Hiện kết quả từ 1 tới 5 của 5

Chủ đề: Trang Tử Nam Hoa Kinh

Hybrid View

  1. #1
    Senior Member
    Tham gia ngày
    Jul 2013
    Bài gửi
    170
    Thanks
    23
    Thanked 21 Times in 16 Posts

    Trang Tử Nam Hoa Kinh

    ĐẠO CHÍCH
    (Trộm cắp)



    Trang Tử

    Doancongtu_Trang Tử (tiếng Hán: 莊子; ~365–290 trước CN) là một triết gia và tác gia Đạo giáo. Tên thật của ông là Trang Chu (莊周) và tác phẩm của ông sau đều được gọi là Trang Tử. Ông còn có tên là Mông Lại (蒙吏), Mông Trang (蒙莊) hay Mông Tẩu (蒙叟). Ông sống vào thời Chiến Quốc, thời kỳ đỉnh cao của các tư tưởng triết học Trung Hoa với Bách Gia Chư Tử.

    1 .
    Khổng Tử là bạn của Liễu Hạ Quí. Liễu Hạ Quí có một người em tên là Đạo Chích. Đạo Chích [1] cầm đầu chín ngàn bộ hạ hoành hành trong thiên hạ, xâm đoạt các nước chư hầu, đào tường khoét vách, lùa ngựa bò, bắt cóc vợ và con gái người ta, tham lợi tới quên cả thân thích, không đoái hoài tới cha mẹ anh em, không cúng giỗ tổ tiên. Họ qua nơi nào, nếu là nước lớn thì cố giữ thành, nước nhỏ thì núp sau luỹ, dân tình khốn khổ. Khổng Tử bảo Liễu Hạ Quí:
    - Làm cha thì phải răn đe con, làm anh thì phải dạy bảo em. Nếu cha không răn đe được con, anh không dạy bảo được em thì sao gọi là cha, là anh, để người ta quí được nữa? Tiên sinh là bậc tài sĩ trên đời, em là Đạo Chích làm hại thiên hạ mà tiên sinh không biết dạy. Khâu tôi trộm lấy làm xấu hổ cho tiên sinh, xin thay tiên sinh lại thuyết phục nó.
    Liễu Hạ Quí đáp:
    - Ông bảo làm cha phải răn đe con, làm anh thì phải dạy em. Nhưng nếu con em không chịu nghe lời cha, anh thì dù có tài biện thuyết như ông, phỏng làm gì được không? Mà thằng Chích lòng sôi nổi như suối nóng, ý chí như bão táp; nó mạnh đủ để đương đầu được với mọi kẻ thù, bẻm mép đủ để che giấu, tô điểm những tật của nó, hễ thuận ý nó thì nó ưa thích, trái ý nó thì nó giận, mắng chửi liền. Ông đừng nên đi.

    Khổng Tử không nghe, cứ đi.


    Nhan Hồi đánh xe [ngồi bên trái], Tử Cống ngồi bên phải [cho cân], thấy Đạo Chích đương nghỉ ngơi với bộ hạ ở phía Nam núi Thái Sơn. Họ băm gan người làm món ăn bữa chiều. Khổng Tử xuống xe, tiến lại gần người canh gác, bảo:
    - Tôi là Khổng Khâu nước Lỗ, nghe tiếng tướng quân là người nghĩa khí cao, muốn xin yết kiến.
    Nói xong, vái hai vái. Người đó vô thông báo, Đạo Chích nghe xong, nổi giận tới nỗi [nẩy lửa] sáng như ngôi sao, tóc dựng ngược muốn hất cái mũ lên.
    Hắn bảo:
    - Tên Khổng Khâu đó phải là kẻ xảo trá ở nước Lỗ đấy không? Ra bảo nó như vầy cho ta: “Mày là tên bày đặt ra lời này lẽ nọ rồi nói thác ra của vua Văn vua Võ, mày đội cái mũ trang sức loè loẹt [2] , đeo dây lưng bằng da bò. Mày ba hoa nói bậy, không cày mà ăn, không dệt mà mặc! [3] Mày khua môi múa mỏ, bày đặt ra điều thị phi để mê hoặc bọn vua chúa, khiến kẻ sĩ trong thiên hạ không trở về bản tính được; mượn cớ trọng hiếu đễ mà thực là là chỉ cầu được phong hầu mà hưởng phú quí. Tội mày nặng lắm. Cút ngay đi, nếu không tao bầm gan mày để ăn bữa trưa!”.
    Khổng Tử vẫn xin vô thông báo lần nữa, bảo:
    - Tôi may mắn được quen ông Liễu Hạ Quí, xin được vô bái kiến dưới trướng.
    Người canh gác vô thông báo lần nữa. Đạo Chích bảo:
    - Cho nó vô.
    Khổng Tử vội vàng tiến vô, không dám ngồi vào chiếu, lùi lại, vái Chích hai vái. Chích nổi giận đùng dùng, duỗi hai chân, đặt tay lên chuôi kiếm, ngó Khổng Tử trừng trừng, giận dữ như con cọp cái đương cho con bú mà bị quấy phá. Hắn bảo:
    - Khâu, lại đây! Mày nói mà thuận ý tao thì được sống, nếu trái thì sẽ mất mạng đấy.
    Khổng Tử bảo:
    - Khâu tôi nghe nói trong thiên hạ có ba đức quí: thân thể cao lớn, dong mạo đẹp đẻ vô cùng, bất luận già trẻ, sang hèn trông thấy đều thích, đó là đức quí thứ nhất; trí tuệ bao quát trời đất, biện biệt được mọi vật, đó là đức quí thứ nhì; dũng hãn quả cảm, qui tụ được nhiều binh lính mà thống lĩnh họ, đó là đức thứ ba, thấp hơn cả. Ai mà có một trong ba đức đó thì đáng làm vua trong thiên hạ. Nay tướng quân có đủ cả ba: cao tám thước hai [4], diện mục đều sáng, môi đỏ như son, răng trắng như vỏ sò nước Tề [5] , tiếng vang như chuông. Như vậy mà người ta gọi tướng quân là “tướng cướp tên Chích”, tôi trộm lấy làm xấu hổ cho tướng quân, lẽ nào lại chịu như vậy. Nếu tướng quân chịu nghe lời tôi thì tôi sẽ vì tướng quân đi sứ Ngô, Việt ở phương Nam, Tề, Lỗ ở phương Bắc, Tống, Vệ ở phương Đông, Tấn, Sở ở phương Tây. Tôi sẽ thuyết phục người ta xây một cái thành mấy trăm dặm, lập một ấp lớn mấy trăm ngàn nhà, tôn tướng quân làm vua chư hầu, mà mở một cuộc đời mới từ nay; bãi binh, cho lính về, tập hợp anh em, nuôi nấng họ và cúng giỗ tổ tiên. Đó là hành vi của bậc thánh nhân và kẻ sĩ có tài, thiên hạ chỉ mong được có vậy.


    - Khâu, lại đây!

    Đạo Chích vẫn chưa nguôi giận, đáp:

    - Khâu, lại đây! Kẻ nào bị thuyết phục vì lợi, hoặc nghe lời khuyên mà sửa tính, người đó chỉ là hạng ngu xuẩn, tầm thường. Nay tao cao lớn, dong mạo đẹp đẽ, ai trông thấy cũng thích, đó là cái đức cha mẹ tao di truyền lại chẳng đợi mày khen, tao cũng biết. Mà tao nghe nói ngƣời nào thích khen trƣớc mặt ngƣời khác thì sau lưng sẽ nói xấu người ta. Mày hứa cho ta một thành lớn với nhiều nhân dân, là muốn dùng lợi mà dụ dỗ tao, tao coi nhƣ hạng tầm thường. [Nếu được nữa đi thì] phỏng tao giữ được bao lâu? Thành dù lớn tới mấy cũng không bằng cả thiên hạ được. Nghiêu, Thuấn làm chủ thiên hạ đấy mà con cháu không có một miếng đất cắm dùi; Thang, Vũ làm thiên tử đấy mà đời sau tuyệt diệt; như vậy chẳng do nắm được cái lợi lớn đấy ư? Vả lại tao nghe rằng đời xưa cầm thú nhiều mà người ít, cho nên dân mới phải làm ổ để ở mà tránh chúng; ban ngày lượm hạt giẻ, trái “lật”, ban đêm ngủ ở trên cây, cho nên mới gọi là “thời ở trong ổ” [Sào thị chi dân]. Đời xưa, con người không có quần áo, mùa hè chất chứa cành cây để mùa đông đốt mà sưởi, cho nên gọi là “thời biết cách sống” [tri sinh chi dân]. Thời Thần Nông người ta ngủ ngon, sáng dậy thư thái. Người ta chỉ biết có mẹ mà không biết có cha, sống chung với hưu nai, cày ruộng mà ăn, dệt vải mà mặc, không có ý hại lẫn nhau. Đó là thời Đức tuyệt cao. Nhưng rồi Hoàng Đế kém đức, giao chiến với Si Vưu ở cánh đồng Trác Lộc, máu chảy tới trăm dặm; Thang đuổi vua đi, Võ vương giết Trụ. Từ đó về sau, kẻ mạnh ức hiếp kẻ yếu, đa số đàn áp thiểu số. Từ Thang, Võ tới nay, chỉ toàn là bọn gây loạn thôi. Mà bây giờ mày muốn theo đạo vua Văn, vua Võ, nắm ngôn luận trong thiên hạ để dạy đời sau. Mày bận áo rộng tay [áo của Nho sĩ], đeo cái đai hẹp kia, dùng xảo ngôn và hành vi giả dối để mê hoặc bọn vua chúa trong thiên hạ, mà mong được phú quí. Đạo tặc bậc nhất là mày đấy. Tại sao thiên hạ không gọi mày là thằng tướng cướp Khâu mà lại gọi tao là thằng tướng cướp Chích?


    Còn nữa.

  2. The Following User Says Thank You to doancongtu For This Useful Post:

    taothao (11-11-2015)

  3. #2
    Senior Member
    Tham gia ngày
    Jul 2013
    Bài gửi
    170
    Thanks
    23
    Thanked 21 Times in 16 Posts
    Trang Tử Nam Hoa Kinh

    ĐẠO CHÍCH
    (Trộm cắp)



    Tiếp theo

    Mày dùng lời ngọt ngào để dụ dỗ Tử Lộ theo mày; nó bỏ cái mũ cao, cây kiếm dài đi, theo học mày, và thiên hạ đều khen Khổng Khâu biết ngăn bạo hành, cấm điều trái. Nhưng rốt cuộc, Tử Lộ muốn giết vua nước Vệ mà thất bại, bị vua Vệ bằm thây làm mắm ở cửa Đông kinh thành; vậy là giáo dục của mày lầm lẫn rồi. Mầy tự hào là bậc thiên tài, thánh nhân ư? Mày bị đuổi hai lần ở Lỗ, bị trục xuất khỏi Vệ, bị khốn đốn ở Tề, bị vây ở khoảng giữa Trần và Thái, khắp thiên hạ không còn chỗ nào để dung thân. Mày dạy Tử Lộ mà khiến thây nó bị băm ra làm mắm. Như vậy là cái Đạo của mày không ích gì cho mầy và cho người, có đáng cho ai nghe không? Trên đời không ai được tôn sùng bằng Hoàng Đế, mà đức của Hoàng Đế cũng không hoàn toàn, gây chiến ở đồng Trác Lộc, máu chảy trăm dặm. Nghiêu làm cha thì bất từ, Thuấn làm con thì bất hiếu, Vũ bán thân bất toại [6] ; Thang đuổi vua Kiệt đi, Võ vƣơng giết vua Trụ. Văn vƣơng bị giam ở Dữu Lí [7] . Sáu [8] ông đó đƣợc thiên hạ đề cao đấy. Nhưng xét cho kĩ, họ đều bị cái lợi mê hoặc mà mất bản chân, khiến họ làm ngược lại bản tính của họ; hành vi của họ thật đáng xấu hổ. Hạng người mà thiên hạ khen là hiền thì có Bá Di, Thúc Tề. Hai ông ấy từ chối ngôi vua nước Cô Trúc để rồi chết đó trên núi Thú Dương, thịt xương không ai chôn cho. Bảo Tiêu tô điểm đức hạnh mà chê bai người đời, sau phải ôm cây mà chết [9]. Thân Đồ Địch can vua, vua không nghe, rồi ôm đá gieo mình xuống sông, làm mồi cho cá và ba ba [10]. Giới Tử Thôi rất trung quân, tự cắt đùi để nuôi Tấn Văn công trong khi bỏ nƣớc mà đi, sau Văn công quên công Tử Thôi, Tử Thôi giận, bỏ vô rừng, ôm cây mà chịu chết thiêu. Vĩ Sinh[11] hẹn với một người con gái ở dưới cầu, nàng không đến; nước sông dâng lên, Vĩ Sinh không về, ôm cột cầu mà chịu chết đuối. Sáu người đó chết không khác gì con chó bị giết, con heo bị nhận nước, tên hành khất cầm cái bầu đi xin ăn. Họ đều ham danh mà khinh chết, không nhớ tới cái điều căn bản là di dưỡng tuổi thọ. Hạng người mà thiên hạ khen là trung thần, không ai bằng Tỉ Can và Ngũ Tử Tư[12], mà Tử Tư thì bị ném thây xuống sông, Tỉ Can bị moi tim. Hai ông ấy được gọi là trung thần ấy, rốt cuộc bị thiên hạ cười chê, như vật thì có gì đâu mà đáng khen. Khâu, mày muốn thuyết tao, đem chuyện quỉ thần ra nói thì tao không biết; chứ nói chuyện ngƣời thì bất quá chỉ như vậy, tao biết cả rồi. Tao nói về tình người cho mày nghe này: mắt ưa sắc đẹp, tai ưa tiếng êm đềm, miệng muốn nếm vị ngon, chí khí (tức hoài bảo) muốn đƣợc thoả mãn. Người ta thượng thọ thì trăm tuổi, trung thọ thì được tám mươi, hạ thọ được sáu mươi; mà trừ những lúc đau ốm suy yếu, những lúc có tang, buồn rầu lo lắng ra, thì mỗi tháng chỉ còn bốn năm ngày mở miệng ra cười được thôi. Trời với đất vô cùng, kiếp ngƣời hữu hạn, đem cái thời gian hữu hạn gởi vào trong cái khoảng vô cùng thì không khác gì bóng câu qua cửa[13]. Kẻ nào không biết thoả mản ý chí, giữ gìn thọ mệnh thì không hiểu gì về Đạo cả. Những lời nói của mày, Khâu, tao không chấp nhận được. Dông đi, về ngay đi, đừng nói thêm nữa! Cái Đạo của mày điên rồ vô nghĩa, xảo trá, hư nguỵ, không làm cho người ta bảo toàn được chân tính, không đáng đem ra bàn.


    Vạn thế sư biểu - Khổng Tử

    Khổng Tử vái hai vái rồi vội vàng chạy ra cửa, lên xe ba lần mới nắm được dây cương vì hoảng hốt, mắt không thấy rõ, mặt tái như tro tàn, ngồi dựa vào cái đòn ở trước xe, đầu cuối xuống, thở không ra hơi. Về tới phía ngoài cửa Đông kinh đô Lỗ thì gặp Liễu Hạ Quí. Liểu Hạ Quí hỏi:
    - Mấy bữa rày không thấy mặt ông đâu. Mà sao xe và ngựa có vẻ nhƣ đi xa mới về. Bộ ông đi thăm thằng Chích về phỏng?
    Khổng Tử ngẩng mặt lên trời thở dài:
    - Phải. - Thế nó có nói gì trái ý ông như tôi đoán không?
    - Có. Khâu tôi như người vô bệnh mà để người ta châm cứu vậy. Tôi đã chạy lại xoa đầu, vuốt râu cọp, suýt nữa bị cọp nhai.

    Theo Trang Tử Nam Hoa Kinh của Nguyễn Hiến Lê
    <><><><><>
    Ghi chú:

    [1] Liễu Hạ Quí tức Liễu Hạ Huệ, họ Triển, tên Cầm, nhà ở dưới gốc cây liễu, nên gọi là Liễu Hạ, nổi tiếng là trong sạch. Đạo Chích là tên cướp tên Chích, theo Tư Mã Thiên, sống đời Hoàng Đế. Bài này chỉ là ngụ ngôn vì Liểu Hạ Huệ, Đạo Chích và Khổng Tử sống ba thời khác nhau.
    [2] Nguyên văn: quán chi mộc chi quan: đội cái mũ tua tủa như nhánh cây.
    [3] Ý nói: đồ ăn hại.
    [4] Mỗi thước hồi đó khoảng một gang tay.
    [5] Nước Tề ở bờ biển.
    [6] Vua Nghiêu giết con trưởng, có sách nói là không truyền ngôi cho con – Vua Thuấn cưới vợ mà không xin phép cha mẹ - Vua Vũ lo việc trị thuỷ (trừ cảnh lụt cho dân), dầm mưa dãi nắng mà sinh bệnh.
    [7] Văn vương khi còn là Tây Bá bị vua Trụ giam bảy năm.
    [8] Có sách bảo sỡ dĩ có sáu ông là vì Văn Vương được người sau thêm vào, có sách sửa lại là “bảy”.
    [9] Bảo Tiêu là một ẩn sĩ đời Chu, không vợ con, vô rừng ở, lượm trái cây mà ăn. Tử Cống nói khích: “Ông chê Chu mà ở trên đất của Chu, ăn trái cây của Chu. Như vậy có phải không?”. Bảo Tiêu bèn ôm cây mà chết khô.
    [10] Truyện Thân Đồ Địch đã chép trong chương VI và XXVI.
    [11] Giới Tử Thôi, cũng gọi là Giới Chi Thôi, trốn theo thái tử Trùng Nhĩ, sau thành Tấn Văn Công. Tấn Văn công thưởng các ngƣời tòng vong mà quên ông, ông cõng mẹ vào núi ở. Văn Công hối hận mời Thôi ra, Thôi không ra; Văn Công đốt núi để ông phải ra, nhưng ông ở lì trong núi mà chụi chết thiêu. Hôm đó là ngàu mồng 3 tháng 3. Từ đó, vua ra lệnh này ấy cấm lửa, phải ăn nguội, để kỉ niện Thôi. Tết đó là Tết Hàn thực – Vĩ Sinh là người nƣớc Lỗ thời Chiến Quốc.
    [12] Tỉ Can – chương Nhân gian thế bài 1. Ngũ Tử Tư tên là Viên, giúp Ngô Vương Phù Sai thắng Việt vuơng Câu Tiển, sau vì can gián Phù Sai, Phù Sai ghét, bắt tự tử rồi ném thây xuống sông.
    [13] Nguyên văn: kì kí chi quá khích dã, là con ngựa kì ngựa kí (loài ngựa chạy rất nhanh) vụt qua kẻ tường (hoặc một chỗ nứt ở đất, theo L.K.h.)


  4. The Following User Says Thank You to doancongtu For This Useful Post:

    taothao (11-11-2015)

  5. #3
    Administrator
    Tham gia ngày
    Dec 2011
    Bài gửi
    2.162
    Thanks
    156
    Thanked 334 Times in 280 Posts
    Có đọc "Đạo Chích" mới thấy ông Trang Chu quả là cuồng ngôn, ngạo mạn. Ông không chỉ mạt sát đời mà còn phỉ báng Nho gia, mạt sát Khổng Tử đến thậm tệ.

    Dưới mắt ông, Khổng Tử chẳng khác chú hề, dã tràng xe cát, cũng vã mồ hôi hột, run rẩy, lập cập , khiếp nhược (chẳng còn tư cách của "người quân tử"), cũng xum xoe nịnh bợ (Chích)...

    Ngòi bút của Trang Tử khiến người đọc rùng mình ớn lạnh nhưng lại có cảm giác thích thú sau mỗi lần nổi da gà .
    Shaojiazhuangzhu 韶家庄主 — 韶玉山

  6. The Following User Says Thank You to thieugia For This Useful Post:

    taothao (11-11-2015)

  7. #4
    Senior Member
    Tham gia ngày
    Jul 2013
    Bài gửi
    170
    Thanks
    23
    Thanked 21 Times in 16 Posts
    Ngư Phủ
    (Lão hàng chài)

    Khổng Tử đi chơi trong rừng Màn Đen, ngồi nghỉ trên Gò hạnh[1]. Trong khi môn đệ đọc sách, Khổng Tử gãy đàn cầm và hát, chưa được nửa khúc thì thấy một ông chài ghé thuyền tiến lại, râu và lông mày đều bạc, tóc xoã, tay áo phe phẩy[2], lên tới chỗ cao rồi ngừng lại, tay trái đặt lên đầu gối, tay phải chống cằm, ngồi nghe. Khi khúc hát chấm dứt ông lão vẫy Tử Cống và Tử Lộ tới, rồi trỏ Khổng Tử, hỏi:
    - Ai vậy?
    Tử Lộ đáp:
    - Vị quân tử nước Lỗ.
    - Họ gì?
    - Họ Khổng.
    - Thầy Khổng đó làm nghề gì?
    Tử Lộ làm thinh. Tử Cống đáp:
    - Thầy Khổng bản tính trọng trung tín, thi hành nhân nghĩa, sửa đổi lễ nhạc, chăm sóc nhân luân[3] , trên đối với vua thì trung, dưới thì giáo hoá dân chúng, làm lợi cho thiên hạ. Đó, thầy Khổng làm những việc ấy.
    Ông lão lại hỏi:
    - Có làm vua người nào không?
    Tử Cống đáp:
    - Không.
    - Thế có phò tá cho một ông vua nào không?
    - Không.
    Ông lão cười, quay trở về, vừa đi vừa nói:
    - Có lòng nhân thật đấy, nhưng ta ngại rằng thầy ấy không tự cứu được đâu. Đã khổ tâm, mệt thân mà lại nguy cho cái bản chân. Hởi ơi, như vậy là rời cái Đạo quá xa.


    Tử Cống trở về kể lại cho Khổng Tử nghe. Khổng Tử đẩy cây đàn cầm qua một bên, đứng dậy bảo:
    - Ông ấy là bậc thánh chăng?
    Rồi bước xuống gò, đi tìm ông lão, tới bờ thì thấy ông lão đương chống cái sào có móc [dùng để kéo thuyền]. Thấy Khổng Tử, ông ta quay lại, đứng yên. Khổng Tử lùi lại, vái hai vái rồi tiến tới. Ông lão hỏi:
    - Thầy muốn gì?
    Khổng Tử đáp:
    - Vừa rồi cụ nói chưa hết lời rồi đi. Khâu tôi ngu muội, không hiểu ý cụ, nên xin phép cụ đứng dưới gió[4], mong được cụ chỉ giáo chỗ kém cõi của tôi.
    - A, thầy chịu học hỏi thật!
    Khổng Tử vái hai vái nữa rồi đứng ngay lại, thưa:
    - Khâu tôi ham học từ hồi trẻ, tới bây giờ sáu mươi chín tuổi, chưa được nghe lời chí lí nào, cho nên đâu dám không hư tâm để học thêm?
    Ông lão bảo:
    - Luật tự nhiên trong vũ trụ là đồng thanh tương ứng, đồng loại tương tòng[5]. Tôi xin đem sở đắc của tôi để luận hành vi của thầy. Hành vi của ngài thuộc về nhân sự. Nếu thiên tử, chư hầu, đại phu và dân chúng, bốn hạng người đó cùng làm tròn phận sự của mình thì xã hội cực trị rồi; trái lại, nếu không làm tròn phận sự của mình thì không loạn gì bằng. Cho nên quan lại phải làm hết sức của mình, dân phải lo công việc của mình, không vượt cái phận của mình [thì mới hết loạn]. Ruộng nương bỏ hoang, nhà cửa dột nát, ăn mặc không đủ, thuế má không nộp, vợ chồng không hoà thuận nhau, trẻ không kính già, đó là điều đáng lo cho dân thường. Không làm tròn nhiệm vụ, bỏ bê việc quan, không thanh liêm, người dưới quyền làm biếng, công nghiệp, thanh danh không có gì đáng khen, tước lộc không giữ được, đó là điều đáng lo của các quan đại phu. Triều đình không có trung thần, quốc gia hỗn loạn, bách công kĩ nghệ không khéo, phẩm vật để tiến cống [thiên tử] không tốt, xuân thu hai kì triều bái thiên tử thì tới trễ, không theo mệnh lệnh thiên tử, đó là điều đáng lo cho chư hầu. Âm dương bất hoà, nóng lạnh không hợp thời tiết làm hại cho vạn vật, chư hầu bạo loạn, đánh chiếm lẫn nhau khiến dân tàn mạt, lễ nhạc không có pháp độ, tài chính thiếu thốn, nhân luân không giữ được, trăm họ dâm loạn, đó là điều đáng lo của thiên tử. Nay thầy, trên không có quyền thế của một thiên tử hay một chư hầu, dưới không có quan chức của một đại thần mà đòi sửa đổi lễ nhạc, chăm sóc nhân luân, để giáo hoá dân chúng, chẳng là đa sự quá ư? Vả lại người ta có tám cái tật, sự việc có bốn cái đáng lo, điều đó không thể không xét được: Không phải việc của mình mà mình làm, như vậy là lạm[6]; người ta không muốn nghe mà mình cứ cố khuyên bảo, như vậy là “nịnh”[7]; đoán trước ý người để làm vừa lòng người, như vậy là hót, siểm; chẳng lựa phải trái [cứ nói theo ý người ta], như vậy là a dua; thích vạch cái xấu của người, như vậy là gièm pha; làm cho bạn bè người ta giận nhau, thân thích người ta xa nhau, như vậy là gây loạn (tặc); khen kẻ gian trá, bài xích kẻ khác mình, như vậy là gian tà; chẳng phân biệt tốt hay xấu, cứ dong nạp hết ngầm gợi điều người ta thích, như vậy là hiểm. Tám tật ấy, ngoài thì làm loạn người khác, trong thì làm loạn cho bản thân, người quân tử không kết bạn với bọn người ấy, mà vua chúa không dùng họ làm bề tôi. Bốn điều đáng lo là: thích kinh doanh việc lớn, thay đổi chế độ cũ để cầu danh, như vậy là quá lạm (thao); tự cho mình là thông minh mà chuyên quyền, xâm lấn người ta, chỉ theo ý mình, như vậy là tham; biết lỗi mà không sửa, người can mà không nghe, lại còn làm điều ác hơn nữa, như vậy là lì (ngận); đồng ý với mình thì khen, trái ý mình thì chê, như vậy là kiêu căng. Chỉ người nào bỏ được tám tật và tránh được bốn điều đáng lo kể trên thì mới có thể dạy được.
    Khổng Tử xấu hổ thở dài, lại cuối xuống, vái hai vái rồi ngửng lên, thưa:
    - Khâu tôi bị đuổi hai lần ở nước Lỗ, bị trục xuất khỏi Vệ, bị khốn đốn ở Tề; ở Tống người ta đốn cây dưới đó tôi đã ngồi, rồi bị vây ở khoảng giữa Trần và Thái[8], tôi không biết đã mắc lỗi gì mà bị bốn lần gièm pha như vậy.
    Ông lão để lộ vẻ buồn rầu, đáp:
    - Thầy khó giác ngộ thật! Một người sợ cái bóng của mình, ghét những vết chân của mình bèn chạy trốn; nhưng càng bước nhiều thì vết chân càng nhiều, càng chạy mau thì cái bóng càng theo bén gót; thấy như vậy vẫn còn chậm lại càng ráng chạy mau hơn nữa, không ngừng, tới nỗi kiệt lực mà chết. Người đó cực ngu, không biết rằng đứng vào chỗ tối thì sẽ không còn thêm vết chân của mình nữa[9]. Thầy cũng vậy, xét về nhân nghĩa, phân biệt sự đồng dị (giống nhau và khác nhau), coi sự biến hoá của động tĩnh, tìm qui tắc để thích nghi sự cho và sự nhận, điều lí các tình cảm yêu và ghét, điều tiết sự vui thích và giận dữ, thì làm sao tránh được tai hoạ. Thầy nên cẩn thận sửa mình, giữ gìn bản chân để cho người và vật tự thích nghi[10], thì sẽ tránh được tai hoạ. Nay thầy không sửa mình, mà lại đi cầu ở người [hoặc trách người], như vậy chẳng là quá coi trọng ngoại vật ư?
    Khổng Tử xấu hổ, hỏi:
    - Xin cụ giảng cho thế nào là bản chân?
    Ông lão đáp:
    - Bản chân là cái cực tinh thành. Không tinh thành thì không cảm động người được. Cho nên kẻ gượng khóc thì bề ngoài tuy bi thảm mà trong lòng không thương tiếc; kẻ làm bộ giận thì tuy nghiêm mà không uy; kẻ gượng thân ái thì tuy cười mà không thật vui vẻ. Thực bi thảm thì không gào khóc mà trong lòng thương tiếc; thực giận dữ thì tuy chưa lộ sắc giận mà đã uy nghiêm; thực thân ái thì tuy không cười mà đã vui vẻ. Bản chân ở trong lòng thì tinh thần biểu lộ ra ngoài, vì vậy mà người ta quí cái bản chân. Đem bản chân dùng vào phương diện nhân luân như thờ cha mẹ thì hiếu thuận, thờ vua thì trung trinh, uống rượu thì vui, đưa ma thì buồn. Trong sự trung trinh, cần nhất là lập công; trong sự uống rượu, cần nhất là vui; trong sự đưa ma, cần nhất là sự buồn thảm; trong sự thờ cha mẹ, thì cần nhất là làm cho cha mẹ vui lòng; thành công có nhiều cách, không phải chỉ có một đường mà thôi. Như thờ cha mẹ thì cần làm vui lòng cha mẹ, bất luận dùng cách nào; uống rượu cần vui, bất luận dùng thứ chén nào; đưa ma cần bi thảm, chẳng cần biết nghi lễ. Lễ là do thế tục đặt ra; còn bản chân là cái trời cho, nó tự nhiên, không hề biến đổi. Cho nên thánh nhân lấy trời làm phép tắc và quí bản chân, không câu nệ thế tục; còn kẻ ngu thì trái lại, không biết lấy trời làm phép tắc mà chỉ lo không hợp với thế tục, không biết quí bản chân mà chỉ theo mọi người, bị thế tục biến hoá, cho nên lòng không thoả mãn[11]. Tiếc thay, thầy sớm chìm đắm vào sự giả dối, trễ rồi mới được nghe giảng về đại Đạo.

    Đọc tiếp trang sau

  8. #5
    Senior Member
    Tham gia ngày
    Jul 2013
    Bài gửi
    170
    Thanks
    23
    Thanked 21 Times in 16 Posts
    Ngư Phủ


    Tiếp theo

    Khổng Tử lại vái hai vái, rồi ngửng lên, thưa:
    - Hôm nay tôi gặp được cụ thật là may mắn, do trời dun giủi. Xin tiên sinh đừng lấy là xấu hổ mà cho tôi được phục dịch, và đích thân dạy dỗ tôi. Xin cho biết tiên sinh ở đâu để tôi tới thụ nghiệp mà học đại Đạo.
    Ông lão đáp:
    - Tôi nghe nói: Kẻ nào theo nổi mình thì hãy dắt kẻ đó tới cái Đạo huyền diệu, bằng không thì đừng dắt dẫn, như vậy mình mới khỏi mang lỗi. Thầy gắng sức đi. Thôi tôi đi đây.
    Dứt lời, ông lão xô thuyền ra rồi biến mất trong đám lau. Nhan Uyên quay xe lại, Tử Lộ chìa cho Khổng Tử sợi dây để nắm leo lên xe, nhưng Khổng Tử không quay lại, đợi cho nước hết gợn sóng, không nghe thấy tiếng động của chiếc thuyền nữa rồi mới dám lên xe. Tử Lộ ngồi ở một bên, hỏi thầy:
    - Con phục dịch thầy đã từ lâu, chưa hề thấy thầy kính sợ ai như vậy. Ông vua các nước có vạn cổ xe và ngàn cổ xe hễ tiếp thầy thì coi thầy như ngang hàng, mà thầy còn có vẻ ngạo mạn là khác nữa. Nay ông chài đó đứng chống cái sào trước mặt thầy mà thầy cúi gập mình xuống, vái hai vái rồi mới đáp, như vậy chẳng thái quá ư? Bọn chúng con đều lấy làm lạ, ông chài đó có cái gì mà được thầy kính trọng tới mức đó?
    Khổng Tử cúi dựa vào cái thanh ngang của xe, thở dài:
    - Do (tên Tử Lộ), anh thật là khó cải hoá. Anh hụp lặn trong lễ nghĩa bao lâu nay rồi mà chưa bỏ được cái lòng bỉ lậu ấy đi. Lại đây, ta nói cho nghe. Gặp người già mà không biết kính thì không biết lễ; thấy người hiền mà không biết tôn thì là không có đức nhân. Nếu ông lão ấy không phải là bậc chí nhân thì làm sao khiến cho người khác phải cúi mình ngưỡng mộ; cúi mình ngưỡng mộ mà không chân thành thì là mất bản chân mà hại cho bản thân. Ôi! Không có lỗi nào lớn bằng bất nhân mà anh mắc đúng cái lỗi ấy. Vả lại, Đạo sinh ra vạn vật; vật nào mất cái Đạo thì chết, có nó thì sống, hành động trái nó thì thất bại, thuận nó thì thành công. Cho nên thánh nhân tôn trọng Đạo, bất luận là nó ở đâu. Có thể bảo rằng ông lão đánh cá ấy có được cái Đạo, làm sao ta không kính ông?

    Chú thích:
    [1] Cây hạnh tức cây mận ngoài Bắc (VN), tựa như cây mơ.
    [2] Nguyên văn: bị phát du duệ. L.K.h. dịch là tóc dày, cổ tay áo vén lên.
    [3] Nguyên văn: tuyển nhân luân. D.N.L. dịch là: tuyển chọn nhân tài.
    [4] Lời nói nhún, người dưới nói chuyện với người trên thì đứng ở dưới gió.
    [5] Nghĩa là cùng một loại thì theo nhau.
    [6] Quá lạm, tức như lấn.
    [7] Chữ nịnh ở đây nên hiểu là giả đạo đức hoặc thích khéo nói
    .

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •