập" mang nhiều tính triết lý nhân sinh sâu sắc. Nội dung các bài thơ trong các tập thơ của Trạng Trình xứng đáng nằm trong tuyển tập "Cổ Học Tinh Hoa" của đất Việt.

    ngochai

    ----------------------------------------------


    TÓM TẮT TIỂU SỬ


    Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮秉謙 (1491-1585) huý là Văn Đạt, tự là Hanh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Xuất thân từ một gia đình trí thức Nho học, cha là Nguyễn Văn Định có văn tài, học hạnh, mẹ là Nhữ Thị Thục, con Thượng Thư Nhữ Văn Lan, bà thông tuệ, giỏi văn chương, am tường lý số. Nguyễn Bỉnh Khiêm thông minh, hiếu học, từ nhỏ đã được mẹ đem thơ quốc âm và kinh truyện ra dạy. Lớn lên, vào Thanh Hoá, theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, được thầy truyền thụ môn học Dịch lý và Sách Thái ất thần kinh. Tuy học giỏi, nhưng lớn lên vào lúc xã hội loạn lạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm ẩn chí, đợi thời, không chịu ra thi. Mãi sau này, Mạc thay Lê, tình hình xã hội ổn định, ông mới ra ứng thi, đậu Trạng nguyên (1535), rồi làm quan với nhà Mạc, bấy giờ ông đã 45 tuổi. Làm quan ở triều đình được 8 năm (1535-1542), thấy gian thần hoành hành, bè phái, triều chính ngày một xấu thêm, ông dâng sớ xin chém 18 lộng thần, không được chấp nhận, bèn thác cớ xin trí sĩ. Về sau, vì sự ràng buộc của nhà Mạc với các sĩ phu có uy vọng, vì muốn tác động đến thời cuộc, ông trở lại tham gia triều chính với cương vị như một cố vấn. Ông từng theo quân Mạc, đi chinh phạt Vũ Văn Mật, Vũ Văn Uyên. Ông cũng từng bày mưu tính kế giúp Mạc bảo toàn vương nghiệp. Vì thế, hoạn lộ của ông từ Lại bộ Tả thị lang, Đông các đại học sĩ, trải thăng đến Lại bộ Thượng thư, Thái phó, Trình Tuyền hầu, rồi lại gia phong Trình Quốc công nên đời thường gọi là Trạng Trình. Mãi đến ngoài 70 tuổi, ông mới thực sự treo xe, treo mũ từ quan.

    Thời gian sống ở quê nhà, bên bờ sông Tuyết Hàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng am Bạch Vân, lấy đạo hiệu là Bạch Vân cư sĩ mở trường dạy học, rồi lập quán, xây cầu, dựng chùa, mở chợ, trồng cây... Ông có nhiều học trò nổi tiếng, như Nguyễn Quyện, Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ, v.v... người thờ Mạc, người theo Lê, người suốt đời ẩn dật. Ông được người đương thời tôn kính như bậc thầy. Ngoài triều Mạc, họ Trịnh, họ Nguyễn đều có sai sứ đến hỏi ý kiến ông về những việc hệ trọng. Tháng Mười một năm Ất dậu (1585) ông mất, hưởng thọ 94 tuổi, học trò truy tôn là Tuyết Giang Phu tử.

    Tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm có Bạch Vân quốc ngữ thi tập, Bạch Vân am thi tập và một số bài văn chữ Hán. Các tập sấm ký như Trình Quốc công sấm ký, Trình tiên sinh quốc ngữ, v.v... tương truyền là của ông nhưng về mặt văn bản chưa đủ độ tin cậy.
    Lần sửa cuối bởi ngochai; 05-06-2012 lúc 11:21 AM
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  2. #2
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Lightbulb Nguyễn Bỉnh Khiêm - Sỹ Phu Thi Phú

    BẠCH VÂN CA

    Nước Nam thường có thánh tài.
    Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường.
    Kìa Nhị Thuỷ, nọ Dao Sơn,
    Bài ngọc dát nổi, âu vàng Trời cho.
    Học cách vật mới dò tới chốn,
    Chép ghi làm một bổn xem chơi.
    Muôn việc cũng bởi tại người,
    Suy ra mới biết sự đời dường bao.
    Dẫu ai có vàng trau nghìn hột,
    Châu bái hơn chữ một nghĩa mười.

    Tiên Hoàng từ trước mở ngôi,
    Cờ lau tập trận thay Trời trị dân.
    Mới đươc mười hai dư xuân,
    Lê Hành kế vị, xa gần âu ca.
    Ba mươi năm ngôi nhà được lẻ,
    Đến Ngoạ Triều nào kẻ tài hay.
    Ngôi Trời dể Lý vào thay,
    Tám cành hoa nở dến ngày dực phân.
    Chiêu Hoàng là Á Nữ Quân,
    Thấp bề nhan sắc trao Trần Thái Tôn.

    Thập nhị thế, tiếng đồn nhân hậu;
    Trăm bảy mươi ghi dấu thất niên.
    Đông A chốn ấy còn bề,
    Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam.
    Đại Ngu được mười bốn năm;
    Hậu Trần Nhị Đế lại chăm phục hồi.
    Suy ra mới biết sự Trời;
    Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê Gia
    Tây Sơn sừng sực kéo ra,
    Ngẫm xem thế tục gọi là phương ngôn.

    Đến Phụ Nguyên đòi còn chinh chiến,
    Trả bao thu dâu biển cát lầm
    Rừng xa vực thẩm nguồn thâm,
    Nào ai biết sẽ nhân tâm lúc nầy.
    Chó mừng chúa, gà bày cục tác,
    Lợn ăn no thả rác nằm chơi.
    Đó mới kể là đời thịnh thế,
    Mà thiên hạ sau sẻ làm hai.
    Người Đoài cũng thực ấy tài,
    Mà cho người Sở toan bài lập công.

    Bởi Trần Vương ngu không kể siết,
    Mới phen nầy dê lại giết dê.
    Đến khi thức tận binh bì,
    Âm binh ở giữa, dễ thì biết sao.
    Trời cho ta mang dao chém quỷ,
    Khắp dưới Trời bình trị quỷ thư.
    Ai từng cứu con thơ xa giếng,
    Chớ một lòng chinh chiến phá nhau.
    Muôn dân chịu những âu sầu,
    Kể dư nhị ngũ mới hầu biết cho.

    Chốn Đông Nam lò dò khổ ải,
    Lánh cho xa kẻo phải đao binh.
    Bắc phương chín thực đế kinh,
    Náu mình chưa dể náo danh được nào.
    Vả người là đúng anh hào,
    Đánh làm sao được ước ao đêm ngày.
    Ấy những quân đời này thế ấy,
    Lòng Trời xui ai nấy biết đâu.
    Chớ đừng tham của làm giàu,
    Tìm nơi tam hiểm, ngỏ hầu bảo thân.

    Đà Giang chốn ấy cũng gần,
    Kim Ngư chốn ấy cũng phần thuở nơi.
    Ba Thục riêng một góc trời,
    Thái Nguyên một dải là nơi trú đình.
    Tư bề núi đá xanh xanh,
    Có đường tiểu mạch nương mình ai hay.
    Bốn bụt xuất thế dã chầy,
    Chưa chọn được ngày ra của nhân dân.
    Ấy là điềm xuất thánh quân,
    Hễ ai biết được thì thân mới toàn.

    Chữ rằng hữu xạ tức tự nhiên hương,
    Có phải tầm thường thuốc đấu bán sao?
    Nắng lâu phải có mưa rào,
    Vội chi tát nuớc xôn xao cày bừa.
    Hạn rồi thì phải có mưa,
    Buồm giương gặp gió, cày bừa gặp cơn.
    Tuần này thánh xuất Khâm phương,
    Sự thực đã tường, chẳng phải lo suy.
    Quần hùng binh dậy sơn khê,
    Kẻ khoe cứu nước, người khoe trợ thời.

    Xem thấy những sương rơi tuyết lạnh,
    Loài bất bình tranh cạnh hung hăng.
    Một cơn sấm dậy đất bằng,
    Thánh nhân ra mới cứu hàng sinh linh.
    Lược thao văn vũ tài tình,
    Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng.
    Tam công gặp hội vui mừng,
    Bỏ khi cá nước vẫy vùng biển sông.
    Bỏ khi chém rắn vẽ rồng,
    Bỏ khi non Bắc ải Đông mịt mù.
    Bỏ khi kẻ Việt người Hồ,
    Bỏ khi kẻ Sở người Ngô xa đường
    Càn khôn phủ tái vô lương,
    Đào viên đỉnh phát, quần dương tranh hùng.

    Cơ nhị ngũ thư hùng vi quyết,
    Đảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.
    Ta hồ vô phụ vô quân,
    Đào viên tản lạc, ngô dân thủ thành.
    Càn khôn phù tái vô lường,
    Đào Viên đỉnh phát, quần dương tranh hùng.
    Cơ nhị ngũ thư anh hùng vị quyết,
    Đảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.

    Ta hồ vô phụ vô quân,
    Đà Giang phúc địa giáng linh,
    Cửu trùng thụy ứng lòng thành ngũ vân.
    Phá điền thiên tử giáng trần,
    Dũng sĩ nhuợc hải, mưu thần như lâm.
    Trần Công nãi thị phúc tâm,
    Giang hồ sử sĩ đào tiềm xuất du.
    Tương thần hệ xuất Y, Chu,
    Thử kỳ phục kiến Đường, Ngu thị thành.
    Hiện xung thiện hạ thái bình.


    ngochai
    Lần sửa cuối bởi ngochai; 05-06-2012 lúc 11:08 AM
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  3. #3
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Lightbulb Nguyễn Bỉnh Khiêm - Sỹ Phu Thi Phú

    CẢM HỨNG

    Thái hoà vũ trụ bất Ngu, Chu,
    Hổ chiến giao tranh tiến lưỡng thù.
    Xuyên huyết sơn hà tuỳ xứ hữu.
    Uyên ngư tùng tước vị thuỳ khu.
    Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã,
    Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu,
    Thế sự đáo đầu lưu thuyết trước,
    Tuý ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.


    (Người dịch: Ngô Lập Chi)

    Non sông nào phải buổi binh thời,
    Thù đánh nhau chi khéo nực cười.
    Cá vực, chim rừng, ai khiến đuổi ?
    Núi xương, sông huyết, thảm đầy vơi.
    Ngựa phi ắt có hồi quay cổ,
    Thú dữ nên phòng lúc cắn người.
    Ngán ngẩm việc đời chi nói nữa,
    Bên đầm say hát nhởn nhơ chơi.



    ngochai
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  4. #4
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Lightbulb Nguyễn Bỉnh Khiêm - Sỹ Phu Thi Phú

    HỮU CẢM (1)


    Nghịch tặc xương cuồng phạm đế kinh,
    Chủ ưu thần nhục trọng thương tình.
    Hề tô cửu uất thương sinh vọng,
    Ðiếu phạt thuỳ hưng thời vũ binh.
    Tứ hải y quy dân đới cựu,
    Cửu thiên chiêu yết nhật trùng minh.
    Cổ lai, nhân giả tư vô địch,
    Hà tất khu khu sự chiến tranh.

    (Người dịch: Ngô Lập Chi)

    Giặc giã tung hoành lấn đế kinh,
    Vua tôi lo lắng xiết bao tình.
    Mong mưa, chan chứa lòng dân vọng,
    Trừ bạo, tưng bừng đạo nghĩa binh.
    Bốn bể vui theo người đạo đức,
    Khắp nơi lại thấy cảnh thanh bình.
    Xưa nay nhân giả là vô địch,
    Lọ phải khư khư thích chiến tranh.



    ngochai
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  5. #5
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Lightbulb Nguyễn Bỉnh Khiêm - Sỹ Phu Thi Phú

    HỮU CẢM (2)

    Lạc lạc can qua hận mãn tiền,
    Nhân dân bồn thoáng dục cầu tiền.
    Điên liên huề bạo ta vô địa,
    Ái hộ căn liên hạnh hữu thiên.
    Chỉ định vị văn quy mã nhật,
    Khai minh cấp tưởng thuộc trư niên.
    Nhất chu khí vận chung nhi thuỷ,
    Bác, phục đô tòng thái cực tiên.

    (Người dịch: Ngô Lập Chi)


    Ngán nỗi can qua mãi thế ư
    Nhân dân mong được chốn an cư
    Kéo nhau lũ lượt tìm nơi ẩn
    Cứu kẻ phiêu lưu có chỗ nhờ
    Bình định còn chờ ngày nghỉ ngựa
    Thái bình những đợi buổi năm trư
    Tuần hoàn một lẽ cùng chung thuỷ
    Bác phục nguyên từ thái cực xưa.



    ngochai
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

  6. #6
    Moderator
    Tham gia ngày
    Jan 2012
    Đến từ
    ngochai.tcq@gmail.com
    Bài gửi
    1.037
    Thanks
    336
    Thanked 115 Times in 113 Posts

    Lightbulb Nguyễn Bỉnh Khiêm – Sỹ Phu Đất Việt

    TRUNG TÂN NGỤ HỨNG

    Nhân thôn quán tây nam,
    Giang thuỷ quán tây bắc.
    Trung hữu bán mẫu viên,
    Viên tại Vân Am trắc.
    Luân ưởng trần bất đáo,
    Hoa trúc thủ tự thực.
    Trượng lý tập hoa hương,
    Trản giả xâm hoa sắc.
    Điểu tị phanh trà yên,
    Ngư thôn tẩy nghiễn mặc.
    Khiển hứng nhậm thi cuồng,
    Phù suy da hữu lực.
    Nhân xảo, ngả giả chuyết,
    Thuỳ tri chuyết giả đức,
    Ngã chuyết, nhân giả xảo,
    Thuỳ tri xảo giả tặc.
    Kiền khôn tĩnh lý suy,
    Cổ kim nhàn trung đắc.
    Hiểm mạc hiểm thế đồ,
    Bất tiển tiện kinh cúc.
    Nguy mạc nguy nhân tâm,
    Nhất phóng tiện quỷ quắc.
    Quân tử cầu sở chỉ,
    Chí thiện tư vi cực.
    (Người dịch: Ngô Lập Chi)
    Sông ngòi vòng tây bắc,
    Làng xóm bọc tây nam.
    Giữa có nửa mẫu vườn,
    Vườn ở bên Vân am.
    Xe ngưa bụi không đến,
    Hoa, trúc tay tự trồng.
    Gậy, dép bén mùi hoa,
    Chén, cốc ánh sắc hồng.
    Rửa nghiên, cá nuốt mực,
    Pha trà, chim lánh khói.
    Ngâm thơ thừa tiêu dao,
    Uống rượu thêm khoan khoái.
    Người xảo ta thì vụng,
    Ấy vụng thế mà hay!
    Ta vụng người thì xảo.
    Ấy xảo thế mà gay!
    Tính suy lẽ trời đất,
    Nghiền ngẫm việc xưa nay:
    Đường đời rất ghập ghềnh,
    Chông gai cần phải cắt.
    Lòng người rất hiểm nghèo,
    Buông ra liền quái quắc.
    Quân tử biết răn mình,
    Chí thiện làm mẫu mực.

    DỊCH NGHĨA

    Phía tây nam quán ấy có làng xóm,
    Phía tây bắc quán ấy có sông ngòi.
    Ở giữa có nửa mẫu vườn,
    Vườn ở bên am Bạch Vân.
    Bụi ngựa xe không bám vào được cái am ấy,
    Hoa và trúc ở trong vườn chính tay tự trồng lấy.
    Khi chống gậy, lê dép ra vườn chơi thì hương thơm của hoa bám vào gậy, dép
    Khi nâng chén rượu để thưởng thức thì sắc hoa ánh vào chén rượu.
    Khí đun nước để pha trà thì loài chim lánh khói,
    Khi rửa nghiên mực, mực chảy xuống thì loài cá nuốt lấy.
    Khi thích chí thì ngâm thơ tràn để tiêu khiển,
    Lại nhờ có chén rượu nhắp cho hăng hái để đỡ sức già yếu.
    Người ta khéo léo mà mình lại vụng về,
    Biết đâu vụng về ấy lại là một đức tốt!
    Ta khờ dại mà người thì xảo quyệt,
    Biết đâu lòng xảo quyệt ấy lại là một cái hại lớn!
    Khi tĩnh, suy lẽ tạo hoá,
    Lúc nhàn, ngẫm việc xưa nay.
    Không gì hiểm bằng đường đời,
    Nếu không biết cắt bỏ đi thì toàn là chông gai cả.
    Không gì nguy hiểm bằng lòng người,
    Nếu không biết giữ gìn mà buông phóng ra thì hoá thành
    quỷ quái cả.
    Vì vậy, người quân tử phải tìm nơi đứng cho vững,
    Lấy điều "chí thiện" làm tiêu chuẩn tuyệt đối.

    Chú

    Quán Trung Tân: do Nguyễn Bỉnh Khiêm, khi về ở ẩn tại quê nhà, đã cùng các vị bô lão dựng lên, vừa là nơi "thắng địa" (vùng đất đẹp hơn cả), vừa là nơi nghỉ ngơi cho những người qua đường. Quán Trung Tân đã trở thành đê tài quen thuộc trong thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm.

    Nguồn: Lý Tế Xuyên, Vũ Quỳnh, Kiều Phú, Lê Thánh Tông, Ngô Chi Lan, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn Nghệ, TP HCM, 1998


    ngochai
    Trời sinh, trời ắt đã dành phần / Tu hãy cho hiền, dạ có nhân
    Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ / Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần
    Bạo hung chỉn đã gươm mài đá / Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân
    Chớ có hại nhân mà ích kỷ / Giấu người, khôn giấu được linh thần.
    Nguyễn Bỉnh Khiêm
    ngochai.tcq@gmail.com

Tags for this Thread

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •